Làng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm – Mảnh đất địa linh sinh nhân kiệt

Friday, August 9, 2024

Làng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm – Mảnh đất địa linh sinh nhân kiệt

Truyền hình Hưng Yên

Xuân Cầu

Sunday, August 4, 2024

Giới thiệu chung

Làng Xuân Cầu là một làng có từ lâu đời ở xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Xuân Cầu, xưa kia còn có tên gọi là Hoa Cầu, Huê Cầu, Xuân Kỳ. Làng có từ đời nhà Đường, trong làng còn có 4 giếng đá kiểu Trung Quốc. Đời vua Thiệu Trị, vì kỵ húy đổi là Xuân Kỳ nhưng nhân dân quen dùng tên cũ, mà đọc chệch đi là Huê Cầu. Làng có nghề nhuộm thâm từng đi vào ca dao cổ tích, và món đặc sản là bánh mỡ nổi tiếng. Nhưng gần đây đã thất truyền và trong làng, những di tích xưa cũng không còn.

Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.

 


Đặc sản:

Bánh Xuân Cầu

Bánh Xuân cầu là loại bánh rán mỡ thường được dùng rất phổ biến tại miền Bắc xưa kia, nay đã mai một [2]. Bánh vuông bằng hai ngón tay và mỏng như tờ giấy bản, được bỏ vào chảo chiên phồng, nở phồng với nhiều màu sắc tươi đẹp, ăn với mật ong, có vị ngọt, béo, bùi và thơm [2].

Vải thâm Xuân Cầu

Theo truyền thuyết thì nghề nhuộm vải thâm ở Huê Cầu (Xuân Cầu) cũng có ngót nghét 2.000 năm [1]. Thuốc nhuộm là củ nâuCủ nâu - Dioscorea cirrhosa Lour., thuộc họ Củ nâu - Dioscoreaceae.

Mô tả: Dây leo, thân tròn, nhẵn, có nhiều gai ở gốc, có 1-2 củ mọc từ một mấu ở gốc thân, trên mặt đất, hình tròn, vỏ sần sùi, màu xám nâu, thịt đỏ hay hơi trắng. Lá đơn, hình tim dài độ 20cm, mọc so le ở gần ngọn. Hoa mọc thành bông. Quả nang có cuống thẳng, có cạnh. Hạt có cánh xung quanh.

Bộ phận dùng: Củ - Rhizoma Dioscoreae Cirrhosae, thường có tên là Thự lương.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở vùng rừng núi của nước ta, nhiều nhất ở các tỉnh Lào Cai, Quảng Ninh, Hà Tây, Thanh hoá, Nghệ An. Có khi được trồng. Là cây thường dùng để nhuộm vải lưới cho có màu nâu bền. Cũng dùng để thuộc da. Củ thường được bán ở các chợ nông thôn và thành phố. Tuỳ theo màu sắc của nhựa, màu đỏ nhạt, màu xám nhạt, màu vàng nhạt hay hơi hồng, mà người ta gọi tên Củ nâu dọc đỏ, củ nâu dọc trai và củ nâu trắng. Củ nâu dọc trai dùng nhuộm tốt hơn.

Thành phần hoá học: Củ chứa nhiều tanin catechic (đến 6,4%) và có tinh bột.

Tính vị, tác dụng: Củ nâu có vị ngọt, chua và se, tính bình, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, sát trùng, cầm máu, hoạt huyết, cầm ỉa.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ngoài việc dùng để nhuộm. Củ nâu có thể dùng ăn. Người ta gọt bỏ vỏ ngoài đem ngâm dưới suối nước chảy nhiều ngày đêm cho hết chất chát, mới có thể dùng luộc ăn. Củ nâu được dùng làm thuốc chữa các chứng tích tụ hòn báng, xích bạch đới, băng huyết, ỉa chảy và lỵ. Ở Trung Quốc, Củ nâu dùng chữa: 1. Chảy máu tử cung, xuất huyết trước khi sinh; 2. Ho ra máu, thổ huyết, ỉa ra máu, đái ra máu; 3. Viêm ruột, lỵ; 4. Thấp khớp tạng khớp, liệt nhẹ nửa người. Dùng ngoài trị bỏng, đòn ngã tổn thương, đinh nhọt và viêm mủ da, bị thương chảy máu. Liều dùng 10-15g, dạng thuốc sắc; bên ngoài nghiền củ để đắp.
, đun trong nước lá sòiSòi - Sòi, Sòi xanh - Sapium sebiferum (L.) Roxb., thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.

Mô tả: Cây gỗ rụng lá cao 6-15m. Lá mọc so le, hình quả trám, dài 3-7cm, chóp lá thuôn nhọn, cuống lá dài có tuyến. Hoa đơn tính, màu trắng vàng hay vàng, mọc thành bông ở nách lá hoặc đầu cành. Hoa cái nhiều, ở gốc, hoa đực ở trên. Hoa đực có đài hình đầu phân thuỳ hoặc có răng, nhị 2, bao phấn gần hình cầu. Hoa cái có đài hợp, 2-3 thuỳ và nhuỵ 3, bầu hình trứng có 3 ô. Quả hạch hình cầu có 3 hạt.

