Kỷ niệm 100 năm Năm sinh Nhà cách mạng Tô Hiệu (1912-2012)
_ Trường Chính Trị Tô Hiệu Thành Phố Hải Phòng _
Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912, là con út trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, quê hương của phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy nổi danh trong cả nước.
Họ Tô nhiều đời là dòng họ khoa bảng, yêu nước. Cụ nội đồng chí Tô Hiệu là cụ Tô Ngọc Nữu, đốc học Nam Định. Khi Tự Đức ký hiệp định đầu hàng pháp, cụ từ chức về quê dạy học. Cụ kết thân với cụ Ngô Quang Huy, đốc học Bắc Ninh, sau này là ông ngoại của đồng chí Tô Hiệu. Cũng như cụ Nguyễn Thiện Thuật, cụ Ngô Quang Huy được vua Hàm Nghi phong tước Tán Tương quân vụ. Cụ là một lãnh tụ rất có uy tín trong phong trào Bãi Sậy do cụ Nguyễn Thiện Thuật (tức Tán Thuật) lãnh đạo. Bà Ngô Thị Lý, con gái danh tướng Ngô Quang Huy, thân mẫu đồng chí Tô Hiệu, được nhân dân địa phương kính trọng vì lòng yêu nước quả cảm, có công nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ cách mạng, đã được suy tôn là nhưũng bà mẹ tiêu biểu, gương mẫu của phong trào phụ nữ cách mạng tỉnh Hải Hưng trước đây (nay là tỉnh Hưng Yên).
Phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương, ngay từ năm 14 tuổi, khi đang theo học ở trường Pháp - Việt ở thị xã Hải Dương, đồng chí Tô Hiệu đã tham gia các phong trào yêu nước của học sinh như bãi khoá, truy điệu, để tang cụ Phan Châu Trinh, tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu. Vì vậy, năm 1926, đồng chí Tô Hiệu bị đuổi học.
Từ năm 1927 – 1928, đồng chí lên Hà Nội, ở nhà anh cả Tô Tu để học cao đẳng tiểu học. Trong thời gian này, đồng chí tiếp tục tham gia các hoạt động đấu tranh cách mạng. Qua thử thách, năm 1929, đồng chí được kết nạp vào Học sinh đoàn, một tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.
Cuối năm 1929, đồng chí vào Sài Gòn hoạt động cùng với anh ruột là Tô Chấn, một lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Trong thời gian bị giam cầm tại Côn Đảo, đồng chí kiên cường tham gia đấu tranh trong tù, tích cực học tập lý luận cách mạng, được bồi dưỡng và trở thành đảng viên cộng sản giàu nhiệt huyết và có bản lĩnh vững vàng.
Năm 1934, mãn hạn tù Côn Đảo về, đồng chí bị thực dân Pháp quản thúc tại làng Xuân Cầu. Trong thời gian bị quản thúc tại quê hương, với tinh thần trách nhiệm cao, quan tâm đến giáo dục, đào tạo thế hệ cách mạng cho mai sau, đồng chí đã vận động nhân dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng Trường Kiêm Bị Xuân Cầu. Bản thân đồng chí còn trực tiếp dạy học ở quê hương.
Mặc dù bị quản thúc nhưng đồng chí không chịu khuất phục, vừa gây dựng phong trào cách mạng ở quê hương, vừa tìm mọi cách vượt qua sự bao vây, phong toả của địch để bắt liên lạc với Đảng. Năm 1936, đồng chí Tô Hiệu cùng các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) và nhiều đồng chí khác xây dựng lại hệ thống tổ chức Đảng và chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng đòi dân sinh, dân chủ ở Hà Nội và vùng phụ cận. Tại một cuộc họp trên căn gác ở phố Hàng Bột, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã được thành lập, đồng chí Tô Hiệu được bầu là Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ, phụ trách các tỉnh miền duyên hải, lấy Hải Phòng làm trung tâm. Đồng chí đã tổ chức lại ban chỉ đạo các tỉnh, thành và lãnh đạo các cuộc đấu tranh lớn ở Thành phố Hải Phòng.
