Tương Bần
vào lúc
03:34
Tương Bần đậm đà vị quê - Truyền hình Hưng Yên - HYTV, 17/5/2021.
Làng nghề tương Bần
Video: Tương Bần
Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên
Đi từ Hà Nội theo quốc lộ 5 khoảng 25 km là đến thị trấn Bần Yên nhân (trước đây là một thôn của xã Văn Phú) huyện Mỹ Hào.
Phố Bần nho nhỏ, nay đã là thị trấn Bần Yên Nhân sầm uất, được bao quanh bởi các khu công nghiệp lớn, hiện đại. Nhưng tương vẫn là một trong những đặc sản nổi tiếng của vùng đất này.
Làng nghề tương Bần có khoảng 300 lao động làm nghề, thu nhập bình quân 300.000 - 350.000 đồng/tháng (2008). Nhờ có máy móc xay nghiền nên làm tương giờ không vất vả như xưa. Tuy không tốn nhiều lao động song sản xuất tương cũng tạo thêm việc làm cho tới cả trăm người bán. Đi qua phố Bần người ta thấy cả phố bán tương, nhà nào làm thì nhà nấy bán. Nhà có mặt đường thì tiện, nhà không có mặt đường thì thuê chỗ bán hàng, ai cũng cố giành cho được một cửa hàng khang trang bề thế để trưng bày quảng cáo cho hiệu của mình. Sản xuất tương ở làng Bần hầu hết là các hộ gia đình, có hộ do được truyền nghề từ đời trước, có hộ mới vào nghề dăm bảy năm nay khi thấy làm tương phát đạt. Tuỳ theo uy tín, chất lượng mà có hộ làm ăn quy mô lớn, có tới ba trăm chum đại sức chứa tới 40.000 lít liên tục quay vòng.
Tương Bần trong cơ chế thị trường
Phải đến những năm đầu của thập kỷ chín mươi, khi đất nước ta mở cửa phát triển kinh tế thị trường thì tương Bần mới thực sự có chỗ đứng. Xu hướng chuộng dùng ẩm thực dân tộc trong đó có món tương và lợi thế làng Bần nằm bên quốc lộ số 5 đã tạo môi trường thuận lợi cho phát triển nghề làm tương truyền thống theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tính đến tháng 5-2003, làng Bần đã có tới 31 cơ sở hộ gia đình đầu tư sản xuất tương bán ra thị trường. Trải dài dọc quốc lộ 5 khoảng 2km thuộc thị trấn Bần có tới hơn 200 đại lý bán buôn và bán lẻ.
Từ năm 1994 đến nay, mỗi năm làng Bần Yên Nhân tiêu thụ trên 3000 tấn gạo nếp, trên 1000 tấn đậu tương để chế biến tương, thu lãi khoảng 1,5 tỉ đồng từ nghề làm tương, giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động và dịch vụ nghề tương.
Năm 2004, ... Riêng nghề truyền thống sản xuất Tương Bần có 25 hộ tham gia, hằng năm xuất ra thị trường gần hai triệu lít tương, tạo giá trị thu nhập gần 10 tỷ đồng.
Tương Bần đã được xuất sang các nước Đức, Nga, Tiệp Khắc, Pháp, Hàn Quốc, Mỹ… và có mặt ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Năm 2002 xuất sang Mỹ 1 vạn lít. Những nước khác như Đức, Pháp, Séc, Nga… mỗi năm cũng nhập đến hàng ngàn lít tương Bần.
Giá 1 lít tương nhà sản xuất tính với các đại lý là 3.500 - 4000đ,
các đại lý bán cho người tiêu dùng từ 5000 đến 6000đ.
Tương đặt vào loại ngon giá 7000đ đến 8000đ/lít.
Cơ sở sản xuất tương có tiếng ở làng là Triệu Sơn, Hường Đạt, Minh Quất (tên mới là Đức Vinh), Nguyễn Thị Liên, Liên Vinh, Thiên Sơn, Nguyễn Văn Chính...
Phải đến những năm đầu của thập kỷ chín mươi, khi đất nước ta mở cửa phát triển kinh tế thị trường thì tương Bần mới thực sự có chỗ đứng. Xu hướng chuộng dùng ẩm thực dân tộc trong đó có món tương và lợi thế làng Bần nằm bên quốc lộ số 5 đã tạo môi trường thuận lợi cho phát triển nghề làm tương truyền thống theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tính đến tháng 5-2003, làng Bần đã có tới 31 cơ sở hộ gia đình đầu tư sản xuất tương bán ra thị trường. Trải dài dọc quốc lộ 5 khoảng 2km thuộc thị trấn Bần có tới hơn 200 đại lý bán buôn và bán lẻ.
Từ năm 1994 đến nay, mỗi năm làng Bần Yên Nhân tiêu thụ trên 3000 tấn gạo nếp, trên 1000 tấn đậu tương để chế biến tương, thu lãi khoảng 1,5 tỉ đồng từ nghề làm tương, giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động và dịch vụ nghề tương.
Năm 2004, ... Riêng nghề truyền thống sản xuất Tương Bần có 25 hộ tham gia, hằng năm xuất ra thị trường gần hai triệu lít tương, tạo giá trị thu nhập gần 10 tỷ đồng.
Tương Bần đã được xuất sang các nước Đức, Nga, Tiệp Khắc, Pháp, Hàn Quốc, Mỹ… và có mặt ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Năm 2002 xuất sang Mỹ 1 vạn lít. Những nước khác như Đức, Pháp, Séc, Nga… mỗi năm cũng nhập đến hàng ngàn lít tương Bần.
Giá 1 lít tương nhà sản xuất tính với các đại lý là 3.500 - 4000đ,
các đại lý bán cho người tiêu dùng từ 5000 đến 6000đ.
Tương đặt vào loại ngon giá 7000đ đến 8000đ/lít.
Cơ sở sản xuất tương có tiếng ở làng là Triệu Sơn, Hường Đạt, Minh Quất (tên mới là Đức Vinh), Nguyễn Thị Liên, Liên Vinh, Thiên Sơn, Nguyễn Văn Chính...
❧ ❀ ❧
Các bài viết sưu tầm trên mạng
- Tương Bần - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Nghề Làm Tương ở Làng Bần - Nguyễn Hữu Thức, 27/12/2006, Mùi vị - Ẩm thực Việt nam
- Tương Bần - Cẩm Tuyết, 27/12/2006, Mùi vị - Ẩm thực Việt nam
- Làng nghề Tương Bần - Báo điện tử Hưng Yên, 23/5/2005
- Tương bần Mỹ Hào - Cuộc Sống Việt
- Tương Bần - Vietgle - Tri thức việt
- Tương làng Bần - Đoàn Xuân, 20/11/2010, Giác Ngộ Online.
- Một lần về làng “bần” Yên Nhân - Thế Duyệt, 30/10/2009, Báo Người Lao Động Điện tử.
- Tương Bần - AmThuc365.vn., 16/02/2011.
- Tương bần làm thủ công - Trần Việt Đức, 06/06/2007, Báo điện tử sài gòn tiếp thị media.
- Thương nhớ… tương Bần - iCook.vn.
- “Ai Zô”... cho tương bần - Tân Linh, 30/10/2009, Web-site: www.thethaovanhoa.vn.
- TƯƠNG BẮC (TƯƠNG BẦN) - phivan, 12/10/2007, Diễn Đàn Phật Pháp Online.
- Đổi thay ở làng nghề truyền thống chế biến tương bần - Ths - Nguyễn Hải Tiến, Website Hội Nông dân tỉnh Hưng Yên.
- Nghề làm tương - Đỗ Đức, 27/7/2007, Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp (CCV).
- Tương làm theo lối truyền thống: Ngon miệng, rủi ro cao! - Mỹ Hằng, 10/10/2005, Tiền Phong Online.
- Sản xuất tương bần theo công nghệ mới - Mạnh Đồng, 09/09/2009, BÁO ĐẤT VIỆT.
- Công nghệ lên men truyền thống - Tương - CBHD Nguyễn Thúy Hương, Google Docs.
- Thực phẩm chức năng--Natto - Hồng Lê Thọ, 17/06/2008, Vietsciences.
- Tương Ta, Tương Tàu và Tương Nhật (Miso) - Dược Sĩ Trần Việt Hưng, 08/09/2010, Thư Viện Toàn Cầu.
- TÁC DỤNG CHỮA BỆNH CỦA ĐẬU NÀNH (ĐỖ TƯƠNG) - GS. Từ Giấy, http://www.ducquanam.com.
- Nghiên cứu bảo tồn và phát triển làng nghề tương Bần huyện Mỹ Hào - Hưng Yên - Đề cương luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế (2008-2009), Google docs.
❧ ❀ ❧
Hát trống quân
Hát Trống Quân là hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên
rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du của Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra.
Hát trống quân được coi là một loại dân ca đặc biệt ở miền Bắc, một di sản văn hoá dân tộc, một thời được nhân dân đồng bằng Bắc Bộ ưa thích ngang với hát chèo.
Trống quân là một loại hát hội vấn đáp giữa nam nữ thanh niên, khuyến khích họ giãi bày tình cảm, thông minh và cốt cách qua trung gian của nghệ thuật, trong không khí vui vẻ tưng bừng của hội thu.
Hát trống quân là một lối hát giao duyên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ... Thường được tổ chức vào ban đêm, dưới trăng mùa thu, trong lúc có hội hè hoặc khi dân làng rảnh rỗi để phô diễn tài nghệ đối đáp và trao đổi tâm tình trai gái.
Lối hát Trống quân ở mỗi địa phương đều có phong cách riêng rất độc đáo.
Hát trống quân là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có lịch sử lâu đời, với hình thức hát đối đáp giao duyên kèm theo gõ trống, khá phổ biến ở nhiều địa phương thuộc vùng trung du và châu thổ sông Hồng. Không chỉ người Kinh mà người Mường ở Phú Thọ cũng có hát trống quân.
rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và trung du của Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra.
Hát trống quân được coi là một loại dân ca đặc biệt ở miền Bắc, một di sản văn hoá dân tộc, một thời được nhân dân đồng bằng Bắc Bộ ưa thích ngang với hát chèo.
Trống quân là một loại hát hội vấn đáp giữa nam nữ thanh niên, khuyến khích họ giãi bày tình cảm, thông minh và cốt cách qua trung gian của nghệ thuật, trong không khí vui vẻ tưng bừng của hội thu.
Hát trống quân là một lối hát giao duyên ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ... Thường được tổ chức vào ban đêm, dưới trăng mùa thu, trong lúc có hội hè hoặc khi dân làng rảnh rỗi để phô diễn tài nghệ đối đáp và trao đổi tâm tình trai gái.
Lối hát Trống quân ở mỗi địa phương đều có phong cách riêng rất độc đáo.
Hát trống quân là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có lịch sử lâu đời, với hình thức hát đối đáp giao duyên kèm theo gõ trống, khá phổ biến ở nhiều địa phương thuộc vùng trung du và châu thổ sông Hồng. Không chỉ người Kinh mà người Mường ở Phú Thọ cũng có hát trống quân.
Bài viết đăng lại tại đây
- Nguồn gốc lịch sử hát trống quân
- Đặc trưng - Tập quán, lề lối hát trống quân
- Nhạc cụ
- Nghệ thuật hát trống quân
- Một vài câu hát
- Các bài viết sưu tầm trên mạng
- Video sưu tầm trên mạng
- Mấy nét đặc sắc của hát trống quân Hưng Yên
- HÁT TRỐNG QUÂN DẠ TRẠCH - HƯNG YÊN
Nguồn gốc lịch sử hát trống quân
Hát trống quân ra đời từ khi nào thì không ai có thể khẳng định rõ. Nguồn gốc hát Trống quân có nhiều thuyết.
Các nhà nho Việt nam cho rằng
“Trống quân” do hai chữ “Tống quân” (tiễn bạn) mà ra.
Có thuyết cho rằng: Trống quân bày ra từ đời Nguyễn Huệ.
Có thuyết gần giống như thuyết thứ 2 cho rằng:
Có thuyết cũng cho rằng loại hát này xuất phát từ những điều kiện lịch sử gần giống như hai thuyết vừa kể, chỉ khác về mặt thời gian, là trống quân có từ đời nhà Trần thời kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược (thế kỷ thứ 13). Tục truyền rằng:
Các nhà nho Việt nam cho rằng
“Trống quân” do hai chữ “Tống quân” (tiễn bạn) mà ra.