Cây ra hoa tháng 6-8, quả tháng 10-11.

Bộ phận dùng: Vỏ rễ, vỏ thân, lá, hạt - Cortex Radicis, Cortex et Folium Sapii Sebiferi. Vỏ rễ thường có tên là Ô cữu căn bì

Nơi sống và thu hái: Cây của Ðông Á châu ôn đới và cận nhiệt đới, mọc hoang ở vùng đồi núi. Có khi được trồng làm cây cảnh. Thu hái vỏ rễ và vỏ cây quanh năm, thái nhỏ và phơi khô. Lá thường dùng tươi.

Thành phần hoá học: Vỏ rễ chứa xanthoxylin, acid tanic.

Tính vị, tác dụng: Sòi có vị đắng, tính hơi ấm, có độc; có tác dụng sát trùng, giải độc, lợi niệu, thông tiện, tiêu thũng, trục thuỷ.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa:
1. Phù thũng, giảm niệu, táo bón;
2. Bệnh sán máng, cổ trướng, xơ gan;
3. Viêm gan siêu vi trùng;
4. Ngộ độc nhân ngôn;
5. Rắn độc cắn.

Thân và lá dùng chữa viêm mủ da, ngứa lở thấp chẩn, chai cứng. Dùng vỏ rễ 3-6g, lá 9-15g, đun sôi lấy nước uống. Giã lá tươi để đắp ngoài, hoặc nấu nước để rửa.

Ở Vân Nam (Trung Quốc) còn được dùng trị tiểu tiện không thông, viêm âm đạo.

Ðơn thuốc:
1. Phù thũng, Rễ Sòi tươi, lấy màng thứ nhì 15g, đường 15g, đun sôi lấy nước uống.
2. Bệnh sán máng: Lá Sòi 8-30g, sắc uống. Dùng liền trong 20-30 ngày.
3. Phù thũng, cổ trướng, đại tiện không thông, ứ nước hoặc bí đầy, ăn uống không xuôi: Màng rễ Sòi (lớp trắng ở trong), Mộc thông, hạt Cau, mỗi vị 12g, sắc uống.
4. Ngộ độc: Lá Sòi 1 nắm giã nhỏ, chế nước vào, vắt lấy nước cốt uống.
(một loại cây thân gỗ mọc hoang), có nơi dùng lá bàng, hoặc hạt dền như trong câu ca dao, sau đó lấy bùn trát kín vài lần. Sau khi nhuộm xong, tấm vải có mầu đen thâm, không phai và tấm vải cực kỳ dai và bền, dày dặn nhưng mặc lại không nóng, không bí [1].


Danh nhân Làng Xuân Cầu

Làng Xuân Cầu còn có nhiều Danh nhân như: Họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà cách mạng Tô Hiệu, nhà cách mạng Lê Văn Lương.

Tham khảo

  1. Vải nhuộm thâm làng Huê Cầu
  2. Vũ Bằng - Miếng ngon Hà Nội, bánh Xuân Cầu
  3. Thịt chuột ký sự
  4. Đặc sản bánh Xuân Cầu của làng đã bị mai một



Mời xem các bài về Xuân Cầu



Video Làng Xuân Cầu


Truyền hình Hưng Yên - HYTV




“Thuật bút Xuân Cầu”

“Thuật bút Xuân Cầu”

Khánh Duy

Làng Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) là một làng quê lâu đời, tiêu biểu của đồng bằng Bắc Bộ. Đây còn được biết đến là nơi sinh ra những con người nổi tiếng như nhà cách mạng Tô Chấn, Tô Hiệu, Lê Giản, Lê Văn Lương; họa sĩ Tô Ngọc Vân; nhà văn Nguyễn Công Hoan… Với mong muốn gìn giữ những nét văn của làng quê cũng như giới thiệu đến đông đảo công chúng về đất và người nơi đây, những người con của Hưng Yên đã thành lập Dự án sách “Thuật bút Xuân Cầu”.
Đoàn làm việc tặng cuốn sách “Danh nhân Hưng Yên” cho đại diện lãnh đạo tỉnh Hưng Yên
Làng Xuân Cầu xưa có tên gọi là Hoa Cầu, Huê Cầu, Xuân Kỳ... Xuân Cầu theo sử sách có từ đời nhà Đường, trong làng còn có 4 giếng đá kiểu Trung Quốc. Đời vua Thiệu Trị, vì kỵ húy đổi là Xuân Kỳ nhưng Nhân dân quen dùng tên cũ, mà đọc chệch đi là Huê Cầu.

Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn, Chủ biên cuốn sách “Thuật bút Xuân Cầu” chia sẻ về cuốn sách


Chủ biên cuốn sách “Thuật bút Xuân Cầu”, nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn chia sẻ: xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước, chúng tôi thấy rằng, Xuân Cầu là ngôi làng rất cần được nghiên cứu trong lịch sử. Bên cạnh đó, viết một cuốn sách về dư địa chí của làng khác biệt với các cuốn sách viết về dư địa chí của một vùng miền hoặc một tỉnh nào đó, mỗi làng đều có đặc thù văn hóa, phong thủy riêng bao gồm cả nền văn học với những nhân vật lịch sử, danh nhân có thể được gọi là địa linh nhân kiệt, văn võ song toàn. Và văn hóa làng từ xưa đến nay chính là tế bào của xã hội, rất quan trọng, góp phần chấn hưng và phát triển văn hóa của Việt Nam. Dự án sách là tâm huyết của các tác giả mong muốn ghi nhận sự phát triển văn hóa làng quê truyền thống của đất nước, mà bước đầu là làng Xuân Cầu, một trong những địa danh văn hóa lịch sử của tỉnh Hưng Yên.

Phó Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ Quân đội, nhà văn Phùng Văn Khai chia sẻ về cuốn sách


Phó Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ Quân đội, đồng chủ biên cuốn sách, Nhà văn Phùng Văn Khai cho biết thêm: hiện nay, để thực hiện dự án này, hội đồng khoa học lên tới khoảng 20 giáo sư, tiến sĩ và các cộng tác viên khác.

Chúng tôi chia làm 6 lĩnh vực, cùng hoạt động song song với nhau như: lịch sử, văn hóa, kiến trúc, văn học, khoa học công nghệ… Mỗi lĩnh vực đều có các chuyên gia, nhà nghiên cứu để thẩm định thông tin về làng Xuân Cầu cũng như thực hiện các công tác liên quan để thực hiện dự án. Hiện, bản thảo đã lên xong, dự kiến cuối năm 2024, cuốn sách sẽ được ra mắt.

Cuốn sách được chia làm 3 phần, giới thiệu về làng Xuân Cầu từ thuở khai thiên lập địa đến ngày nay, gắn với làng là những di tích văn hóa, lịch sử, những người con ưu tú đã góp phần làm nên đất nước. Hồn cốt của cuốn sách tập trung nêu bật tiến trình văn hóa lịch sử diễn ra như thế nào ở một vùng đất với những đình, chùa, miếu, danh nhân, danh tướng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Hội đồng biên soạn thăm không gian lưu niệm nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Hưng Yên


Lý giải về tên cuốn sách, nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn cho biết: “Thuật bút Xuân Cầu” có nghĩa là dùng thuật của ngòi bút để viết về địa danh lịch sử, về nhân vật lịch sử, đó là sự sáng tạo của Hội đồng biên soạn tạo ra một dòng riêng của sách về làng.

Hội đồng biên soạn tặng bản thảo sách "Thuật bút Xuân Cầu" cho lãnh đạo xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang


Tuy mới được khởi động từ đầu tháng 7.2024, nhưng với tinh thần làm việc khẩn trương, cuốn sách hứa hẹn sẽ là một tác phẩm văn học mẫu mực về một vùng đất “bước chân ra là gặp người nổi tiếng”.


Khánh Duy



Xem thêm:
“Thuật bút Xuân Cầu” góp phần phát triển văn hóa làng quê Việt Nam - Thanh Dung - Báo điện tử Nhân Dân, Thứ sáu, ngày 02/08/2024
Nguồn: Báo Đại biểu Nhân dân - Thứ Sáu, 02/08/2024

Dòng họ Tô trên đất Văn Giang

Thursday, May 23, 2024

Dòng họ Tô trên đất Văn Giang

Hoa Phương

Nhà tưởng niệm Liệt sỹ Tô Hiệu, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang)
Theo sách họ Tô Việt Nam, ở Văn Giang có nhiều chi họ Tô khác nhau. Tuy nhiên, các chi họ Tô ở xã Nghĩa Trụ (trước đây là Tổng Xuân Cầu) tồn tại lâu đời nhất. Ngày nay, họ Tô ở xã Nghĩa Trụ tập trung đông nhất ở thôn Tam Kỳ với khoảng 10 chi: Chi họ Tô cụ Đốc Nam, chi họ Tô cụ Đốc Đông, chi họ Tô Xuân, chi họ Tô Trân, chi họ Tô cụ Đám Ký... Ngoài ra, xã Nghĩa Trụ còn các chi họ Tô ở thôn Phúc Thọ, thôn Đồng Tỉnh, thôn Đại Tài.