Tháng 2/1939, đồng chí được Trung ương phân công về phụ trách Liên khu B (bao gồm các tỉnh miền duyên hải Bắc Bộ và Hải Dương, Hưng Yên), trực tiếp làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Đồng chí Tô Hiệu đã tích cực chỉ đạo, đưa phong trào cách mạng ở thành phố Cảng lên cao, gây nhiều tiếng vang mạnh mẽ trong và ngoài nước, tiêu biểu như cuộc bãi công của 1000 thợ xẻ (4/1939), 1500 công nhân Cảng (5/1939) và đặc biệt là cuộc bãi công của hơn 3000 công nhân Nhà máy Tơ Hải Phòng…
Ngày 1/12/1939, đồng chí Tô Hiệu đến cơ sở in ở xóm thợ Thượng Lý (Hải Phòng) kiểm tra việc in truyền đơn chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới thì bị địch bắt. Mặc dù kẻ thù tra tấn dã man, ra sức mua chuộc, chuyển qua hết đề lao Hải Phòng lại Hoả Lò (Hà Nội) nhưng không thể lay chuyển được ý chí cách mạng kiên cường của đồng chí Tô Hiệu. Cuối tháng 12/1939, chúng đã xử mức án 5 năm tù và đày đồng chí đi Nhà tù Sơn La. Cũng thời gian này, Chi bộ nhà tù Sơn La được thành lập. Tháng 02/1940, đồng chí Tô Hiệu được cử làm chi uỷ viên. Tháng 5/1940, Đại hội chi bộ bí mật được triệu tập, quyết định các chủ trương, công tác và cử đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư chi bộ.
Cuộc sống gian khổ ở nhà tù kéo dài và bệnh tật đã tàn phá sực khoẻ của đồng chí Tô Hiệu. Đến tháng 10 năm 1941, đồng chí Tô Hiệu thôi không giữ chức Bí thư chi bộ nhà tù, song vẫn là cố vấn đặc biệt tin cậy của Chi uỷ và Trưởng ban huấn luyện, đào tạo cán bộ của nhà tù. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ nhà tù, tổ chức đời sống trong tù rất quy mô và khoa học. Đã thành lập Uỷ ban Nhà tù để lãnh đạo mọi mặt. Uỷ ban nhà tù lại tổ chức ra các ban: Trật tự trong, trật tự ngoài, Kinh tế, Cứu tế, Hồng thập tự, Đối ngoại, Sản xuất, Dân vận, Binh vận, Học tập và xuất bản báo Suối Reo…để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho anh em tù nhân, tôi luyện bản lĩnh và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng. Cuối năm 1942, Chi bộ Nhà tù Sơn La đã được Ban Chấp hành Trung ương và Xứ uỷ Bắc kỳ công nhận là Chi bộ đặc biệt, phụ trách nhà tù Sơn La và phong trào cách mạng ở tỉnh Sơn La.
Do căn bệnh hiểm nghèo và chế độ hà khắc của nhà tù, vào hồi 10 giờ 15 phút, đồng chí Tô Hiệu hy sinh tại Nhà tù Sơn La ở tuổi ba mươi hai trong niềm tiếc thương vô hạn của anh em, đồng chí. Đồng chí được an táng tại Vườn Ổi (Nghĩa trang nhà tù Sơn La).
Có thể nói, cả cuộc đời hoạt động cách mạng đồng chí Tô Hiệu là một tấm gương yêu nước, một chiến sỹ cộng sản kiên trung thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng trọn đời chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của cả dân tộc. Đồng thời, đồng chí còn là một người thầy cách mạng cho nhiều thế hệ cán bộ của Đảng trong những năm tháng đấu tranh giành chính quyền. Những đóng góp của đồng chí cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã mang một dấu ấn đặc biệt sâu sắc, nhất là đối với nhân dân thành phố Cảng thân yêu.
Trong thời gian là Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, Tô Hiệu chú trọng công tác tuyên truyền với nhiều hình thức linh hoạt như rải truyền đơn, dán áp phích... và đặc biệt là phương thức đấu tranh trên lĩnh vực báo chí. Đồng chí đã sáng lập ra tờ Chiến đấu, cơ quan tuyên truyền của liên tỉnh B, bản thân đồng chí vừa là chủ bút, vừa là phóng viên. Đồng chí còn đào tạo. giác ngộ nhiều cán bộ cách mạng.