Theo tương truyền ngày xưa khi một ông quan rời tỉnh này đi tỉnh khác, bạn bè tiễn đưa một quãng đường. Lúc sắp chia tay, người đi đưa đặt một cái trống xuống đất rồi vừa nhịp trống vừa hát bài tiễn bạn, trong đó có câu “Tống quân nam phó thương như chi hà” (Khi ta tiễn bạn về phía nam, lòng đau đớn thế nào ai rõ được).
(Theo G.Cordler)
Có thuyết cho rằng: Trống quân bày ra từ đời Nguyễn Huệ.
Nguyên khi ra bắc đánh bọn xâm lựợc Thanh (cuối thế kỷ 18), quân sĩ lắm kẻ nhớ nhà, vua Quang Trung Nguyễn Huệ mới bày ra một cách cho đôi bên giả làm trai gái hát đối đáp với nhau để cho quân sĩ vui lòng. Đang khi hát có đánh trống làm nhịp nên gọi là Trống quân.
(Theo Phan Kế Bính)
Có thuyết gần giống như thuyết thứ 2 cho rằng:
Hát Trống quân có nguồn gốc từ lối hát “trung quân” một điệu hát của quân lính đi theo nhịp trống. Mà quân đây là quân được tuyển chọn ở Nghệ Tĩnh của đạo binh Nguyễn Huệ kéo ra bắc đánh giặc Thanh xâm lăng, cõng nhau rong ruổi ngày đêm không nghỉ (1). Trống quân là đọc trệch từ trung quân. Trung quân là điệu hát giải trí của đội trung quân. Sau chiến tranh, nhân dân đem lối hát này vào những buổi hội hè gọi là “Hát Trống quân”.
(Theo Phạm Duy)
Có thuyết cũng cho rằng loại hát này xuất phát từ những điều kiện lịch sử gần giống như hai thuyết vừa kể, chỉ khác về mặt thời gian, là trống quân có từ đời nhà Trần thời kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược (thế kỷ thứ 13). Tục truyền rằng:
những lúc đóng quân để nghỉ ngơi, muốn giải trí, binh sĩ Việt Nam ngồi thành hai hàng đối diện nhau, gõ vào tang trống mà hát. Cứ một bên “hát xướng” vừa dứt thì bên kia lại “hát đối (đáp)”. Sau khi đuổi được quân xâm lăng khỏi bờ cõi, hòa bình được lập lại, điệu hát Trống quân được phổ biến trong dân gian. Có nơi gõ nhịp vào tang trống, có nơi căng một dây thép thật thẳng để đánh nhịp.
(Theo Vũ Ngọc Phan)
Theo truyền thuyết hát trống quân có từ thời Hai Bà Trưng và tồn tại đến nay. Trong Truyện dã sử "NỮ TƯỚNG THỜI TRƯNG VƯƠNG" của Nguyễn Khắc Xương có đoạn:
Còn ở xã Dạ Trạch, là nơi câu chuyện tình yêu của chàng Chử Đồng Tử và nàng Tiên Dung đã đi vào sử sách, một nghệ nhân hát Trống quân cho biết:
Xã Tân Lập, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ là xã vùng cao, dân cư chủ yếu là người Mường. "Trước đây trong những ngày lễ hội... trống đất... được kết hợp với đàn... Tòng tửng..., khèn pỉ đâm đuống, cồng chiêng để đệm cho hát giang hát ví Mường"(1). Truyền thuyết dân gian ở Tân Lập kể rằng,
Theo chúng tôi (Phạm Trọng Toàn), trống đất là một nhạc khí thuộc loại cổ nhất ở nước ta. Có thể, lối hát đối đáp gõ trống làm nhịp có từ thời các vua Hùng, theo như truyền thuyết. Tuy nhiên, tên gọi hát trống quân xuất hiện sớm nhất có thể là vào thời Trần. Đây là lối hát có gõ trống vui chơi của quân sĩ. Nếu duy danh thì tên gọi trống quân xuất hiện muộn vào thời Tây Sơn, với việc đọc chệch từ trung quân thành trống quân.
"Tam nương cùng Trưng nữ chủ tiến đánh Luy Lâu. Sau hơn nửa tháng Luy Lâu tan vỡ, Tô Định phải bỏ cả ấn tín, cạo râu tóc mà chạy trốn.
Sau ngày đại phá Luy Lâu, ba chị em Đạm nương được phép trở về Tam Dương. Nhân dân nô nức dắt trâu lợn, mang rượu và gạo đi đón đoàn quân chiến thắng. Đạm nương cho lệnh mở hội mừng công, hội lớn mở năm ngày với nhiều trò vui, nào đu tiên, ném cầu, nào đánh vật kéo co, đêm đêm lửa đuốc như sao, ngày ngày trống chiêng dậy đất. Đạm nương lại cho mở cuộc thi làm bánh để thi tài khéo léo của các nữ binh... Các nữ binh và các gái làng thi tài khéo léo, vừa làm bánh vừa hát đối đáp với nhau. An Bình Lý lại cho nam binh đánh trống hát thi với nữ binh, treo giải bằng lụa, dân gọi là hát trống quân của quân tam nương, gọi tắt là "hát trống quân". "
Còn ở xã Dạ Trạch, là nơi câu chuyện tình yêu của chàng Chử Đồng Tử và nàng Tiên Dung đã đi vào sử sách, một nghệ nhân hát Trống quân cho biết:
“Nguồn gốc trống quân của Dạ Trạch có từ thời Chử Đồng Tử - Tiên Dung (Thời vua Hùng Vương thứ ba). Nàng tiên dung dạy cho dân cách hát dân ca này, rồi sau đó tất cả các phong trào văn hóa dân tộc đều dùng nó. Thời xa xưa các cụ thường mở thành trò đi hát, người ta đến ngã ba, nơi trăng thanh gió mát, đến sân đình người ta hát. Hát chủ yếu là hát giao duyên, hát thắng nhau là lấy, nên giờ làng này có rất nhiều đôi từ hát Trống quân”.
Xã Tân Lập, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ là xã vùng cao, dân cư chủ yếu là người Mường. "Trước đây trong những ngày lễ hội... trống đất... được kết hợp với đàn... Tòng tửng..., khèn pỉ đâm đuống, cồng chiêng để đệm cho hát giang hát ví Mường"(1). Truyền thuyết dân gian ở Tân Lập kể rằng,
trống đất có từ thời các vua Hùng. Nội dung truyền thuyết nói về việc vua Hùng cùng quân sĩ, sau một trận đánh thắng giặc, trên đường về kinh đô có cho quân dừng lại Tân Lập. Vua truyền cho quân sĩ hạ trại, khao quân mừng thắng lợi. Trong lúc quân sĩ đóng cọc dựng trại, có người áp tai xuống đất và nghe thấy tiếng đóng cọc như những tiếng trống thình thùng thình vang lên. Từ đó, người ta sáng tạo ra trống đất và lan truyền trong dân gian.Vào ngày hội làng, trống đất cùng với một số nhạc khí khác được dùng đệm cho những câu hát đối đáp giao duyên giữa trai và gái.
Theo chúng tôi (Phạm Trọng Toàn), trống đất là một nhạc khí thuộc loại cổ nhất ở nước ta. Có thể, lối hát đối đáp gõ trống làm nhịp có từ thời các vua Hùng, theo như truyền thuyết. Tuy nhiên, tên gọi hát trống quân xuất hiện sớm nhất có thể là vào thời Trần. Đây là lối hát có gõ trống vui chơi của quân sĩ. Nếu duy danh thì tên gọi trống quân xuất hiện muộn vào thời Tây Sơn, với việc đọc chệch từ trung quân thành trống quân.
Đặc trưng - Tập quán, lề lối hát trống quân
Hát trống quân ở mỗi địa phương có chút ít khác nhau về làn điệu, cách thức, thời điểm hát nhưng có đặc điểm chung là cách thức hát xướng giống nhau, làn điệu gần giống nhau và sử dụng một loại trống để đánh nhịp khi hát và đoạn "Lưu không" giữa những câu đối đáp.
Hát Trống Quân phổ biến ở Bắc Bộ thường được tổ chức vào nhựng tuần trăng tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những ngày hội. Trong những ngày mùa, những người thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức hát với trai hoặc gái trong làng hoặc giữa họ với nhau vào buổi tối, lúc nghỉ việc. Hát trống Quân thường được tổ chức ngoài sân nhà hoặc ở bãi cỏ rộng, ở gần đình làng, giữa một bên là nam và một bên là nữ.
...
Cuộc hát trống quân thường có 3 phần:
Hai người ngồi đối diện nhau vừa hát vừa cầm dùi gõ nhịp lên dây mây, tiếng khoan tiếng nhặt, đều đặn hòa với lời hát đối đáp của trai gái, đôi này hát xong lại chuyển cho đôi khác hát tiếp cho đến khi tàn hội. Khi những lời hát chào, hát giã bạn cất lên, mọi người mới dần ra về.
...
Hội trống quân thường được mở ở các sân đình hoặc bên một bãi đất rộng ở đầu làng. Giữa sân, người ta đào một cái hố tương tự hố cá nhân. Một chiếc mâm đồng đặt trên miệng hố. Trên mặt mâm lại đặt một chiếc chuông làm bằng sắt tây. Một sợi giây đồng dài độ bảy tám mét được căng qua cái chuông sắt như một thứ dây đàn.
Người hát chia làm hai cánh ngồi đối diện nhau dùng dùi gỗ đánh trên “dây đàn”. Âm thanh phát ra tiếng thùng thình vang vọng điểm nhịp cho lời hát vào lúc ngắt nhịp lưu không. Cuộc hát kéo dài tới ba bốn đêm liền. Cánh nam thôn bên này hát thi với cánh nữ thôn kia để giật giải của làng.
Trống quân là hình thức đối ca nam nữ có tổ chức, có lề lối. Nam xướng thì nữ hoạ. Nam đố thì nữ giảng, nam hát sử thì nữ hát truyện...
Trước đây, lối hát Trống quân này thường được diễn ra sôi nổi vào những đêm trăng mùa thu, khoảng tháng 7, tháng 8 âm lịch ở khắp mọi nơi: trong nhà, ngoài ngõ, sân đình, bãi chợ, trên cầu, bên bờ sông… Chúng được một nhà nghiên cứu đặt cho cái tên khá lãng mạn - “bản tình ca mùa thu”. Tham gia vào cuộc hát là những nam nữ thanh niên trong cùng làng hoặc từ nơi khác đến. Họ chia thành hai nhóm: một bên nam, một bên nữ , đứng (hay ngồi) hát đối đáp với nhau.
Thông thường, một cuộc hát Trống quân luôn trải qua ba chặng:
- Chặng 1, tạm gọi là Hát mở đầu (hay Hát vào đám, Hát khai đám): Bao gồm các bài như hát vận (vận đôi, vận tư), hát chào, hát chúc, hát giao hẹn, hát huê tình, hát trắc…
- Chặng 2 gồm các bài hát xướng họa, hát đố, hát truyện, hát xin cưới, hát thách cưới… Đây là chặng hát trung tâm, thể hiện tài đối đáp của hai bên nam nữ. Trên cùng một làn điệu Trống quân nhất định, mỗi bên sáng tạo ra những lời ca đối nhau về nội dung (họa mưa-họa nắng, họa giời-họa đất, họa cầu-họa sông…), hay những lời đố - giảng (đố quả-giảng quả, đố hoa-giảng hoa…). Do vậy, một cuộc hát Trống quân nhiều khi kéo dài từ hết tối này sang tối khác.
- Chặng 3 là Hát giở giọng, hát chia tay ra về. Ở chặng này, người ta thường không hát làn điệu Trống quân, mà hát các làn điệu dân ca khác như Cò lả, Lý hành vân, Xẩm, Hát ru…
Cả cuộc hát diễn ra như cuộc trao duyên giữa một đôi trai gái.
Các bài hát thì ngoài một số bài hát sử truyện, xướng hoạ quen thuộc, còn hầu hết các khúc ca đều do tập thể các nghệ nhân không chuyên xuất khẩu thành ca, ứng đối kịp thời ngay trong đêm hát. Do đó một cánh hát phải có người ứng đối giỏi, có người bỏ vận tài và có người hát hay. Sự phối hợp giữa bỏ vận tài và có người hát hay, giữa ứng tác và diễn xướng phải hết sức nhịp nhàng, tài hoa, mau lẹ.