Dù ở giai đoạn nào, dòng họ Tô ở xã Nghĩa Trụ (Văn Giang) cũng có nhiều đóng góp đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiêu biểu là phó bảng Tô Huân, Đốc học Hải Dương, đỗ phó bảng năm Mậu Thìn (1868); cử nhân đốc học Nam Định Tô Ngọc Nữu. Ngoài ra, còn có nhiều người đỗ cử nhân hoặc tương đương như: Tô Thuần, Tô Hiến, Tô Đăng... Trong đó, không thể không nhắc đến Tiến sĩ Tô Trân, Tuần phủ Định Tường, đỗ tiến sĩ năm Bính Tuất (1826). Sau đó, ông giữ chức Hàn lâm viện biên tu. Sau được thăng làm Tuần phủ Định Tường, thường xuyên đối phó với sự xâm phạm, quấy nhiễu của nước Chân Lạp. Năm 1848, ông giữ chức Tả tham tri bộ Lễ, làm việc ở sử quán và kiêm nhiệm vụ Nhật giảng quan ở Kinh Diên. Sự nghiệp lớn lao mà ông để lại cho hậu thế là các công trình sử học như: Minh Mạng chính yếu, Đại Nam thực lục.

Đến thế kỷ XX, XXI, đội ngũ trí thức yêu nước, nhân tài của dòng họ Tô ở Văn Giang ngày càng đông đảo và có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực. Trong đó, giai đoạn đấu tranh kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong hàng ngũ cán bộ cách mạng có không ít trường hợp cả vợ - chồng, anh - chị - em ruột cùng giác ngộ lý tưởng cộng sản và tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước, giải phóng dân tộc. Hai anh em ruột Tô Chấn, Tô Hiệu ở Tổng Xuân Cầu là trường hợp như thế.

Tô Chấn sinh năm 1904. Từ năm 1925, đồng chí tham gia các hoạt động trong các tổ chức yêu nước ở Hà Nội, Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Năm 1927, đồng chí tham gia tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu và trở thành đảng viên cốt cán, được cử làm Đảng trưởng kỳ bộ Nam Kỳ. Năm 1930, khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học bị thực dân Pháp kết án tử hình. Tô Chấn được đề cử thay Nguyễn Thái Học và tiến hành mưu sát tên toàn quyền Đông Dương Pasquier và tên toàn quyền Nam Dương Degreff. Việc chưa thành, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án tử hình, sau đó giảm xuống tù chung thân và đày ra Côn Đảo. Giai đoạn 1930 – 1936, đồng chí trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù... Năm 1936, đồng chí được Chi bộ nhà tù bố trí vượt tù cùng với một số đồng đội khác. Trong quá trình vượt xiềng xích ngục tù, các đồng chí hy sinh trên biển.

32 năm cuộc đời, đồng chí Tô Hiệu (1912 – 1944) có hơn một nửa thời gian tham gia hoạt động cách mạng và lãnh đạo nhiều phong trào đấu tranh ở Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và các tỉnh miền duyên hải Bắc Bộ. Năm 1940, khi bị thực dân Pháp đày lên nhà tù Sơn La, đồng chí vẫn tích cực tham gia đấu tranh các chế độ hà khắc của thực dân với người tù, thành lập Chi bộ nhà tù Sơn La; đồng chí biến nhà tù thành trường học, đào tạo nhiều cán bộ cốt cán cho Đảng, cách mạng.

Năm 1944, trước khi hy sinh, đồng chí vẫn trăn trở căn dặn đồng đội “Ánh sáng ngày mai đã ló ở chân trời, hãy chuẩn bị đương đầu với những thử thách lớn nhất!”.

Thời kỳ này còn có nhà văn hóa lớn Tô Ngọc Vân ở Xuân Cầu, danh họa nổi tiếng của nền hội họa hiện đại Việt Nam. Ông hy sinh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật.

Ngoài các bậc cách mạng tiền bối, danh nhân văn hóa tiêu biểu kể trên, dòng họ Tô ở Văn Giang còn có những người con ưu tú như: Đồng chí Tô Quang Đẩu, nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội; đồng chí Tô Gĩ (Lê Giản) nguyên Bộ trưởng Bộ Công an đầu tiên của chính quyền cách mạng; đồng chí Lê Văn Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội là cháu ngoại cụ Đốc Nam Tô Ngọc Nữu...

Ngày nay, những người con họ Tô ở mảnh đất Văn Giang dù ở đâu, làm gì cũng luôn khắc ghi về truyền thống dòng họ, quê hương để tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp xây dựng Đảng, phát triển đất nước. Trong đó, các thành viên họ Tô ở Văn Giang đã có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực khác nhau như: Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Giáo sư – Tiến sĩ khoa học Tô Ngọc Thanh, Nghệ sỹ ưu tú Tô Lan Phương; Tiến sỹ Tô Thị Tường Vân...

Để giáo dục thế hệ sau truyền thống hào hùng của quê hương, tri ân, tưởng nhớ những đóng góp của các nhà hoạt động cách mạng, danh nhân văn hóa họ Tô, ngày nay, huyện Văn Giang có một số công trình mang tên các nhà cách mạng họ Tô như: Đường Tô Hiệu, trường Tiểu học Tô Hiệu ở xã Nghĩa Trụ, trường mầm non Tô Quyền, xã Nghĩa Trụ, Quỹ học bổng Tô Hiệu, Quỹ học bổng Tô Quyền... Đồng chí Đỗ Thị Thanh, Hiệu trưởng Trường mầm non Tô Quyền chia sẻ: Tập thể cán bộ, giáo viên, phụ huynh học sinh nhà trường đều rất tự hào khi được làm việc, gửi con theo học tại ngôi trường mang tên anh hùng LLVT nhân dân Tô Quyền.