Họ Tô nhiều đời là dòng họ khoa bảng, yêu nước. Cụ nội đồng chí Tô Hiệu là cụ Tô Ngọc Nữu, đốc học Nam Định. Khi Tự Đức ký hiệp định đầu hàng pháp, cụ từ chức về quê dạy học. Cụ kết thân với cụ Ngô Quang Huy, đốc học Bắc Ninh, sau này là ông ngoại của đồng chí Tô Hiệu. Cũng như cụ Nguyễn Thiện Thuật, cụ Ngô Quang Huy được vua Hàm Nghi phong tước Tán Tương quân vụ. Cụ là một lãnh tụ rất có uy tín trong phong trào Bãi Sậy do cụ Nguyễn Thiện Thuật (tức Tán Thuật) lãnh đạo. Bà Ngô Thị Lý, con gái danh tướng Ngô Quang Huy, thân mẫu đồng chí Tô Hiệu, được nhân dân địa phương kính trọng vì lòng yêu nước quả cảm, có công nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ cách mạng, đã được suy tôn là nhưũng bà mẹ tiêu biểu, gương mẫu của phong trào phụ nữ cách mạng tỉnh Hải Hưng trước đây (nay là tỉnh Hưng Yên).
Phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương, ngay từ năm 14 tuổi, khi đang theo học ở trường Pháp - Việt ở thị xã Hải Dương, đồng chí Tô Hiệu đã tham gia các phong trào yêu nước của học sinh như bãi khoá, truy điệu, để tang cụ Phan Châu Trinh, tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu. Vì vậy, năm 1926, đồng chí Tô Hiệu bị đuổi học.
Từ năm 1927 – 1928, đồng chí lên Hà Nội, ở nhà anh cả Tô Tu để học cao đẳng tiểu học. Trong thời gian này, đồng chí tiếp tục tham gia các hoạt động đấu tranh cách mạng. Qua thử thách, năm 1929, đồng chí được kết nạp vào Học sinh đoàn, một tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.
Cuối năm 1929, đồng chí vào Sài Gòn hoạt động cùng với anh ruột là Tô Chấn, một lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Trong thời gian bị giam cầm tại Côn Đảo, đồng chí kiên cường tham gia đấu tranh trong tù, tích cực học tập lý luận cách mạng, được bồi dưỡng và trở thành đảng viên cộng sản giàu nhiệt huyết và có bản lĩnh vững vàng.
Năm 1934, mãn hạn tù Côn Đảo về, đồng chí bị thực dân Pháp quản thúc tại làng Xuân Cầu. Trong thời gian bị quản thúc tại quê hương, với tinh thần trách nhiệm cao, quan tâm đến giáo dục, đào tạo thế hệ cách mạng cho mai sau, đồng chí đã vận động nhân dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng Trường Kiêm Bị Xuân Cầu. Bản thân đồng chí còn trực tiếp dạy học ở quê hương.
Mặc dù bị quản thúc nhưng đồng chí không chịu khuất phục, vừa gây dựng phong trào cách mạng ở quê hương, vừa tìm mọi cách vượt qua sự bao vây, phong toả của địch để bắt liên lạc với Đảng. Năm 1936, đồng chí Tô Hiệu cùng các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) và nhiều đồng chí khác xây dựng lại hệ thống tổ chức Đảng và chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng đòi dân sinh, dân chủ ở Hà Nội và vùng phụ cận. Tại một cuộc họp trên căn gác ở phố Hàng Bột, Xứ uỷ Bắc Kỳ đã được thành lập, đồng chí Tô Hiệu được bầu là Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ, phụ trách các tỉnh miền duyên hải, lấy Hải Phòng làm trung tâm. Đồng chí đã tổ chức lại ban chỉ đạo các tỉnh, thành và lãnh đạo các cuộc đấu tranh lớn ở Thành phố Hải Phòng.