Về cơ bản, trống quân chỉ có một làn điệu chính. Nhưng nội dung lời ca lại rất phong phú, đề cập tới nhiều vấn đề như lịch sử, địa lý, chim muông, cây cỏ, cuộc sống đời thường... thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, tình yêu nam nữ, tình cảm bạn bè... Nhưng dù là hát chào mời hay hát đố giảng thì vẫn có vị ngọt ngào của tiếng hát trao duyên rất tình tứ trong sáng. Lời ca được soạn phổ biến theo thể lục bát (đôi khi là song thất lục bát).
Theo cụ Dương Quảng Hàm thì:
Hát Trống Quân phổ biến ở Bắc Bộ thường được tổ chức vào nhựng tuần trăng tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức hát thi vào những ngày hội. Trong những ngày mùa, những người thợ gặt ở nơi khác đến thường tổ chức hát với trai hoặc gái trong làng hoặc giữa họ với nhau vào buổi tối, lúc nghỉ việc. Hát trống Quân thường được tổ chức ngoài sân nhà hoặc ở bãi cỏ rộng, ở gần đình làng, giữa một bên là nam và một bên là nữ.
...
Cuộc hát trống quân thường có 3 phần:
- Thăm hỏi, dò xét quê quán, tên tuổi, gia thất.
- Xe kết, trao đổi tình tứ, ví von, ướm, thách và ước hẹn.
- Chia tay và hẹn đêm mai hát tiếp.
Hai người ngồi đối diện nhau vừa hát vừa cầm dùi gõ nhịp lên dây mây, tiếng khoan tiếng nhặt, đều đặn hòa với lời hát đối đáp của trai gái, đôi này hát xong lại chuyển cho đôi khác hát tiếp cho đến khi tàn hội. Khi những lời hát chào, hát giã bạn cất lên, mọi người mới dần ra về.
...
Hội trống quân thường được mở ở các sân đình hoặc bên một bãi đất rộng ở đầu làng. Giữa sân, người ta đào một cái hố tương tự hố cá nhân. Một chiếc mâm đồng đặt trên miệng hố. Trên mặt mâm lại đặt một chiếc chuông làm bằng sắt tây. Một sợi giây đồng dài độ bảy tám mét được căng qua cái chuông sắt như một thứ dây đàn.
Người hát chia làm hai cánh ngồi đối diện nhau dùng dùi gỗ đánh trên “dây đàn”. Âm thanh phát ra tiếng thùng thình vang vọng điểm nhịp cho lời hát vào lúc ngắt nhịp lưu không. Cuộc hát kéo dài tới ba bốn đêm liền. Cánh nam thôn bên này hát thi với cánh nữ thôn kia để giật giải của làng.
Trống quân là hình thức đối ca nam nữ có tổ chức, có lề lối. Nam xướng thì nữ hoạ. Nam đố thì nữ giảng, nam hát sử thì nữ hát truyện...
Trước đây, lối hát Trống quân này thường được diễn ra sôi nổi vào những đêm trăng mùa thu, khoảng tháng 7, tháng 8 âm lịch ở khắp mọi nơi: trong nhà, ngoài ngõ, sân đình, bãi chợ, trên cầu, bên bờ sông… Chúng được một nhà nghiên cứu đặt cho cái tên khá lãng mạn - “bản tình ca mùa thu”. Tham gia vào cuộc hát là những nam nữ thanh niên trong cùng làng hoặc từ nơi khác đến. Họ chia thành hai nhóm: một bên nam, một bên nữ , đứng (hay ngồi) hát đối đáp với nhau.
Thông thường, một cuộc hát Trống quân luôn trải qua ba chặng:
- Chặng 1, tạm gọi là Hát mở đầu (hay Hát vào đám, Hát khai đám): Bao gồm các bài như hát vận (vận đôi, vận tư), hát chào, hát chúc, hát giao hẹn, hát huê tình, hát trắc…
- Chặng 2 gồm các bài hát xướng họa, hát đố, hát truyện, hát xin cưới, hát thách cưới… Đây là chặng hát trung tâm, thể hiện tài đối đáp của hai bên nam nữ. Trên cùng một làn điệu Trống quân nhất định, mỗi bên sáng tạo ra những lời ca đối nhau về nội dung (họa mưa-họa nắng, họa giời-họa đất, họa cầu-họa sông…), hay những lời đố - giảng (đố quả-giảng quả, đố hoa-giảng hoa…). Do vậy, một cuộc hát Trống quân nhiều khi kéo dài từ hết tối này sang tối khác.
- Chặng 3 là Hát giở giọng, hát chia tay ra về. Ở chặng này, người ta thường không hát làn điệu Trống quân, mà hát các làn điệu dân ca khác như Cò lả, Lý hành vân, Xẩm, Hát ru…
Cả cuộc hát diễn ra như cuộc trao duyên giữa một đôi trai gái.
Các bài hát thì ngoài một số bài hát sử truyện, xướng hoạ quen thuộc, còn hầu hết các khúc ca đều do tập thể các nghệ nhân không chuyên xuất khẩu thành ca, ứng đối kịp thời ngay trong đêm hát. Do đó một cánh hát phải có người ứng đối giỏi, có người bỏ vận tài và có người hát hay. Sự phối hợp giữa bỏ vận tài và có người hát hay, giữa ứng tác và diễn xướng phải hết sức nhịp nhàng, tài hoa, mau lẹ.
Về cơ bản, trống quân chỉ có một làn điệu chính. Nhưng nội dung lời ca lại rất phong phú, đề cập tới nhiều vấn đề như lịch sử, địa lý, chim muông, cây cỏ, cuộc sống đời thường... thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, tình yêu nam nữ, tình cảm bạn bè... Nhưng dù là hát chào mời hay hát đố giảng thì vẫn có vị ngọt ngào của tiếng hát trao duyên rất tình tứ trong sáng. Lời ca được soạn phổ biến theo thể lục bát (đôi khi là song thất lục bát).
Theo cụ Dương Quảng Hàm thì:
cuộc hát trống quân thường tổ chức ở các vùng quê về dịp tết Trung thu do các người đàn anh trong làng treo giải. Một người con trai và một người con gái ngồi đối diện nhau vừa hát vừa gõ vào dây để lấy nhịp (dây này căng thẳng trong khoảng hai cái cọc ở giữa buộc một tấm ván hoặc một cái thùng sắt tây chôn xuống đất để lấy tiếng vang). Hai bên đối đáp mượn những câu hát có sẵn mà biến hóa thay đổi cho hợp với tình ý mình: Ðến khi nào một bên không hát được là thua, bên kia sẽ được lĩnh giải
(Nguyễn Trúc Phương - Việt Nam Văn học bình dân - nxb Xuân Thu, Cali 1990, trg 98
Hát Trống quân cũng như hát Quan họ không phải thuộc hát lao động, mà thuộc về loại hát lễ hay hát hội.
Người hát thuộc về mọi tầng lớp trong xã hội nông thôn, nhà nho, thư sinh hát với con gái gia đình kỳ mục, giàu có hay gia đình thường dân. Họ hoàn toàn không phải ca sỹ chuyên nghiệp mà chỉ là “tài tử” nghiệp dư sinh hát, biết hát… Phần đông là trai và gái đến tuần cập kê, đi hát hội để tìm gặp tài sắc, định ước tương lai.
Từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị vào Nam không có hát Trống quân.
Từ Thanh hóa trở ra loại hát này chỉ để hát vào thu nhất là trong tháng tám. Nhưng không hát vào ban ngày mà chỉ hát vào những đêm trăng, nhất là đêm rằm.
Hát hội có hai hình thức:
Hát vui chơi và hát thi lấy giải. Nơi hát có thể là nhà riêng, giữa làng, đầu xóm hay trên sân đình Thành hoàng.
Thi hát có khi tổ chức giữa hai xóm trai và gái. Có khi giữa hai thanh nam thanh nữ.
Ngoài mấy cuộc thi hát tại nhà, trai gái nông dân tự động tổ chức nhiều hội hát trên đám đất rộng giữa làng, bên bờ ruộng hay ở đầu cổng xóm. Trai gái ngồi ra hai bên cách nhau chừng mươi thước, giữa hai toán có một cái “trống quân” ngày xưa gọi là “thổ cò”. Trai hát xướng lấy que tre đánh vào dây kêu binh binh; gái hát đáp gõ cái sênh kêu cách cách làm nhịp.
Trống quân cũng như hầu hết các loại dân ca khác, vay mượn nhiều nơi kho tàng phong dao. Văn thể trống quân là thơ lục bát. Nhưng khi hát, câu 6 chữ và câu 8 chữ biến thể là cứ sau tiếng thứ hai của mỗi câu, người hát đệm tiếng thời, thì, hay, này v.v… Và cứ đến tiếng thứ tư của mỗi câu thì lên giọng và thêm vào mấy tiếng í a hay ư, ứ; có khi người hát lặp lại chữ chót của câu 8 chữ.
Thí dụ:
“Trên trời (này) có đám (ứ u) mây xanh
Giữa thì (này) mây trắng (ứ u) chung quanh mây vàng
Ước gì (này) anh lấy được nàng
Thi anh (nay) mua gạch Bát tràng (đem) về xây.
Xây dọc (rồi) anh lại xây ngang
(chứ) xây hồ (này) bán nguyệt (để) cho nàng (chân) rửa chân.
Nên ra (thì) tình ái nghĩa ân.
Chẳng nên (thì) phú giả (ừ) về dân (tràng) Bát (ứ) tràng”
Những tiếng thư; thời, này, rồi, rằng, mà, ấy, mấy nó, cái,com, anh, em v.v… Thêm vào khi hát gọi là tiếng đệm, và những tiếng như í, a, a, ư, ư ,ừ.. gọi là tiếng đưa hơi dùng để ngân nga. Âm hưởng dịu dàng hay réo rắt của tiếng đệm và tiếng đưa hơi làm giọng trống quân mang sức truyền cảm mạnh mẽ.
Đó là đặc điểm quan trọng của Trống quân về hình thức.
Đặc điểm này lại phù hợp với nội dung Trống quân là biểu lộ được nỗi vừa vui vẻ vừa chứa chan cảm động, và nói lên được những thích thú cao thượng của sự sinh hoạt nông thôn, những cảnh đẹp đẽ của quê hương, những điều trù phú đặc biệt của đất nước.
Trống quân còn là một loại hình hát tình tứ, hoặc nói đến nghĩa bạn bè, nhất là hay đề cao tình luyến ái giữa trai gái nông dân.
Trống quân có tính chất đối thoại, nó là một lối hát đối giữa trai và gái, một lối đối đáp hỏi qua lại.
Thí dụ:
Bên trai đố:
“Anh đố em câu này em giải làm sao?
Cái gì (mà) thấp cái gì (mà cao);
Cái gì (mà) mà sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời.
Cái gì (mà) em giải (cho) anh ngồi,
Cái gì (mà) thơ thẩn (ứ) ra chơi (ứ) (đào) vườn đào.
Cái gì (mà) sắc hơn dao (ứ)
Cái gì (mà) phơi phới (ứ) lòng đào (thì) em bảo anh”
Bên gái trả lời:
“Anh đã đố thì em xin giảng ra,
Dưới đất (thì) thấp, trên giời (thì) cao
Ngọn đèn (thì ) sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời…
Chiếu hoa (này) em giải cho anh ngồi (mà)
Đêm rằm (thì) mơ tưởng (ứ) ra chơi (ư) (đào) vườn đào.
(Chứ) Nước kia thì (nó) sắc hơn dao
(Chứ) Trứng gà (thì) phơi phới (ứ) lòng đào (thì em) bảo anh.”
Hát Trống quân, trai gái bao giờ cũng thiên về tình cảm. Hoặc bằng câu ướm hỏi, thử thách, hoặc bằng lời tâm sự. Do đó, Trống quân có tính chất trữ tình, tính chất giao duyên rất sâu sắc. Vì đối đáp, hỏi trả, nên hát Trống quân đòi hỏi người hát phải có tài mẫn tiệp, xuất khẩu thành thi, đột xuất nhanh trí…nhưng bao giờ cũng vẫn giữ thái độ phong nhã, lời không sàm sỡ, lố lăng.
Người hát thuộc về mọi tầng lớp trong xã hội nông thôn, nhà nho, thư sinh hát với con gái gia đình kỳ mục, giàu có hay gia đình thường dân. Họ hoàn toàn không phải ca sỹ chuyên nghiệp mà chỉ là “tài tử” nghiệp dư sinh hát, biết hát… Phần đông là trai và gái đến tuần cập kê, đi hát hội để tìm gặp tài sắc, định ước tương lai.