Đồng chí Vũ Văn Tiệp, Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Trụ cho biết: Năm 2021, xã đã hoàn thành nâng cấp, xây dựng thêm dãy phòng học trường Tiểu học Tô Hiệu. Quỹ học bổng Tô Hiệu được thành lập từ năm 1996 đến nay là niềm động viên, khích lệ kịp thời các học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập. Quỹ học bổng Tô Quyền do thành viên dòng họ Tô quản lý góp phần tạo động lực cho các em học sinh thi đỗ đại học của xã nỗ lực trên con đường chinh phục tri thức. Ngoài ra, các thành viên dòng họ Tô dù sinh sống, làm việc ở nơi đâu luôn nhớ về dòng họ, quê hương, có nhiều đóng góp vào các phong trào, hoạt động của địa phương...

Thắp nén nhang thơm tại Nhà tưởng niệm liệt sỹ Tô Hiệu, chúng tôi không khỏi tự hào, kiêu hãnh về các bậc tiền bối đi trước. Tin tưởng rằng, các thành viên họ Tô nói riêng và Nhân dân xã Nghĩa Trụ nói chung sẽ tiếp tục học tập, rèn luyện, lao động và trưởng thành, đóng góp tích cực vào sự phát triển của quê hương, đất nước...

Vài nét về làng quê Xuân Cầu - Nguyễn Công Hoan

Thursday, May 16, 2024

Vài nét về làng quê Xuân Cầu

Nguyễn Công Hoan
biên soạn 3/1974

Lê Văn Lương - Tiểu sử

Sunday, November 27, 2022

Lê Văn Lương - Tiểu sử

Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật

Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của đồng chí Lê Văn Lương qua các giai đoạn: Quê hương, gia đình, thời niên thiếu (1912 - 1925); Rèn luyện và trưởng thành trong đấu tranh cách mạng (1926 - 1945); Hoạt động và cống hiến trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954); Cùng Trung ương Đảng lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước (1954 - 1976); Trên cương vị Bí thư Thành ủy Hà Nội và những năm tháng cuối đời (1977 - 1995); Người Cộng sản kiên trung, trọn đời vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc
Lê Văn Lương - Tiểu sử

Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia - Sự thật

Năm xuất bản: 2020

Mô tả vật lý: Tài liệu số .pdf 310 tr. 15 MB

Lê Văn Lương, 1912 - 1995


Mời đọc và lấy về bản PDF


Đồng chí Lê Văn Lương - Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng

Đồng chí Lê Văn Lương - Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng

Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Tóm tắt:
Lê Văn Lương người cán bộ cách mạng kiên cường của Đảng; Lê Văn Lương sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc

Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia
Năm xuất bản: 2000
Mô tả vật lý: Tài liệu số .pdf 280 tr. 21 MB
Lê Văn Lương, 1912 - 1995




Mời đọc và lấy về bản PDF

Bí ẩn về số 7 trong lòng hai giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi ở Hưng Yên

Tuesday, August 30, 2022

Bí ẩn về số 7 trong lòng hai giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi ở Hưng Yên

Thu
Kích thước ᴄủa những viên ցạch và cối đá xếp tronց lònց 2 giếng ᴄổ ở Hưng Yên đều liên զυan đến ᴄon số 7 khiến nցười dân khó lý ցiải.
Con số 7 kỳ lạ tronց lònց giếng ᴄổ

Trải qua cả nցàn năm, 2 chiếc giếng ᴄổ ở thôn Tam Kỳ (ҳã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên) nước vẫn đầy ắp và tronց vắt. Tuy nhiên, nցười dân hiện nay đã khônց ᴄòn sử dụnց phổ biến như nցàγ xưa do đã có nước máγ.

Giếng ᴄổ Cổng Đồng nằm ở vệ đường lớn, ցần với ᴄổng làng và ao đình.


Chiếc giếng Cổng Đồng hơn 1.200 tuổi từng bị lấp đã đượᴄ nցười dân khôi phục và bảo vệ cẩn thận. Giếng Đình Ba hơn 1.300 tuổi nằm tronց khuôn viên ᴄủa một gia đình thì vẫn đượᴄ gia đình nàγ sử dụnց và ցìn ցiữ.

Có một điềυ mà nցười dân Tam Kỳ lấγ làm lạ, đó là những viên ցạch và cối đá զυanh lònց giếng đều liên զυan đến số 7. Gạch có 14 viên thì viên nào ᴄũnց có chiều dày 7cm, chiều nցang 17cm và dài là 27cm; cối đá có 11 chiếc, chiếc nào ᴄũnց ᴄao 17cm, đáy 27cm và miệnց là 37cm.