Tháng 2/1939, đồng chí được Trung ương phân công về phụ trách Liên khu B (bao gồm các tỉnh miền duyên hải Bắc Bộ và Hải Dương, Hưng Yên), trực tiếp làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng. Đồng chí Tô Hiệu đã tích cực chỉ đạo, đưa phong trào cách mạng ở thành phố Cảng lên cao, gây nhiều tiếng vang mạnh mẽ trong và ngoài nước, tiêu biểu như cuộc bãi công của 1000 thợ xẻ (4/1939), 1500 công nhân Cảng (5/1939) và đặc biệt là cuộc bãi công của hơn 3000 công nhân Nhà máy Tơ Hải Phòng…
Ngày 1/12/1939, đồng chí Tô Hiệu đến cơ sở in ở xóm thợ Thượng Lý (Hải Phòng) kiểm tra việc in truyền đơn chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới thì bị địch bắt. Mặc dù kẻ thù tra tấn dã man, ra sức mua chuộc, chuyển qua hết đề lao Hải Phòng lại Hoả Lò (Hà Nội) nhưng không thể lay chuyển được ý chí cách mạng kiên cường của đồng chí Tô Hiệu. Cuối tháng 12/1939, chúng đã xử mức án 5 năm tù và đày đồng chí đi Nhà tù Sơn La. Cũng thời gian này, Chi bộ nhà tù Sơn La được thành lập. Tháng 02/1940, đồng chí Tô Hiệu được cử làm chi uỷ viên. Tháng 5/1940, Đại hội chi bộ bí mật được triệu tập, quyết định các chủ trương, công tác và cử đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư chi bộ.
Cuộc sống gian khổ ở nhà tù kéo dài và bệnh tật đã tàn phá sực khoẻ của đồng chí Tô Hiệu. Đến tháng 10 năm 1941, đồng chí Tô Hiệu thôi không giữ chức Bí thư chi bộ nhà tù, song vẫn là cố vấn đặc biệt tin cậy của Chi uỷ và Trưởng ban huấn luyện, đào tạo cán bộ của nhà tù. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ nhà tù, tổ chức đời sống trong tù rất quy mô và khoa học. Đã thành lập Uỷ ban Nhà tù để lãnh đạo mọi mặt. Uỷ ban nhà tù lại tổ chức ra các ban: Trật tự trong, trật tự ngoài, Kinh tế, Cứu tế, Hồng thập tự, Đối ngoại, Sản xuất, Dân vận, Binh vận, Học tập và xuất bản báo Suối Reo…để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho anh em tù nhân, tôi luyện bản lĩnh và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng. Cuối năm 1942, Chi bộ Nhà tù Sơn La đã được Ban Chấp hành Trung ương và Xứ uỷ Bắc kỳ công nhận là Chi bộ đặc biệt, phụ trách nhà tù Sơn La và phong trào cách mạng ở tỉnh Sơn La.
Do căn bệnh hiểm nghèo và chế độ hà khắc của nhà tù, vào hồi 10 giờ 15 phút, đồng chí Tô Hiệu hy sinh tại Nhà tù Sơn La ở tuổi ba mươi hai trong niềm tiếc thương vô hạn của anh em, đồng chí. Đồng chí được an táng tại Vườn Ổi (Nghĩa trang nhà tù Sơn La).
Có thể nói, cả cuộc đời hoạt động cách mạng đồng chí Tô Hiệu là một tấm gương yêu nước, một chiến sỹ cộng sản kiên trung thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng trọn đời chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của cả dân tộc. Đồng thời, đồng chí còn là một người thầy cách mạng cho nhiều thế hệ cán bộ của Đảng trong những năm tháng đấu tranh giành chính quyền. Những đóng góp của đồng chí cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đã mang một dấu ấn đặc biệt sâu sắc, nhất là đối với nhân dân thành phố Cảng thân yêu.
Trong thời gian là Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, Tô Hiệu chú trọng công tác tuyên truyền với nhiều hình thức linh hoạt như rải truyền đơn, dán áp phích... và đặc biệt là phương thức đấu tranh trên lĩnh vực báo chí. Đồng chí đã sáng lập ra tờ Chiến đấu, cơ quan tuyên truyền của liên tỉnh B, bản thân đồng chí vừa là chủ bút, vừa là phóng viên. Đồng chí còn đào tạo. giác ngộ nhiều cán bộ cách mạng.