Từ hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị vào Nam không có hát Trống quân.
Từ Thanh hóa trở ra loại hát này chỉ để hát vào thu nhất là trong tháng tám. Nhưng không hát vào ban ngày mà chỉ hát vào những đêm trăng, nhất là đêm rằm.
Hát hội có hai hình thức:
Hát vui chơi và hát thi lấy giải. Nơi hát có thể là nhà riêng, giữa làng, đầu xóm hay trên sân đình Thành hoàng.
Thi hát có khi tổ chức giữa hai xóm trai và gái. Có khi giữa hai thanh nam thanh nữ.
Ngoài mấy cuộc thi hát tại nhà, trai gái nông dân tự động tổ chức nhiều hội hát trên đám đất rộng giữa làng, bên bờ ruộng hay ở đầu cổng xóm. Trai gái ngồi ra hai bên cách nhau chừng mươi thước, giữa hai toán có một cái “trống quân” ngày xưa gọi là “thổ cò”. Trai hát xướng lấy que tre đánh vào dây kêu binh binh; gái hát đáp gõ cái sênh kêu cách cách làm nhịp.
Trống quân cũng như hầu hết các loại dân ca khác, vay mượn nhiều nơi kho tàng phong dao. Văn thể trống quân là thơ lục bát. Nhưng khi hát, câu 6 chữ và câu 8 chữ biến thể là cứ sau tiếng thứ hai của mỗi câu, người hát đệm tiếng thời, thì, hay, này v.v… Và cứ đến tiếng thứ tư của mỗi câu thì lên giọng và thêm vào mấy tiếng í a hay ư, ứ; có khi người hát lặp lại chữ chót của câu 8 chữ.
Thí dụ:
“Trên trời (này) có đám (ứ u) mây xanh
Giữa thì (này) mây trắng (ứ u) chung quanh mây vàng
Ước gì (này) anh lấy được nàng
Thi anh (nay) mua gạch Bát tràng (đem) về xây.
Xây dọc (rồi) anh lại xây ngang
(chứ) xây hồ (này) bán nguyệt (để) cho nàng (chân) rửa chân.
Nên ra (thì) tình ái nghĩa ân.
Chẳng nên (thì) phú giả (ừ) về dân (tràng) Bát (ứ) tràng”
Những tiếng thư; thời, này, rồi, rằng, mà, ấy, mấy nó, cái,com, anh, em v.v… Thêm vào khi hát gọi là tiếng đệm, và những tiếng như í, a, a, ư, ư ,ừ.. gọi là tiếng đưa hơi dùng để ngân nga. Âm hưởng dịu dàng hay réo rắt của tiếng đệm và tiếng đưa hơi làm giọng trống quân mang sức truyền cảm mạnh mẽ.
Đó là đặc điểm quan trọng của Trống quân về hình thức.
Đặc điểm này lại phù hợp với nội dung Trống quân là biểu lộ được nỗi vừa vui vẻ vừa chứa chan cảm động, và nói lên được những thích thú cao thượng của sự sinh hoạt nông thôn, những cảnh đẹp đẽ của quê hương, những điều trù phú đặc biệt của đất nước.
Trống quân còn là một loại hình hát tình tứ, hoặc nói đến nghĩa bạn bè, nhất là hay đề cao tình luyến ái giữa trai gái nông dân.
Trống quân có tính chất đối thoại, nó là một lối hát đối giữa trai và gái, một lối đối đáp hỏi qua lại.
Thí dụ:
Bên trai đố:
“Anh đố em câu này em giải làm sao?
Cái gì (mà) thấp cái gì (mà cao);
Cái gì (mà) mà sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời.
Cái gì (mà) em giải (cho) anh ngồi,
Cái gì (mà) thơ thẩn (ứ) ra chơi (ứ) (đào) vườn đào.
Cái gì (mà) sắc hơn dao (ứ)
Cái gì (mà) phơi phới (ứ) lòng đào (thì) em bảo anh”
Bên gái trả lời:
“Anh đã đố thì em xin giảng ra,
Dưới đất (thì) thấp, trên giời (thì) cao
Ngọn đèn (thì ) sáng tỏ (ứ) hơn sao (ở) trên trời…
Chiếu hoa (này) em giải cho anh ngồi (mà)
Đêm rằm (thì) mơ tưởng (ứ) ra chơi (ư) (đào) vườn đào.
(Chứ) Nước kia thì (nó) sắc hơn dao
(Chứ) Trứng gà (thì) phơi phới (ứ) lòng đào (thì em) bảo anh.”
Hát Trống quân, trai gái bao giờ cũng thiên về tình cảm. Hoặc bằng câu ướm hỏi, thử thách, hoặc bằng lời tâm sự. Do đó, Trống quân có tính chất trữ tình, tính chất giao duyên rất sâu sắc. Vì đối đáp, hỏi trả, nên hát Trống quân đòi hỏi người hát phải có tài mẫn tiệp, xuất khẩu thành thi, đột xuất nhanh trí…nhưng bao giờ cũng vẫn giữ thái độ phong nhã, lời không sàm sỡ, lố lăng.
Nhạc cụ
Chiếc đàn đất Việt cổ mà sau này người Việt quen gọi là trống đất hay trống quân đã được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc khẳng định là một trong những nhạc khí rất cổ của miền Đông Nam Á. Đó là một thứ đàn dây thô sơ, được tạo âm thanh bằng cách dùng que đánh vào một sợi dây mây căng trên một thùng cộng hưởng đào ngay dưới đất (xem hình vẽ 7)
...
Riêng nhạc cụ cho hát trống quân thì bất di bất dịch, có nghĩa là đàn ở đâu hát ở đó, hoặc hát ở đâu thì làm đàn ở đó. Chưa rõ vì sao tổ tiên lại sáng tạo ra nhạc cụ này, cũng không gọi là đàn mà gọi là trống, có lẽ là phải gõ lên dây chăng? Cái đặc biệt của nhạc cụ đệm cho hát trống quân là âm dương tương sinh, phải có hai người chơi một nhạc cụ, gọi nhạc cụ này cho tên loại hát: Trống quân.
Trống quân không có tang mà là loại đàn đất (thổ cổ), không có cần, có dây căng ghìm chắc hai đầu. Hộp âm đất được khoét hườm hàm ếch, sâu 50 phân, chứa khoảng 100 vỏ ốc nhồi. Miệng hố đậy vừa mâm gỗ hoặc đồng, lấy đất sét dẻo miết kín lại. Một cọc gỗ cao 40-50 phân chống giữa mâm, nâng dây thừng (mây, song hoặc kim loại) làm hai phần dây căng đều nhau. Mỗi hố trống (trống quân) có hai người chơi, mỗi người cầm một cái que dài ba mươi phân, bằng cật tre già vót nhẵn, tròn đều như cây sáo trúc, gõ lên phần dây trước mặt chỗ ngồi của mình sau mỗi câu hát “Thùng thùng thình thùng thình; Thùng thùng thình thùng thình” (Thùng 1,6 ; thình 5,10 là phách mạnh).
Nguyên lý để tạo ra âm thanh của hát trống quân cũng gần giống với chiếc đàn bầu, khi người hát dùng dùi gõ lên dây mây sẽ tạo ra lực truyền xuống mặt trống, âm thanh từ mặt trống lại được tiếp xúc với khoảng không là hố đất phía dưới thùng, tạo nên âm thanh vui tai, trầm ấm rất đặc biệt.
Trống quân là thứ trống đất, đàn đất, bất tiện cho việc thay đổi điểm hát, nên đã được thay thế bằng trống có tang.
...
Hình thức hát Trống quân này thường gắn liền với một nhạc cụ đệm khá đặc biệt được gọi là trống đất (trống thùng, trống quân, hay dựa theo nguyên lý kích âm của nhạc cụ mà một số nhà nghiên cứu gọi nó là đàn đất). Hình dạng của trống đất khá phong phú, mỗi nơi lại có một cách tạo dựng riêng. Nhạc cụ này đa phần được cấu tạo bằng cách đào xuống đất một hố cộng hưởng hình vuông có mỗi cạnh khoảng 40 cm, lấy một tấm ván mỏng hoặc một chiếc mâm đồng đậy lên trên miệng hố. Người ta dựng một que chống (còn gọi là trụ chống) trên chính giữa nắp miệng hố và đóng hai cái cọc ở hai bên chiếc hố, rồi căng một sợi dây mây (dây móc, hay lạt tre, dây đồng, dây thép) dài chừng 4-5 m vào hai đầu cọc đi qua đỉnh đầu que chống. Cũng có nơi người ta đặt trong lòng hố một chiếc chum sành hay một chiếc thùng sắt tây rỗng lật úp rồi dựng que chống ngay trên đáy thùng. Ở một số vùng, người dân tạo dựng trống bằng cách đặt ngay một chiếc chum sành hoặc lật úp một chiếc thùng gỗ hay thùng sắt tây trên mặt đất, rồi căng một sợi dây nối hai đầu cọc đã được đóng ở hai phía của chiếc chum hoặc chiếc thùng đi ngang qua mặt đáy của thùng cộng hưởng mà không dùng que chống (có nơi sử dụng thêm một chiếc nạng gỗ nhỏ làm bằng chạc cây cao chừng 12-15 cm đặt trên đáy thùng để gác sợi dây đi qua). Cũng còn có một số dạng trống đất khác nữa, nhưng nhìn chung vẫn chỉ dựa trên cùng một nguyên lý cấu tạo như vậy. Khi đệm cho hát Trống quân, hai bên nam nữ đứng (hay ngồi) ở hai phía của hố cộng hưởng hay thùng cộng hưởng đánh vào sợi dây, phát lên tiếng “thình thùng thình” như âm thanh của trống [2].
...
Riêng nhạc cụ cho hát trống quân thì bất di bất dịch, có nghĩa là đàn ở đâu hát ở đó, hoặc hát ở đâu thì làm đàn ở đó. Chưa rõ vì sao tổ tiên lại sáng tạo ra nhạc cụ này, cũng không gọi là đàn mà gọi là trống, có lẽ là phải gõ lên dây chăng? Cái đặc biệt của nhạc cụ đệm cho hát trống quân là âm dương tương sinh, phải có hai người chơi một nhạc cụ, gọi nhạc cụ này cho tên loại hát: Trống quân.
Trống quân không có tang mà là loại đàn đất (thổ cổ), không có cần, có dây căng ghìm chắc hai đầu. Hộp âm đất được khoét hườm hàm ếch, sâu 50 phân, chứa khoảng 100 vỏ ốc nhồi. Miệng hố đậy vừa mâm gỗ hoặc đồng, lấy đất sét dẻo miết kín lại. Một cọc gỗ cao 40-50 phân chống giữa mâm, nâng dây thừng (mây, song hoặc kim loại) làm hai phần dây căng đều nhau. Mỗi hố trống (trống quân) có hai người chơi, mỗi người cầm một cái que dài ba mươi phân, bằng cật tre già vót nhẵn, tròn đều như cây sáo trúc, gõ lên phần dây trước mặt chỗ ngồi của mình sau mỗi câu hát “Thùng thùng thình thùng thình; Thùng thùng thình thùng thình” (Thùng 1,6 ; thình 5,10 là phách mạnh).
Nguyên lý để tạo ra âm thanh của hát trống quân cũng gần giống với chiếc đàn bầu, khi người hát dùng dùi gõ lên dây mây sẽ tạo ra lực truyền xuống mặt trống, âm thanh từ mặt trống lại được tiếp xúc với khoảng không là hố đất phía dưới thùng, tạo nên âm thanh vui tai, trầm ấm rất đặc biệt.
Trống quân là thứ trống đất, đàn đất, bất tiện cho việc thay đổi điểm hát, nên đã được thay thế bằng trống có tang.
...