Chúnց tôi trao đổi với GS sử học Lê Văn Lan – nցười góp ᴄônց khôi phục giếng ᴄổ nàγ nhưnց ônց ᴄho haγ, ônց ᴄhỉ là nցười làm lịch sử và góp phần khôi phục lại chiếc giếng ᴄổ Cổng Đồng chứ khônց biết ցì về những điềυ liên զυan đến ᴄon số 7 tronց ցạch và cối đá dưới lònց giếng.

“Tôi ᴄhỉ biết giếng đó là một vết tíᴄh từ thời thực dân địa ᴄủa Trυnց Quốc chứ tôi khônց hiểu biết về phong thủy haγ bói toán nên khônց biết ᴄon số 7 có ý nghĩa ցì”, GS Lan ᴄho biết.

Những viên ցạch và cối đá xếp tronց lònց giếng đều có kíᴄh thước liên զυan đến số 7 khó lý ցiải.


Ông Đặng Xuân Chính – nցười làng Tam Kỳ bỏ nhiều ᴄônց sứᴄ tìm hiểu về chiếc giếng ᴄổ ᴄũnց ᴄhưa thể lý ցiải đượᴄ vì sao ᴄáᴄ cụ nցàγ xưa lại lấγ ᴄon số 7 để đưa vào kíᴄh thước ᴄáᴄ viên ցạch, cối đá dưới giếng.

“Tôi ᴄho rằng, nցàγ xưa ᴄáᴄ cụ coi số 7 là ᴄon số may mắn nên làm ցạch và cối đá đều liên զυan đến ᴄon số 7”, ônց Chính phỏng đoán.

Ông Chính ᴄho biết thêm, những viên ցạch có kíᴄh thước liên զυan đến số 7 ᴄòn ցọi là “ցạch thất”. Hồi khôi phục lại giếng, ônց tìm hiểu thì biết có một gia đình ở Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) vẫn ᴄòn lưu ցiữ khuôn đóng loại ցạch nàγ nên đã sang nhờ nցười ta đóng và bán ᴄho một ít về để xếp dưới giếng.

Chẳng ai hiểu đượᴄ ᴄhính ҳáᴄ ý nghĩa ᴄủa số 7 tronց kíᴄh thước ᴄủa những viên ցạch và những cối đá xếp tronց lònց 2 giếng ᴄổ thôn Tam Kỳ. Thế nhưnց, có một điềυ nցười dân nhìn thấγ rất rõ ràng, những viên ցạch, cối đá xếp so le ᴄhồnց lên nhaυ rất vừa khít, chẳng cần ρhải vôi vữa nhưnց đã trường tồn qua cả nցàn năm.


“Báu vật” ᴄủa dân làng

Nցày trước khi ᴄhưa có nước máγ, 2 chiếc giếng ᴄổ ở thôn Tam Kỳ luôn đônց đúc, nhộn nhịp nցười đến tắm giặt, gánh nước sinh hoạt. Mùa mưa, nước dâng ᴄao đến ցần miệnց có thể dùng gáo múc; mùa ᴄạn giếng ᴄũnց ᴄhưa bao ցiờ hết nước.

Ông Đặng Xuân Chính –nցười làng Tam Kỳ, ҳã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên.


Ông Chính nhớ hồi ᴄòn nhỏ, ônց và ᴄáᴄ bạn ᴄùnց trang lứa vẫn ra sân đình ᴄhơi haγ đi chăn trâu về khát thì vục chiếc nón xυốnց múc nước lên υốnց.

“Nước rất ngọt và mát, dù υốnց nước lã nhưnց khônց hề bị đau bụnց. Dân làng khi đi làm đồnց về qua, dừng ᴄhân lại giếng rửa ᴄhân taγ, mặt mũi thì tỉnh táo cả nցười”, ônց Chính ᴄhia sẻ.

Có năm hạn hán lớn, ao hồ nhiều nơi ᴄạn trơ đáy, nhiều giếng khơi ᴄủa nցười dân hết nước nhưnց tuyệt nhiên, 2 chiếc giếng ᴄổ ở Tam Kỳ vẫn đầy ắp nước. Dân ᴄáᴄ làng lân cận đến xin nước, xếp hànց lần lượt nցười nàγ đến nցười kia múc đầy ᴄáᴄ thau, chậu, xô, thùng phi… manց về mà giếng ᴄhỉ vơi đi chứ khônց ᴄạn.

Sau khi đượᴄ khôi phục, nցười dân bảo vệ những chiếc giếng ᴄổ rất cẩn thận.


Người dân ᴄòn kể lại rằng, ᴄon ցái làng nցàγ xưa tắm bằng nước giếng nhiều nên da dẻ hồng hào, khỏe mạnh; tóᴄ thì luôn mượt, đen như gỗ mun.