Nhiều đồng chí được Tô Hiệu đào tạo ngày ấy, đã trở thành cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước như đồng chí Nguyễn Thanh Bình (nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư), đồng chí Hoàng Ngân (Bí thư Trung ương Hội phụ nữ Cứu quốc Việt Nam), đồng chí Ngô Minh Loan (nguyên Bộ trưởng Bộ Lương thực - Thực phẩm)…Bên cạnh đó, đồng chí Tô Hiệu còn rất quan tâm đến công tác công vận, lấy các cuộc đấu tranh của công nhân làm nòng cốt cho phong trào cách mạng của quần chúng. Do vậy, chỉ trong khoảng từ tháng 3/1939 đến tháng 8/1939, dưới sự chỉ đạo của Thành uỷ Hải Phòng, đứng đầu là đồng chí Tô Hiệu, Hải Phòng đã có tới 30 cuộc đấu tranh, bằng số cuộc đấu tranh của cả hai năm 1937, 1938 cộng lại. Các cuộc đấu tranh do đồng chí Tô Hiệu lãnh đạo đều nổ ra một cách vang dội. Điển hình là cuộc đấu tranh của công nhân Nhà Máy Tơ (5/1939). Báo Bạn Dân ra ngày 21/6/1939 khẳng định đây là “ cuộc đấu tranh kiên quyết nhất, có kỷ luật, có tổ chức, có giác ngộ giai cấp…là một tấm gương tranh đấu cho toàn thể anh em lao động toàn Xứ”. Báo cáo của bọn mật thám thực dân ngày 5/6/1939 ghi “Cuộc đình công ở Nhà máy Tơ là kết quả của một cuộc tuyên truyền, vận động bền bỉ, dẻo dai do một chi bộ hoạt động trong nhà máy chủ trương”.
Trong thời gian ở nhà tù Sơn La, được bầu là Bí thư Chi bộ nhà tù, Tô Hiệu vừa chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, vừa quan tâm thành lập các tổ chức trong nhà tù (vì lúc ấy, tù chính trị ở Sơn la còn có cả những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng). Đồng chí Tô Hiệu đã vượt lên bệnh tật để tổ chức công tác giáo dục trong tù, viết nhiều tài liệu quan trọng cho Chi bộ, mở các lớp chính trị, quân sự, văn hoá, bồi dưỡng giảng viên, hướng dẫn các cuộc đấu tranh…Đặc biệt, trong hoàn cảnh lao tù, Chi bộ đã mở được Đại hội Đại biểu toàn nhà tù bao gồm đại biểu các trại. Đại hội đã thành lập cơ quan điều hành thực hiện Nghị quyết của Đại hội là Uỷ ban Nhà tù, thảo luận chủ trương đấu tranh với bọ thống trị như chánh sứ, giám binh, xếp ngục, binh lính và viên chức của bọn cai trị. Đại hội còn bàn công tác vận động quần chúng và binh lính địch, bàn việc xây dựng đời sống nhà tù cả về chính trị, văn hoá và đời sống vật chất. Sau khi được Đại hội bầu, Uỷ ban Nhà tù đã tổ chức ra các ban giúp việc như Ban kinh tế, Ban Cứu tế, Ban văn hoá giáo dục, Ban trật tự trong, Ban trật tự ngoài…để tuyên truyền cách mạng và đấu tranh với chế độ hà khắc của nhà tù. Từ đó đã có ảnh hưởng tới bên ngoài, ngăn cản được tác động của quy chế và ché độ quản lý hà khắc của nhà tù đế quốc, đồng thời thực hiện được chế độ tự quản rộng rãi trong đời sống chính trị của nhà tù, khai thác đạt hiệu quả cao nhất các điều kiện vật chất eo hẹp của nhà tù. Đời sống vật chất và tinh thần của anh em tù nhân được đảm bảo. Tháng 5/1941, Tô Hiệu và Chi bộ Nhà tù Sơn La đã quyết định cho ra đời báo Suối Reo, cử đồng chí Trần Huy Liệu làm chủ bút. Báo Suối Reo ra đời là một sự kiện lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, cổ vũ động viên rất lớn đối với anh em tù nhân ở Nhà tù Sơn La. Chi bộ Nhà tù Sơn La đã được Trung ương Đảng công nhận là một chi bộ đặc biệt, được nhận Chỉ thị, nghị quyết; có trách nhiệm lãnh đạo người tù bảo vệ cuộc sống, phát triển ảnh hưởng của cách mạng trong đồng bào địa phương…Sau này, nhiều chiến sỹ cộng sản là đảng viên Chi bộ Nhà tù Sơn La đều trở thành những cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội như đồng chí Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Thanh Bình, Mai Chí Thọ,…