Hình thức hát Trống quân này thường gắn liền với một nhạc cụ đệm khá đặc biệt được gọi là trống đất (trống thùng, trống quân, hay dựa theo nguyên lý kích âm của nhạc cụ mà một số nhà nghiên cứu gọi nó là đàn đất). Hình dạng của trống đất khá phong phú, mỗi nơi lại có một cách tạo dựng riêng. Nhạc cụ này đa phần được cấu tạo bằng cách đào xuống đất một hố cộng hưởng hình vuông có mỗi cạnh khoảng 40 cm, lấy một tấm ván mỏng hoặc một chiếc mâm đồng đậy lên trên miệng hố. Người ta dựng một que chống (còn gọi là trụ chống) trên chính giữa nắp miệng hố và đóng hai cái cọc ở hai bên chiếc hố, rồi căng một sợi dây mây (dây móc, hay lạt tre, dây đồng, dây thép) dài chừng 4-5 m vào hai đầu cọc đi qua đỉnh đầu que chống. Cũng có nơi người ta đặt trong lòng hố một chiếc chum sành hay một chiếc thùng sắt tây rỗng lật úp rồi dựng que chống ngay trên đáy thùng. Ở một số vùng, người dân tạo dựng trống bằng cách đặt ngay một chiếc chum sành hoặc lật úp một chiếc thùng gỗ hay thùng sắt tây trên mặt đất, rồi căng một sợi dây nối hai đầu cọc đã được đóng ở hai phía của chiếc chum hoặc chiếc thùng đi ngang qua mặt đáy của thùng cộng hưởng mà không dùng que chống (có nơi sử dụng thêm một chiếc nạng gỗ nhỏ làm bằng chạc cây cao chừng 12-15 cm đặt trên đáy thùng để gác sợi dây đi qua). Cũng còn có một số dạng trống đất khác nữa, nhưng nhìn chung vẫn chỉ dựa trên cùng một nguyên lý cấu tạo như vậy. Khi đệm cho hát Trống quân, hai bên nam nữ đứng (hay ngồi) ở hai phía của hố cộng hưởng hay thùng cộng hưởng đánh vào sợi dây, phát lên tiếng “thình thùng thình” như âm thanh của trống [2].
Ngoài trống đất, ở một vài địa phương, người ta sử dụng thêm cả chiếc mõ tre làm nhạc cụ đệm, hay có vùng còn sử dụng cả những nhạc cụ định âm để đệm cho hát Trống quân như nhị, sáo… Một số ít nơi không dùng trống đất mà đệm bằng trống da.
Khi hát Trống Quân có trống dẫn nhịp. Người ta còn gọi là trống này là "Trống thùng". Trống thùng được cấu tạo như sau: Hai cọc được được cắm ở hai bên, một bên cọc là phe nam, một bên cọc là phe nữ đứng (hoặc ngồi). Một sợi dây thừng được buộc vào hai cọc, chính giữa sợi dây đặt một cái thùng, mặt rỗng úp xuống một hố đất nhỏ, mặt đáy trên sát sợi dây. Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy thùng mà kêu thành tiếng. Xưa kia, trống thùng làm bằng hai cọc tre cao khoảng 1 mét và một thanh tầm vông gát ngang. Giữa thanh tầm vông người ta đặt một thanh tre vuông góc, một đầu chống lên một miếng ván mỏng được đặt hờ trên một hố đất nhỏ. Khi đối đáp, bên nào hát dứt câu thì đánh vào trống thùng (là phần dây nơi đầu cọc hoặc đầu thanh tầm vông) để làm nhịp "Lưu không", vừa để thúc giục phe bên kia hát đáp lại.
...
Trống quân không phải là một loại trống, mà là một sợi dây dài độ 3,4 thước tây và dày độ một phân tây. Người ta cắm hai đầu sợi mây dưới đất bằng 2 cây cọc nhỏ bằng gỗ hay bằng tre. Ngay chính giữa sợi mây , người ta đào một lỗ vuông độ 4 tấc mỗi bề, rồi bịt lỗ ấy bằng miếng vải mỏng. Có khi người ta dùng một khúc tre, một đầu chống lên sợi mây, một đầu chịu trên mặt gỗ.
Có khi người ta cột sợi mây với mặt ván. Người đánh trống quân dùng 2 chiếc đũa con đánh lên sợi mây. Sợi mây rung làm mặt ván rung, và tiếng mây rung nhờ lỗ đất làm vang thêm nghe thình thùng như tiếng trống. Có khi người ta đào một lỗ miệng tròn và hình như cái chum và đậy miệng lỗ bằng một miếng ván tròn và mỏng.
Có khi người ta để trong lỗ một thùng dầu hỏa. Trên miệng thùng có tấm ván và cây cọc để chống chính giữa sợi mây. Có thùng này tiếng vang càng mạnh. Có khi người ta để trong lỗ một thùng dầu lửa, miệng quay về phía dưới, phía trên có cây cọc chống đáy thùng và căng sợi mây, không cần dùng tấm ván nữa.
Trống đất, đàn đất, bất tiện cho việc thay đổi điểm hát, nên đã được thay thế bằng trống có tang.
Người ta không đào lỗ, chỉ lật úp thùng (dầu lửa hay thùng trà) trên mặt đất và căng dây lên trên thùng.
Chiếc trống là một chiếc thùng gỗ, kèm theo một đoạn dây mây, một cái chạc để kê dây, hai cọc để buộc dây và dùi trống để người hát vừa hát vừa gõ nhịp.
Khi hát Trống Quân có trống dẫn nhịp. Người ta còn gọi là trống này là "Trống thùng". Trống thùng được cấu tạo như sau: Hai cọc được được cắm ở hai bên, một bên cọc là phe nam, một bên cọc là phe nữ đứng (hoặc ngồi). Một sợi dây thừng được buộc vào hai cọc, chính giữa sợi dây đặt một cái thùng, mặt rỗng úp xuống một hố đất nhỏ, mặt đáy trên sát sợi dây. Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật vào đáy thùng mà kêu thành tiếng. Xưa kia, trống thùng làm bằng hai cọc tre cao khoảng 1 mét và một thanh tầm vông gát ngang. Giữa thanh tầm vông người ta đặt một thanh tre vuông góc, một đầu chống lên một miếng ván mỏng được đặt hờ trên một hố đất nhỏ. Khi đối đáp, bên nào hát dứt câu thì đánh vào trống thùng (là phần dây nơi đầu cọc hoặc đầu thanh tầm vông) để làm nhịp "Lưu không", vừa để thúc giục phe bên kia hát đáp lại.
...
Trống quân không phải là một loại trống, mà là một sợi dây dài độ 3,4 thước tây và dày độ một phân tây. Người ta cắm hai đầu sợi mây dưới đất bằng 2 cây cọc nhỏ bằng gỗ hay bằng tre. Ngay chính giữa sợi mây , người ta đào một lỗ vuông độ 4 tấc mỗi bề, rồi bịt lỗ ấy bằng miếng vải mỏng. Có khi người ta dùng một khúc tre, một đầu chống lên sợi mây, một đầu chịu trên mặt gỗ.
Có khi người ta cột sợi mây với mặt ván. Người đánh trống quân dùng 2 chiếc đũa con đánh lên sợi mây. Sợi mây rung làm mặt ván rung, và tiếng mây rung nhờ lỗ đất làm vang thêm nghe thình thùng như tiếng trống. Có khi người ta đào một lỗ miệng tròn và hình như cái chum và đậy miệng lỗ bằng một miếng ván tròn và mỏng.
Có khi người ta để trong lỗ một thùng dầu hỏa. Trên miệng thùng có tấm ván và cây cọc để chống chính giữa sợi mây. Có thùng này tiếng vang càng mạnh. Có khi người ta để trong lỗ một thùng dầu lửa, miệng quay về phía dưới, phía trên có cây cọc chống đáy thùng và căng sợi mây, không cần dùng tấm ván nữa.
Trống đất, đàn đất, bất tiện cho việc thay đổi điểm hát, nên đã được thay thế bằng trống có tang.
Người ta không đào lỗ, chỉ lật úp thùng (dầu lửa hay thùng trà) trên mặt đất và căng dây lên trên thùng.
Chiếc trống là một chiếc thùng gỗ, kèm theo một đoạn dây mây, một cái chạc để kê dây, hai cọc để buộc dây và dùi trống để người hát vừa hát vừa gõ nhịp.
Nghệ thuật hát trống quân
Về âm nhạc, Trống Quân là một làn điệu gần với tiếng nói hơn. Vì lời ca là thơ lục bát và mỗi lần hát có thể dài ngắn khác nhau, nên giai điệu biến đổi theo dấu giọng, Trống Quân lấy đối lời làm chính và được diễn xướng ở tốc độ nhanh vừa, lời ca chỉ có vài tiếng đệm nhằm phục vụ cho việc xây dựng giai điệu như: thời, có mấy, hời, ư, nầy, rằng... Đoạn tiết tấu “Lưu không” của hát Trống Quân:
Thang âm: trống quân Đức Bác tuy có tên gọi giống với các hình thức hát trống quân ở các nơi, nhưng âm điệu, bài bản, thang âm, tiết tấu lại riêng biệt. Thang âm trống quân Đức Bác có 2 loại: thang 3 âm và thang 4 âm. Các bài bản hát trống quân ở vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ như trống quân Hiền Quan, Hữu Bổ (Phú Thọ), Đào Quạt, Bối Khê, Dạ Trạch (Hưng Yên), Tào Khê (Hải Dương), ngã ba sông Móng (Hà Nam)... phần nhiều là thang 5 âm.
Điệu: các bài trống quân thang 5 âm, có bài điệu giống với điệu chủy, có bài điệu giống với điệu vũ.
♪♪|♪♬ ♪♪|♩ ♪♪|♪♬ ♪♪|♩ hoặc ♪♪|♩ ♪♪|♩ ♪♪|♪♬ ♪♪|♩
Trống quân
Có đám mây xanh
Trên trời (thời) có đám mây xanh
Ở giữa (thời) mây trắng (ấy)
Chung quanh mây bển vàng (ư…) - “Lưu không”
Ước gì (thời) anh lấy được nàng thì anh (này)
Mua gạch (ấy) Bát Tràng đem về xây (ư…) - “Lưu không”
Xây dọc (thời) anh lại xây ngang (chứ)
Xây hồ (thời) bán nguyệt (ấy)
Cho nàng chân rửa chân (ư…) - “Lưu không”
Nên chăng (thời) tình ái nghĩa ân
Chẳng nân (này) phi giả (ấy)
Về dân Tràng Bát Tràng – “Lưu không”
Trống quân
Có đám mây xanh
Trên trời (thời) có đám mây xanh
Ở giữa (thời) mây trắng (ấy)
Chung quanh mây bển vàng (ư…) - “Lưu không”
Ước gì (thời) anh lấy được nàng thì anh (này)
Mua gạch (ấy) Bát Tràng đem về xây (ư…) - “Lưu không”
Xây dọc (thời) anh lại xây ngang (chứ)
Xây hồ (thời) bán nguyệt (ấy)
Cho nàng chân rửa chân (ư…) - “Lưu không”
Nên chăng (thời) tình ái nghĩa ân
Chẳng nân (này) phi giả (ấy)
Về dân Tràng Bát Tràng – “Lưu không”
Thang âm: trống quân Đức Bác tuy có tên gọi giống với các hình thức hát trống quân ở các nơi, nhưng âm điệu, bài bản, thang âm, tiết tấu lại riêng biệt. Thang âm trống quân Đức Bác có 2 loại: thang 3 âm và thang 4 âm. Các bài bản hát trống quân ở vùng trung du và châu thổ Bắc Bộ như trống quân Hiền Quan, Hữu Bổ (Phú Thọ), Đào Quạt, Bối Khê, Dạ Trạch (Hưng Yên), Tào Khê (Hải Dương), ngã ba sông Móng (Hà Nam)... phần nhiều là thang 5 âm.
Điệu: các bài trống quân thang 5 âm, có bài điệu giống với điệu chủy, có bài điệu giống với điệu vũ.
Loại nhịp: hát trống quân gắn liền với tiếng gõ nhịp của trống, nên nhịp phách khá rõ ràng, chủ yếu là nhịp 2/4, tiết tấu mạch lạc, khúc triết.
Cấu trúc: từ một câu thơ lục bát hoặc lục bát biến thể, người ta hát lên những bài trống quân, vì thế hầu hết các bài thường có cấu trúc khổ nhạc đơn. Trên cơ sở của khổ nhạc đơn (một câu thơ lục bát), người ta hát nối tiếp một câu lục bát khác, hình thành nên một bài có hai khổ nhạc đơn.
Giai điệu: dựa theo một khung làn điệu, người ta phổ những câu thơ lục bát, lục bát biến thể để hát lên thành những bài bản. Vì thanh điệu của ca từ khác nhau, nên có những nốt nhạc ở bài này khác với bài kia. Tuy nhiên, khi vang lên không cảm thấy khác biệt. Trừ trống quân Đức Bác có khung làn điệu riêng, còn khung làn điệu lối hát trống quân của người Việt ở trung du và châu thổ sông Hồng về cơ bản là giống nhau.