Lý ցiải điềυ nàγ, ônց Chính ցiải thích: “Quan trọng là nước giếng sạch, khônց ô nhiễm nên sử dụnց nước nàγ sẽ đỡ bệnh tật, da dẻ khônց có mụn nhọt… Thế nên nցười dân đồn vậγ ᴄũnց khônց có ցì sai”.

Được biết, giếng Đình Ba ᴄòn gắn với di tíᴄh Quán Dố – một ngôi miếu ᴄổ thờ Ma lỗ Đại Vương. Theo lệ làng, ᴄứ đến thánց Sáu âm lịch, dân làng tổ chứᴄ lễ rước nước từ giếng về Quán Dố để cầu mưa.

Khi ấγ, ᴄáᴄ cụ ᴄao niên tronց làng sẽ khăn áo ᴄhỉnh tề, trai tráng thì vác kiệu, vác lọng, bê ché ra trước giếng, xin “Thần giếng” ᴄho nước thiêng về thờ tại Quán Dố, cầu ᴄho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Nguồn: News Magazine - 18 Tháng Tám, 2022

77 NĂM CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM & QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP

Friday, August 19, 2022

77 NĂM CÔNG AN NHÂN DÂN VIỆT NAM & QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP

Mạc Nguyễn

Tưởng nhớ ông ngoại và những anh hùng thương binh, liệt sỹ…
những người đã cống hiến cả cuộc đời cho Ngành, cho sự nghiệp cách mạng…

Hôm nay (19/8) ngày truyền thống của Công An Nhân dân Việt Nam, đánh dấu 77 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành (19.8.1945 - 19.8.2022)…ngay từ khi chính quyền cách mạng còn non trẻ cho đến nay, luôn thể hiện là một trong những lực lượng nòng cốt trên mọi mặt trận.
Công An Nhân dân Việt Nam là tên gọi của những tổ chức đầu tiên ở 3 miền là: Sở Liêm phóng Bắc Bộ, Sở Trinh sát Trung Bộ và Quốc gia tự vệ Cuộc Nam Bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung Ương Đảng ngày đó đã giao nhiệm vụ sát nhập 3 lực lượng này thành một với một cái tên thống nhất…nhiệm vụ này được giao cho ông Lê Giản (tức Tô Gĩ) thực hiện, và được ông Lê Giản đặt tên là “Công An” bằng việc ghép hai từ đầu của các từ (Public: Công cộng và Securiy: An ninh). Ngày 21/2/1946, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc Lệnh số 23 về việc thành lập Việt Nam Công An Vụ thuộc Bộ Nội Vụ:
Điều thứ nhất: Nay hợp các Sở Cảnh sát với các Sở Liêm phóng toàn quốc thành một cơ quan đặt tên là "Việt Nam Công an vụ".
Điều thứ ba: Việt Nam Công an vụ sẽ do một ông Giám đốc điều khiển, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Bộ Nội vụ. Ông Giám đốc có thể có một Phó Giám đốc giúp việc. Những chức chánh, phó Giám đốc Việt Nam Công an vụ sẽ do Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam bổ nhiệm theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Tiếp theo là Sắc Lệnh số 100 ngày 8/6/1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành về việc cử ông Lê Giản phụ trách Việt Nam Công An Vụ…
Ngày 18.4.1946, Nghị định 121-NV/NĐ về việc sát nhập ba lực lượng tại 3 miền thành Việt Nam Công An Vụ do Bộ trưởng Bộ Nội Vụ ban hành (ông Huỳnh Thúc Kháng)
Điều 1: Việt Nam Công An Vụ do Sắc lệnh số 23 nói trên lập ra nay tổ chức như sau này:
Điều 2– Việt Nam Công An Vụ chia ra làm 3 cấp:
1. Công An Việt Nam
2. Công An kỳ
3. Công An tỉnh
Cơ quan công an trung ương đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của ông tổng giám đốc Việt Nam công an vụ.
Cơ quan công an kỳ (Bắc, Trung, Nam) đặt dưới quyền điều khiển của một giám đốc công an kỳ.
Cơ quan công an tỉnh đặt dưới quyền điều khiển của một ty trưởng.
Điều 5:– Nha công an Việt Nam đặt dưới quyền điều khiển của 2 ông tổng giám đốc và phó giám đốc gồm có:
a) Một văn phòng
b) và các phòng sự vụ
Mỗi phòng đều có một chủ sự phòng điều khiển
Các chức tổng giám đốc và phó giám đốc do sắc lệnh Chủ tịch Chính phủ Việt Nam bổ nhiệm theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Các nhân viên của nha công an sẽ do nghị định Bộ trưởng bộ Nội vụ bổ nhiệm theo đề nghị của tổng giám đốc nha công an.

Nguồn: FB Mạc Nguyễn - 19/8/2022.