Phẩm chất cộng sản kiên trung, bất khuất của Tô Hiệu còn được thể hiện khi đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần hai, tại Hải Phòng. Dù bị bọn mật thám đánh đập dã man, đồng chí vẫn không hề hé răng tiết lộ tài liệu, cơ sở cách mạng. Trong phiên toà xét xử Tô Hiệu và các đồng chí của mình, khi bị luận tội, dù thân thể tàn tạ do bện tật và đòn roi quân thù, đồng chí vẫn hiên ngang, dõng dạc tố cáo tội ác của thực dân Pháp và tay sai, khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc là con đường đúng đắn. Đặc biệt, ý chí sắt đá, kiên trung của Tô Hiệu thể hiện rõ nhất khi đồng chí bị đày ở nhà tù Sơn La. Dù bị đói rét và bệnh lao quái ác hành hạ, Tô Hiệu vẫn quyết không gục ngã. Tô Hiệu cùng với các đồng chí của mình biến nhà tù Sơn La thành trường học cách mạng. Đồng chí đã không ngừng làm việc, viết các bài tuyên truyền, lý luận cách mạng, lãnh đạo các anh em nhà tù đấu tranh với quân thù, khiến bọn cai ngục và chính tên Công sứ Sơn La Cút – xô khét tiếng gian ác phải nể phục, run sợ.
Cuộc đời ngắn ngủi và hào hùng của đồng chí Tô Hiệu đã để lại bài học to lớn về truyền thống cách mạng không chỉ với lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng mà còn của cả dân tộc Việt Nam. Tấm gương hy sinh anh dũng, bất khuất của đồng chí là sự tiếp nối những tấm gương anh hùng, liệt nữ trong lịch sử nước nhà: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Bình Trọng, Nguyễn Trung Trực,…Tinh thần yêu nước “thà chết chứ không chịu làm nô lệ” của con dân nước Việt qua tấm gương Tô Hiệu ở thời đại Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục được nối dài theo từng giai đoạn lịch sử dân tộc, mỗi khi Tổ quốc bị các thế lực ngoại bang dòm ngó.
Bản lĩnh kiên cường, bất khuất, tinh thần lạc quan cách mạng của Tô Hiệu đã trở thành di sản quý báu trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và lịch sử dân tộc Việt Nam. Đến nay, trên khắp đất nước, có hàng trăm trường học, đường phố mang tên Tô Hiệu. Đặc biệt, thành phố Hải Phòng, nơi đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư trong những năm 1938, 1939, một thời được mang tên là thành phố Tô Hiệu, bộ đội Hải Phòng thời lỳ kháng chiến chống Pháp được lấy tên là đơn vị Thành Tô; hiện nay, trường Chính trị của thành phố Hải Phòng có tên là trường Chính trị Tô Hiệu; nói đến nhà tù Sơn La nhiều người vẫn quen gọi là Nhà tù Tô Hiệu…Hình tượng Tô Hiệu và cây đào Tô Hiệu đã trở thành hình tượng văn học, nghệ thuật quen thuộc đối với nhân dân Việt Nam và thế giới.
* Theo “Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 100 năm năm sinh nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu (1912 - 2012)” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hưng Yên (3/2012)
Nội san Số 1/2012
✯✯✯
0 nhận xét:
Post a Comment