Giai điệu hát trống quân vừa trong sáng, tươi vui, vừa mềm mại, uyển chuyển. Lối tiến hành giai điệu thường nhắc lại câu nhạc, đoạn nhạc có thay đổi và không thay đổi. Giai điệu không có các quãng nhảy rộng (quãng 6 trở lên), quãng 4 đúng, 5 đúng được dùng nhiều.
Kỹ năng hát: hát trống quân là lối hát của mọi người, nên không đòi hỏi phải tập luyện công phu. Nhưng trong các cuộc hát ngày xưa, trai gái đi hát thường là những người nhanh nhẹn, tháo vát, sôi nổi, thông minh, có giọng hát hay. Không gian diễn xướng rộng rãi, khoáng đạt, nơi sân đình, bãi cỏ, bến sông nên người hát phải có giọng vang, khỏe, hát phải tròn vành, rõ chữ.
Theo Nhà nghiên cứu văn hoá Lê Danh Khiêm, trống quân dễ hát, có thể coi là một dạng “hát nói” đơn giản, kết thành giai điệu chủ yếu dựa vào tính nhạc cao của thơ lục bát có cấu trúc bằng-trắc cổ điển... có kèm tiếng đệm và tiếng đưa hơi.
Cấu trúc: từ một câu thơ lục bát hoặc lục bát biến thể, người ta hát lên những bài trống quân, vì thế hầu hết các bài thường có cấu trúc khổ nhạc đơn. Trên cơ sở của khổ nhạc đơn (một câu thơ lục bát), người ta hát nối tiếp một câu lục bát khác, hình thành nên một bài có hai khổ nhạc đơn.
Giai điệu: dựa theo một khung làn điệu, người ta phổ những câu thơ lục bát, lục bát biến thể để hát lên thành những bài bản. Vì thanh điệu của ca từ khác nhau, nên có những nốt nhạc ở bài này khác với bài kia. Tuy nhiên, khi vang lên không cảm thấy khác biệt. Trừ trống quân Đức Bác có khung làn điệu riêng, còn khung làn điệu lối hát trống quân của người Việt ở trung du và châu thổ sông Hồng về cơ bản là giống nhau.
Giai điệu hát trống quân vừa trong sáng, tươi vui, vừa mềm mại, uyển chuyển. Lối tiến hành giai điệu thường nhắc lại câu nhạc, đoạn nhạc có thay đổi và không thay đổi. Giai điệu không có các quãng nhảy rộng (quãng 6 trở lên), quãng 4 đúng, 5 đúng được dùng nhiều.
Kỹ năng hát: hát trống quân là lối hát của mọi người, nên không đòi hỏi phải tập luyện công phu. Nhưng trong các cuộc hát ngày xưa, trai gái đi hát thường là những người nhanh nhẹn, tháo vát, sôi nổi, thông minh, có giọng hát hay. Không gian diễn xướng rộng rãi, khoáng đạt, nơi sân đình, bãi cỏ, bến sông nên người hát phải có giọng vang, khỏe, hát phải tròn vành, rõ chữ.
Theo Nhà nghiên cứu văn hoá Lê Danh Khiêm, trống quân dễ hát, có thể coi là một dạng “hát nói” đơn giản, kết thành giai điệu chủ yếu dựa vào tính nhạc cao của thơ lục bát có cấu trúc bằng-trắc cổ điển... có kèm tiếng đệm và tiếng đưa hơi.
Trống quân, cũng như hầu hết các loại dân ca khác, vay mượn nhiều nơi kho tàng ca dao tục ngữ.
Thơ trong lời hát trống quân giàu hình ảnh, đậm chất trữ tình.
Thể thơ chủ yếu là lục bát và lục bát biến thể (đôi khi là song thất lục bát).
Nội dung lời ca hát trống quân là những câu ví, mượn trăng gió, mây mưa, hoa lá bày tỏ tình cảm lứa đôi, thi tài đố - giảng.
Lời trống quân là thể thơ lục bát được ngắt ra mỗi câu làm 3 đoạn, cách nhau bằng tiếng đệm hoặc nhắc lại. Thí dụ:
Trống quân (mà) anh đánh (đánh) nhịp ba
Lúc vào (thời) nhịp bảy (ấy) lúc ra nhịp mười.
"Thình thùng thình"
Thơ trong lời hát trống quân giàu hình ảnh, đậm chất trữ tình.
Thể thơ chủ yếu là lục bát và lục bát biến thể (đôi khi là song thất lục bát).
Nội dung lời ca hát trống quân là những câu ví, mượn trăng gió, mây mưa, hoa lá bày tỏ tình cảm lứa đôi, thi tài đố - giảng.
Lời trống quân là thể thơ lục bát được ngắt ra mỗi câu làm 3 đoạn, cách nhau bằng tiếng đệm hoặc nhắc lại. Thí dụ:
Trống quân (mà) anh đánh (đánh) nhịp ba
Lúc vào (thời) nhịp bảy (ấy) lúc ra nhịp mười.
"Thình thùng thình"
Hát trống quân làn điệu mộc mạc, giản dị, lấy đối ý, đối lời là chính.
Cái hay, cái khó là người hát phải nhanh trí vận nối được vần, chữ cuối của người hát trước (câu tám) phải vần với chữ cuối dòng đầu (câu sáu) của người hát sau. Thí dụ:
Người trước hát:
Người sau hát tiếp:
Chữ “đây” của người hát trước vần với chữ “dây” của người hát sau. Thế mới đạt cả vần cả ý.
Cái hay, cái khó là người hát phải nhanh trí vận nối được vần, chữ cuối của người hát trước (câu tám) phải vần với chữ cuối dòng đầu (câu sáu) của người hát sau. Thí dụ:
Người trước hát:
May như bắt được kim vàng
May sao lại gặp được chàng ở đây...
May sao lại gặp được chàng ở đây...
Người sau hát tiếp:
Cũng là bà Nguyệt se dây
Se cho mình đến chốn này với ta.
Se cho mình đến chốn này với ta.
Chữ “đây” của người hát trước vần với chữ “dây” của người hát sau. Thế mới đạt cả vần cả ý.
❧ ❀ ❧
Một vài câu hát
Diễn tiến của “canh” hát trống quân gồm có: hát gọi, hát đáp, hát chào, hát mời trầu, hát giao hẹn đến hát ướm, hát thách và cuối cùng là hát hoa, hát đối đáp…
Thứ nhất, là hát chào hỏi, có tính chất làm quen, thăm dò nhau nên rất ý nhị và khiêm nhường:
Hát gọi chào:
Nữ hát:
Nam hát:
Thứ nhất, là hát chào hỏi, có tính chất làm quen, thăm dò nhau nên rất ý nhị và khiêm nhường:
Tháng Tám anh đi chơi xuân
Đồn đây mở hội trống quân anh vào.
Thoạt vào chào cửa tam quan
Hai chào các bạn hồng nhan chơi bời...
Đồn đây mở hội trống quân anh vào.
Thoạt vào chào cửa tam quan
Hai chào các bạn hồng nhan chơi bời...
Hát gọi chào:
Này anh cả, anh hai đấy ơi
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây
Thà rằng đợi chúng em đây
Cho đá khỏi vấp, cho dây khỏi quàng!
Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây
Thà rằng đợi chúng em đây
Cho đá khỏi vấp, cho dây khỏi quàng!
Tháng Bảy anh cắm cành đa
Hẹn nàng tháng Tám nàng ra chốn này
Bây giờ không thấy nàng đâu
Hay là nàng bỏ chốn này nàng đi...
Hẹn nàng tháng Tám nàng ra chốn này
Bây giờ không thấy nàng đâu
Hay là nàng bỏ chốn này nàng đi...
Nữ hát:
Xin chàng mong mỏi làm chi
Giữ lời hẹn ước em thì ra đây
Hẳn là rồng được gặp mây
Bõ công em đợi, bõ ngày chàng mong
Giữ lời hẹn ước em thì ra đây
Hẳn là rồng được gặp mây
Bõ công em đợi, bõ ngày chàng mong
Nam hát:
Bây giờ đã thỏa tấm lòng
Nhớ ngày nhỏ bé bên sông chơi đùa
Nàng đi hái những bông hoa
Tung lên mái tóc tôi đà bảo tôi
Ở đời đẹp lắm chàng ơi
Đánh âu, đánh chắt vui chơi thỏa lòng…
Nhớ ngày nhỏ bé bên sông chơi đùa
Nàng đi hái những bông hoa
Tung lên mái tóc tôi đà bảo tôi
Ở đời đẹp lắm chàng ơi
Đánh âu, đánh chắt vui chơi thỏa lòng…
Này cô ả, cô hai đấy ơi
Thuyền tình vừa ghé tới nơi
Khác tình sao chẳng ra chơi với tình
Đi đâu từ tối chẳng ra
Để anh chờ đợi sương sa lạnh lùng...
Thuyền tình vừa ghé tới nơi
Khác tình sao chẳng ra chơi với tình
Đi đâu từ tối chẳng ra
Để anh chờ đợi sương sa lạnh lùng...
Đón chào từ sớm tới giờ
Để cho tin đợi, tin chờ, tin mong
Để cho tin đợi, tin chờ, tin mong
Đáp:
Chờ mong xin giữ ơn lòng
Cách sông cách đồng giờ mới tới đây...
Cách sông cách đồng giờ mới tới đây...
Đi đâu từ sớm đến giờ
Để cho anh đợi, anh chờ, anh mong
Để cho anh đợi, anh chờ, anh mong
Bên em còn dở hội chùa
Cho nên em phải sang trưa thế này...
Cho nên em phải sang trưa thế này...
Em ơi có hát thì ra
Kẻo anh chờ đợi sương xa lạnh lùng
Đêm lạnh còn có đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn đêm chung áo dài
Hay là em đã nghe ai
Để dùi để trống nằm hoài chơ vơ.
Kẻo anh chờ đợi sương xa lạnh lùng
Đêm lạnh còn có đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn đêm chung áo dài
Hay là em đã nghe ai
Để dùi để trống nằm hoài chơ vơ.
Lúa thu xanh mượt cánh đồng
Lân kha chớ vội nở đòng chàng ơi
Mến chàng thiếp đã ra chơi
Xin chàng chớ vội ngỏ lời nước non...
Lân kha chớ vội nở đòng chàng ơi
Mến chàng thiếp đã ra chơi
Xin chàng chớ vội ngỏ lời nước non...
Hát chào, mời trầu, ướm hỏi:
Nam hát:
Gặp đây mở hội trống quân
Anh vào anh có lời chào
Ba bốn cô ấy cô nào cũng xinh
Anh vào anh có lời chào
Ba bốn cô ấy cô nào cũng xinh
Nữ hát:
Ngỏ lời chào cả đông tây
Nào em có hát ở đây bao giờ
Nào em có hát ở đây bao giờ
Sau khi hát chào hỏi, hiểu biết nhau, họ hát giao ước với nhau những điều cấm kỵ. Ví dụ Hát Môn thờ Hai Bà Trưng là Thành hoàng, lời hát có chữ “Nhị” thì phải hát lệch thành “Nhợi” hoặc những câu thơ văn đã in thành sách như Truyện Kiều, Tống Trân… thì không hát mà phải vận lời mới để nội dung cuộc hát gần gũi mà hấp dẫn. Như thế người chơi phải suy luận sáng suốt, hút người đến xem. Cuối cùng mới phân giải được bên thắng, bên thua.
Hát giao ước
Nam hát:
Nữ hát:
Nam hát:
Hát giao ước
Nam hát:
Anh vào thì có lời rao
Không chồng thì vào, có chồng thì ra
Không chồng thì vào, có chồng thì ra
Nữ hát:
Không chồng em mới tớí đây
Có chồng chiếu trải màn quây ở nhà
Có chồng chiếu trải màn quây ở nhà
Nam hát:
Trước khi hát anh có lời rao
Không chồng thời vào có chồng thời ra
Có chồng thì tránh cho xa
Không chồng mới được lân la chốn này...
Không chồng thời vào có chồng thời ra
Có chồng thì tránh cho xa
Không chồng mới được lân la chốn này...