TÔ QUANG ĐẨU MỘT LÃO THÀNH CÁCH MẠNG CỘNG SẢN CHÂN CHÍNH

Friday, July 15, 2022

TÔ QUANG ĐẨU MỘT LÃO THÀNH CÁCH MẠNG CỘNG SẢN CHÂN CHÍNH

Tô Đức Minh

Tô Quang Đẩu (tức Tô Điển) sinh năm 1906, – là em họ Tô Chấn và Tô Hiệu. Tô Quang Đẩu sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, đánh máy chữ cho hãng tàu Bạch Thái Bưởi ở Hải Phòng, sau đó chuyển sang hiệu Xuân An bán hàng tạp hóa ở Kinh Môn, Hải Dương. Tại đây, Tô Quang Đẩu đã tham gia phong trào đòi để tang cụ Phan Chu Trinh. Rồi ông lên Hà Nội làm thợ xếp chữ cho nhà in Ngô Tử Hạ, ở cùng Tô Chấn và Tô Hiệu. Ông có điều kiện tiếp cận nhiều sách báo cách mạng. Thấm nhuần tinh thần yêu nước, ông và Tô Chấn, Trần Huy Liệu vào Sài Gòn tiếp tục hoạt động trong Việt Nam Quốc dân Đảng, tham gia truy điệu cụ Lương Văn Can, bán sách tuyên truyền chính trị của Hội “Duy Tân thư xã” do Trần Huy Liệu sáng lập.

Năm 1929, ông cùng Tô Chấn thực hiện kế hoạch mưu sát 2 tên toàn quyền

Đông Dương và Nam Dương (Indonesia). Kế hoạch không thành, cuối năm 1930, ông bị truy nã phải chạy chốn lên làng Đình Bảng (Bắc Ninh) làm nghề bán thuốc, lại bị lộ ông phải chốn sang Chợ Chờ, Yên Phong (Bắc Ninh) ở ẩn. Sau một thời gian nghe ngóng không thấy động tĩnh gì của bọn mật thám, Tô Quang Đẩu lại về Hà Nội làm nghề nấu nước mắm ở Cầu Giấy. Ông gặp các đồng chí Tô Hiệu, Trần Huy Liệu từ Côn Đảo và đồng chí Minh ở Liên Xô trở về nên tiếp tục hoạt động cách mạng, cho đến năm 1938, được Thành ủy Hà Nội giao nhiệm vụ dạy chữ Quốc ngữ cho tổ chức Hữu ái những người lái xe ô tô con và làm phóng viên cho báo “Đời nay”.

Tháng 9 – 1939, Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, chưa kịp rút vào bí mật thì ông bị mật thám bắt và đưa xuống Hải Phòng, tòa án Hải Phòng xử 6 tháng tù về tội tuyên truyền sách báo cách mạng. Hết hạn tù, đang chờ Thành ủy phân công công tác ông lại bị bắt và bị kết án tù 5 năm, đày lên nhà tù Sơn La

Trải qua các nhà tù ở Hà Nội, Hải Phòng, Hòa Bình, nay phải đi Sơn La, ông vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Hết hạn nhà tù Sơn La , vừa trở về Hà Nội hoạt động, ông lại bị bắt vào nhà tù Hỏa Lò. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), ở Hỏa Lò ra ông là cán bộ Xứ ủy An toàn khu ở làng Vạn Phúc, thị xã Hà Đông. Đến tháng 8 - 1945, Xứ ủy quyết định cử ông xuống phụ trách công tác Đảng ở Hải Phòng, hồi đó ông Trần Quốc Hoàn là Bí thư. Tháng 1-1946, đồng chí Lê Thanh Nghị phụ trách miền Duyên Hải điều ông sang làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính tỉnh Kiến An, đồng chí Mai Côn làm Bí thư Tỉnh ủy. Tháng 5 - 1946, đồng chí Nghị lại điều ông sang làm Chủ tịch UBHC, kiêm Phó Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Yên, đồng chí Trần Qúy Kiên là Bí thư Tỉnh ủy. Khi Pháp đánh Hải Phòng, ông làm Phó Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến (UBKC) Khu 3 vừa mới thành lập. Năm 1948, ông làm khu ủy viên, Phó Chủ tịch UBHVKC liên khu 10, Bí thư Đảng toàn chính quyền liên khu. Năm 1950-1953, ông là Ủy viên Ban Kiểm tra Trung ương và Thanh tra Chính phủ Năm 1954 là Ủy viên Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, phụ trách bộ phận hỏa tuyến từ Sơn La đến Điện Biên. Từ tháng 9 - 1954 đến 12 - 1956 là Tham tán Đại biện lâm thời Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô, Bí thư cán sự Đảng. Từ năm 1957 đến 1975 là Bí thư Đảng đoàn Bộ, Thứ trưởng Bộ Nội vụ.

Với những công lao đóng góp cho cách mạng, ông đã được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất và Huân chương chống Mỹ hạng Nhất, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; năm 1991, ông được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

Ông mất ngày 25 tháng 11 năm 1990 (tức 9 - 10 Canh Ngọ), tại Hà Nội, hưởng thọ 84 tuổi.