Nữ hát:
Mời trầu:
Trống quân em lập lên đây
áo trải làm chiếu, khăn quây làm mùng
Đùa vui dưới ánh trăng trong
Có con cũng hát, có chồng cũng chơi
Con thời em mướn vú nuôi
Chồng thời em để hát nơi xóm nhà!...
áo trải làm chiếu, khăn quây làm mùng
Đùa vui dưới ánh trăng trong
Có con cũng hát, có chồng cũng chơi
Con thời em mướn vú nuôi
Chồng thời em để hát nơi xóm nhà!...
Mời trầu:
Trầu này têm tối hôm qua,
Dấu cha dấu mẹ đem ra mời chàng,
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn?
Dấu cha dấu mẹ đem ra mời chàng,
Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa không thuốc sao chàng không ăn?
Trầu bọc khăn trắng cau tươi,
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh,
Ăn cho nó thỏa tấm tình,
Ăn cho nó hả sự mình sự ta.
Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh,
Ăn cho nó thỏa tấm tình,
Ăn cho nó hả sự mình sự ta.
Anh ăn một miếng trầu nồng,
để cho duyên bén tơ hồng đôi ta.
để cho duyên bén tơ hồng đôi ta.
Thứ hai là hát kết bạn, phần chính nên rất phong phú, sôi nổi, đôi khi còn gay cấn trong những câu hát đối.
Những câu ví thổ lộ tình cảm:
Trích giới thiệu một khúc hát “huê tình” thuộc chặng thứ hai của cuộc hát ở một số điểm trong tỉnh Nam Hà.
Nam
Nữ
Những câu ví thổ lộ tình cảm:
Mong cho bướm được gần hoa
Cùng nhau xum họp một nhà trúc mai
Cùng nhau xum họp một nhà trúc mai
May như bắt được kim vàng
May sao lại gặp được chàng ở đây
May sao lại gặp được chàng ở đây
Cũng là bà Nguyệt se dây
Se cho mình đến chốn này với ta.
Se cho mình đến chốn này với ta.
Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Anh tìm đâu được người hơn là nàng
Anh xin gửi tấm lòng vàng
Anh quyết yêu nàng, nàng chớ quên anh
Gần xa nô nức yến oanh
Sân đình chật ních trai thanh gái tài
Đôi ta vào hội hát chơi
Trước sau rồi sẽ thành đôi vợ chồng
Anh tìm đâu được người hơn là nàng
Anh xin gửi tấm lòng vàng
Anh quyết yêu nàng, nàng chớ quên anh
Gần xa nô nức yến oanh
Sân đình chật ních trai thanh gái tài
Đôi ta vào hội hát chơi
Trước sau rồi sẽ thành đôi vợ chồng
Trích giới thiệu một khúc hát “huê tình” thuộc chặng thứ hai của cuộc hát ở một số điểm trong tỉnh Nam Hà.
Nam
Chát chua ta đã hát rồi.
Ngọt ngào em hát đôi lời cùng nghe.
Ngọt ngào em hát đôi lời cùng nghe.
Nữ
Một năm có mấy tháng xuân
Một ngày là mấy giờ dần chàng ơi!
Vì ai tay biếng đưa thoi
Oanh đôi ngại dệt, bướm đôi ngại thùa
Vì ai ra ngẩn vào ngơ
Vì ai em phải ngẩn ngơ đi tìm.
Một ngày là mấy giờ dần chàng ơi!
Vì ai tay biếng đưa thoi
Oanh đôi ngại dệt, bướm đôi ngại thùa
Vì ai ra ngẩn vào ngơ
Vì ai em phải ngẩn ngơ đi tìm.
Nam
Tìm nàng như thể tìm chim
Chim ăn bể Bắc đi tìm bể đông.
Tìm nàng hồ đã gắng công
Hải Phòng tìm đoạn, tỉnh Đông tìm rồi.
Mong sao gặp mặt chàng ơi
Mong sao gặp mặt để tôi yên lòng
Ngày ngày tôi đứng tôi trông
Lại dốc một lòng tìm đến Bắc Ninh
Cũng vì cả một chữ tình
Bắc Ninh không thấy hỏi mình đi đâu?
Chân đi miệng lại khấn cầu
Lạy giời phù hộ gặp nhau quê nhà.
Tìm gần rồi lại tìm xa
Tìm hết giốc Lốc cùng là Đò Quan
Tìm nàng chả thấy được nàng
Cầu Sắt Bến Thóc lại sang chợ Rồng
Phố phường hàng lắm người đông
Thẩn thơ tìm mãi mà không thấy nàng.
Hay nàng đã vội sang ngang
Bỏ tôi ở lại nhỡ nhàng bơ vơ
Lại tìm khắp hội Đồng Phù
Phủ Dày, Cổ Lễ quay về đền Din
Nước non cách mấy dặm nghìn
Hỏi lòng còn nhớ hay quên hỡi lòng?
Nhớ nàng hết ngóng lại trông
Lấy ai vào đám hát cùng nàng ơi!
Bây giờ gặp mặt nhau rồi
Thì tôi mới kể khúc nhôi đi tìm
Trăm năm vì một chữ tình
Vì chung giọng hát với mình, mình ơi!...
Chim ăn bể Bắc đi tìm bể đông.
Tìm nàng hồ đã gắng công
Hải Phòng tìm đoạn, tỉnh Đông tìm rồi.
Mong sao gặp mặt chàng ơi
Mong sao gặp mặt để tôi yên lòng
Ngày ngày tôi đứng tôi trông
Lại dốc một lòng tìm đến Bắc Ninh
Cũng vì cả một chữ tình
Bắc Ninh không thấy hỏi mình đi đâu?
Chân đi miệng lại khấn cầu
Lạy giời phù hộ gặp nhau quê nhà.
Tìm gần rồi lại tìm xa
Tìm hết giốc Lốc cùng là Đò Quan
Tìm nàng chả thấy được nàng
Cầu Sắt Bến Thóc lại sang chợ Rồng
Phố phường hàng lắm người đông
Thẩn thơ tìm mãi mà không thấy nàng.
Hay nàng đã vội sang ngang
Bỏ tôi ở lại nhỡ nhàng bơ vơ
Lại tìm khắp hội Đồng Phù
Phủ Dày, Cổ Lễ quay về đền Din
Nước non cách mấy dặm nghìn
Hỏi lòng còn nhớ hay quên hỡi lòng?
Nhớ nàng hết ngóng lại trông
Lấy ai vào đám hát cùng nàng ơi!
Bây giờ gặp mặt nhau rồi
Thì tôi mới kể khúc nhôi đi tìm
Trăm năm vì một chữ tình
Vì chung giọng hát với mình, mình ơi!...
Nội dung lời hát chuyển dần thành những ước nguyện.
Đến hát yêu:
Rồi lại hát nhớ:
Đến hát thương:
Và hát tìm:
Nữ hát:
Nam đáp lại rằng:
Ước gì ta lấy được nàng
Mùa nào thức ấy gửi sang làm quà…
Mùa nào thức ấy gửi sang làm quà…
Đến hát yêu:
Một yêu cái cảnh huê tình
Hai yêu ta đứng với mình hôm qua.
Hai yêu ta đứng với mình hôm qua.
Rồi lại hát nhớ:
Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi
Nhớ miệng chàng nói, nhớ lời chàng than
Nhớ miệng chàng nói, nhớ lời chàng than
Nhớ em là gái thuyền quyên
Anh đã đi ngủ, dậy liền đi ra…
Anh đã đi ngủ, dậy liền đi ra…
Đến hát thương:
Cây sơn lâm lá cội sơn vàng
Cây bao nhiêu lá, thương chàng bấy nhiêu.
Cây bao nhiêu lá, thương chàng bấy nhiêu.
Và hát tìm:
Tai nghe tiếng hát đâu đây
Ta về ta sắm thuyền mây đi tìm…
Ta về ta sắm thuyền mây đi tìm…
Nữ hát:
Anh đi làm thợ nơi nao
Để em gánh đục gánh bào đi theo...
Để em gánh đục gánh bào đi theo...
Nam đáp lại rằng:
Bốn cửa chạm bốn con nghê
Bốn con nghê đực chầu về xứ Đông
Bốn cửa chạm bốn con rồng
Ngày thời bắt chuột tối thời rồng leo...
Bốn con nghê đực chầu về xứ Đông
Bốn cửa chạm bốn con rồng
Ngày thời bắt chuột tối thời rồng leo...
Trách:
Công anh gánh đất trồng đào
Bây giờ hoa để lọt vào tay ai...
Bây giờ hoa để lọt vào tay ai...
Hát ước hẹn:
Vừng trăng nay vẫn còn non
Hoa đương chúm chím như còn ngủ yên
Xin chàng giữ trọn niềm tin
Sang năm khôn lớn kết duyên vội gì.
Hoa đương chúm chím như còn ngủ yên
Xin chàng giữ trọn niềm tin
Sang năm khôn lớn kết duyên vội gì.
Hát thề nguyền:
Anh xin gửi tấm lòng vàng
Nguyện lấy được nàng, nàng chớ quên anh...
Nguyện lấy được nàng, nàng chớ quên anh...
Chàng đi cho thiếp theo cùng,
đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam...
Ngày mai theo anh về nhà,
trăm năm em gọi anh là chồng em...
Xin chàng chàng chớ giận hờn
Vì em chàng giải nguồn cơn Tấn Tần
Thương nhau xích lại cho gần
Chẳng cần vàng bạc, chẳng cần giàu sang
Thầy u cũng muốn thương chàng
Cho đôi đứa, kết đá vàng cùng nhau
đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam...
Ngày mai theo anh về nhà,
trăm năm em gọi anh là chồng em...
Xin chàng chàng chớ giận hờn
Vì em chàng giải nguồn cơn Tấn Tần
Thương nhau xích lại cho gần
Chẳng cần vàng bạc, chẳng cần giàu sang
Thầy u cũng muốn thương chàng
Cho đôi đứa, kết đá vàng cùng nhau
Hát trống quân đến đoạn cao trào, gay cấn giữa hai bên là hát đố và hát giảng:
Nam:
Quả gì ngọt lắm chàng ơi?
Quả gì anh để hành ngơi trong nhà?
Quả gì anh để hành ngơi trong nhà?
Nam:
Quả gì năm múi năm khe
Quả gì nứt nở như đe nhà giàu
Quả gì người ước kẻ ao
Quả gì long lánh như sao trên trời
Quả gì ăn đủ năm mùi
Quả gì to lớn có người ngồi trong
Quả gì thích chữ trăng rằm
Quả gì cùi trắng nước trong hỡi nàng
Quả gì da nó vàng vàng
Quả gì lăn lóc giữa đường cái đi
Quả gì vốn nó xù xì
Quả gì đóng cọc em thì mang phơi
Quả gì năm ngón nàng ơi
Quả gì anh để có nơi trong nhà
Quả gì thờ mẹ kính cha
Quả gì đem dẫn cùng ba cô nàng
Quả gì nứt nở như đe nhà giàu
Quả gì người ước kẻ ao
Quả gì long lánh như sao trên trời
Quả gì ăn đủ năm mùi
Quả gì to lớn có người ngồi trong
Quả gì thích chữ trăng rằm
Quả gì cùi trắng nước trong hỡi nàng
Quả gì da nó vàng vàng
Quả gì lăn lóc giữa đường cái đi
Quả gì vốn nó xù xì
Quả gì đóng cọc em thì mang phơi
Quả gì năm ngón nàng ơi
Quả gì anh để có nơi trong nhà
Quả gì thờ mẹ kính cha
Quả gì đem dẫn cùng ba cô nàng
Hoặc:
Nữ:
Cái gì sắc như dao cau
Cái gì tiện chũm cho nhau ăn cùng?
Cái gì tiện chũm cho nhau ăn cùng?
Nữ:
Quả khế năm múi túi khe
Quả na nứt nẻ như đe nhà giàu
Quả mận kẻ ước người ao
Quả mai lóng lánh như sao trên trời
Quả lê ăn đủ năm mùi
Quả động to lớn có người ngồi trong
Quả chuối thích chữ trăng rằm
Quả dừa cùi trắng nước trong hỡi chàng
Quả thị da nó vàng vàng
Thiều biêu lăn lóc giữa đường cái đi
Quả nâu vốn nó xù xì
Quả mít đóng cọc anh thì đem phơi
Bạch thủ năm ngón chàng ơi
Thanh thiên anh để thảnh thơi trong nhà
Quả hồng thờ mẹ kính cha
Quả cau anh hỏi được ba cô nàng
Quả na nứt nẻ như đe nhà giàu
Quả mận kẻ ước người ao
Quả mai lóng lánh như sao trên trời
Quả lê ăn đủ năm mùi
Quả động to lớn có người ngồi trong
Quả chuối thích chữ trăng rằm
Quả dừa cùi trắng nước trong hỡi chàng
Quả thị da nó vàng vàng
Thiều biêu lăn lóc giữa đường cái đi
Quả nâu vốn nó xù xì
Quả mít đóng cọc anh thì đem phơi
Bạch thủ năm ngón chàng ơi
Thanh thiên anh để thảnh thơi trong nhà
Quả hồng thờ mẹ kính cha
Quả cau anh hỏi được ba cô nàng
Khi thì bên nam hát đố, bên nữ hát giảng và ngược lại, đến khi một trong hai bên bí vận không giảng được, đành phải chịu thua cuộc.
Thi tài đố - giảng giữa trai và gái:
Nam hát:
Nữ hát:
trai đáp:
Người con gái nhanh trí đáp lại:
Thi tài đố - giảng giữa trai và gái:
Nam hát:
Thấy em hay hát hay hò
Hỏi rằng con bò là mấy trăm lông
Hỏi rằng con bò là mấy trăm lông
Nữ hát:
Anh về đếm cá dưới sông
Thì anh sẽ thấy được lông con bò
Hát đố: Thì anh sẽ thấy được lông con bò
Nghe anh chữ tốt văn hay
Em đố câu này anh giảng cho mau
Truyện Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh tìm được một câu sáu chày?
Em đố câu này anh giảng cho mau
Truyện Kiều anh đã thuộc làu
Đố anh tìm được một câu sáu chày?
trai đáp:
Yêu nhau nên nhớ lời nhau
Năm chày tháng chẳng bao lâu mà chày
Truyện Kiều là truyện rất hay
Đố đọc truyện này bằng một câu ca.
Năm chày tháng chẳng bao lâu mà chày
Truyện Kiều là truyện rất hay
Đố đọc truyện này bằng một câu ca.
Người con gái nhanh trí đáp lại:
Trăm năm trong cõi người ta
Mua vui cũng được một vài trống canh.
Mua vui cũng được một vài trống canh.
nam hát hỏi rằng:
Đồn em hay kể chuyện Kiều
Nhân đây anh hỏi mấy điều xem sao?
Kiều - Vân em chị thế nào
Ai hơn ai kém má đào Xuân xanh.
Nhân đây anh hỏi mấy điều xem sao?
Kiều - Vân em chị thế nào
Ai hơn ai kém má đào Xuân xanh.
Bên nữ mới đáp:
Hỏi sao ngoắt ngoéo thế anh
Thúy Kiều là chị rõ rành hẳn hoi
Hai nàng cùng đẻ sinh đôi
Anh nhắc câu chuyện em thời tỏ ra
Đầu lòng hai ả Tố Nga...
Thúy Kiều là chị rõ rành hẳn hoi
Hai nàng cùng đẻ sinh đôi
Anh nhắc câu chuyện em thời tỏ ra
Đầu lòng hai ả Tố Nga...
Đáp xong, bên nữ cũng đáo để không kém, hát hỏi nên nam:
Bây giờ núi trả lời non
Em hỏi thực chàng Từ Hải con ai...
Em hỏi thực chàng Từ Hải con ai...
Bên nam “bí cờ”, đành phịa:
Từ Hải chính thực người tài
Con ông Từ Bể vốn người Việt Đông...
Con ông Từ Bể vốn người Việt Đông...
Trai hỏi:
Gái trả lời:
Cái gì mà nó thấp cái gì cao
Cái gì mà sáng tỏ hơn sao trên trời.
Cái gì mà anh giải cho em ngồi
Đêm nằm thời mơ tưởng dạo chơi vườn đào.
Cái gì mà nó sắc hơn dao
Cái gì mơn mởn lòng đào thì anh bảo em.
Cái gì mà sáng tỏ hơn sao trên trời.
Cái gì mà anh giải cho em ngồi
Đêm nằm thời mơ tưởng dạo chơi vườn đào.
Cái gì mà nó sắc hơn dao
Cái gì mơn mởn lòng đào thì anh bảo em.
Gái trả lời:
Anh hỏi thì em xin thưa
Thưa rằng thời đất thấp giời cao
Ngọn đèn thời sáng tỏ hơn sao trên giời
Chiếu hoa thời anh giải cho em ngồi
Đêm nằm thời mơ tưởng dạo chơi vườn đào
Nước trong thời nó sắc hơn dao
Trứng gà thời mơn mởn, lòng đào thì em bảo anh.
Thưa rằng thời đất thấp giời cao
Ngọn đèn thời sáng tỏ hơn sao trên giời
Chiếu hoa thời anh giải cho em ngồi
Đêm nằm thời mơ tưởng dạo chơi vườn đào
Nước trong thời nó sắc hơn dao
Trứng gà thời mơn mởn, lòng đào thì em bảo anh.
Dưới đây là đoạn hát đối đáp của hội trống quân Đào - Tào.
Nam (Hỏi)
Nữ (Đáp)
Nam (Đáp)
Nam (Hỏi)
Những mong hiểu rộng biết dài
Hỏi thăm bên đó có ai chung tình?
Hỏi thăm bên đó có ai chung tình?
Nữ (Đáp)
Xinh xinh cái nấm trúc xinh
Đệ nhất chung tình có Chử Đồng Tử - Tiên Dung.
Nữ (Hỏi)Đệ nhất chung tình có Chử Đồng Tử - Tiên Dung.
Hai bờ chung một dòng sông
Hào kiệt anh hùng bên ấy là ai?
Hào kiệt anh hùng bên ấy là ai?
Nam (Đáp)
Lời vàng như nắng ban mai
Đệ nhất ai tài là Tiết chế Hưng Đạo Vương.
Đệ nhất ai tài là Tiết chế Hưng Đạo Vương.
Cuộc chơi chuyển sang hát họa sông thì bên nam họa núi, rồi họa chợ, họa trời…
Hát họa trời đất:
Rồi họ lại khéo léo chuyển sang các bài hát thách cưới, rất trào lộng, hóm hỉnh làm cho cuộc hát tưởng như không thể dứt ra được:
thách cưới:
Hát họa trời đất:
Bài đất em đã họa rồi
Chàng họa bài trời cho chúng em nghe
Xin đừng ăn xổi ở thì
Họa xong em đón chàng về nhà chơi.
Chàng họa bài trời cho chúng em nghe
Xin đừng ăn xổi ở thì
Họa xong em đón chàng về nhà chơi.
Rồi họ lại khéo léo chuyển sang các bài hát thách cưới, rất trào lộng, hóm hỉnh làm cho cuộc hát tưởng như không thể dứt ra được:
Cưới em chín tấm lụa đào
Chín mươi hạt ngọc, chín mươi ông sao trời.
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi
Xin chàng chín chục con dơi góa chồng.
Chín mươi hạt ngọc, chín mươi ông sao trời.
Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi
Xin chàng chín chục con dơi góa chồng.
thách cưới:
Cưới em trăm tấm lụa đào...
Tráp trầu đủ cả trăm đôi
Ống vôi bằng bạc, chìa vôi bằng vàng...
Cưới em một vạn trâu bò
Hai vạn dê lợn, chín vò rượu tăm.
Lá đa mặt nguyệt đêm rằm
Răng nanh chú Cuội, Râu cằm Thiên lôi...
Thách vậy mới thỏa tấm lòng.
Chàng mà lo được thiếp cùng xin theo.
Tráp trầu đủ cả trăm đôi
Ống vôi bằng bạc, chìa vôi bằng vàng...
Cưới em một vạn trâu bò
Hai vạn dê lợn, chín vò rượu tăm.
Lá đa mặt nguyệt đêm rằm
Răng nanh chú Cuội, Râu cằm Thiên lôi...
Thách vậy mới thỏa tấm lòng.
Chàng mà lo được thiếp cùng xin theo.
Anh đây con trai nhà nghèo
Đã lâu không nói đủ điều anh lo
Bây giờ thầy mẹ thách to
Công việc thế ấy anh lo thế nào
Cho dù em đẹp hơn sao
Để anh lận đận đi vào thương yêu
Mẹ em thách cưới cho nhiều
Thử xem anh nghèo có cưới được không
Nghèo thời bán núi bán sông
Lấy tiền mà cưới quyết không chịu về…
Đã lâu không nói đủ điều anh lo
Bây giờ thầy mẹ thách to
Công việc thế ấy anh lo thế nào
Cho dù em đẹp hơn sao
Để anh lận đận đi vào thương yêu
Mẹ em thách cưới cho nhiều
Thử xem anh nghèo có cưới được không
Nghèo thời bán núi bán sông
Lấy tiền mà cưới quyết không chịu về…
Đáp:
thách:
Người con trai không kém phần tài trí, đa tình, cũng “mười phân vẹn mười”, sắc nét, không chịu kém cạnh, không chịu rời ra:
Nghèo thì bán núi bán sông
Lấy tiền mà cưới bõ công đi về
Anh đây có cái nhà tre
Đố làm bằng sậy, rui mè bằng lau
Cột cái bằng cây thầu dầu
Mái nhà anh lợp bằng tầu chuối khô
Ván bưng thời đóng bằng mo
Câu đầu cũng chạm con cò, con chim
Sau có khóm khoai lim
Trước nhà rau rệu bìm bìm cảnh chơi
Nước ăn anh hứng mưa trời...
Em về sinh sống cùng anh
Giường rơm, chăn cói, quạt mành, mo cau
Đôi ta ý hợp tâm đầu
Anh êm, em ấm trước sau vẹn tròn.
Lấy tiền mà cưới bõ công đi về
Anh đây có cái nhà tre
Đố làm bằng sậy, rui mè bằng lau
Cột cái bằng cây thầu dầu
Mái nhà anh lợp bằng tầu chuối khô
Ván bưng thời đóng bằng mo
Câu đầu cũng chạm con cò, con chim
Sau có khóm khoai lim
Trước nhà rau rệu bìm bìm cảnh chơi
Nước ăn anh hứng mưa trời...
Em về sinh sống cùng anh
Giường rơm, chăn cói, quạt mành, mo cau
Đôi ta ý hợp tâm đầu
Anh êm, em ấm trước sau vẹn tròn.
thách:
Bao giờ chạch lên ngọn đa
Em xin cha mẹ về nhà cùng anh.
Em xin cha mẹ về nhà cùng anh.
Người con trai không kém phần tài trí, đa tình, cũng “mười phân vẹn mười”, sắc nét, không chịu kém cạnh, không chịu rời ra:
Sáo chui xuống nước hôm qua
Trứng to bằng quả trứng gà nhà anh
Cau tươi anh đẵn một cành
Đã nhờ người để trong mành nhà em
Kiệu kia anh đã khênh sang
Để mai anh rước cô nàng về dinh.
Trống Quân Thách CướiTrứng to bằng quả trứng gà nhà anh
Cau tươi anh đẵn một cành
Đã nhờ người để trong mành nhà em
Kiệu kia anh đã khênh sang
Để mai anh rước cô nàng về dinh.
Cuộc hát càng khuya càng say đắm, họ say nhau vì nết, say nhau vì tài đối ứng thông minh thanh thoát, có khi thâu đêm, gà gáy sáng mới chịu ra về. Ngày hôm sau không bỏ công việc đồng áng, tối lại hẹn hò nhau ca hát tiếp theo.
Bên nữ vẫn còn say mê:
Trăng lên rồi lại trăng tà
Sương đầm vai áo chúng ta cùng về.
Sương đầm vai áo chúng ta cùng về.
Bên nữ vẫn còn say mê:
Anh về, anh đợi em về
Cuộc chơi còn dở em về làm sao!
Cuộc chơi còn dở em về làm sao!
Trước lúc chia tay là bài giã bạn:
Hẹn hò:
Đêm thanh gà gáy cũng thanh
Hàng xóm ngủ cả, xung quanh ngủ rồi.
Còn chàng với thiếp mà thôi
Chàng về đi ngủ, thiếp tôi ra về.
Hàng xóm ngủ cả, xung quanh ngủ rồi.
Còn chàng với thiếp mà thôi
Chàng về đi ngủ, thiếp tôi ra về.
Hẹn hò:
Thương người lắm lắm người ơi
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than...
Biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than...
Anh về, anh bẻ cành lá anh cắm xuống đây
Đến mai em cứ chốn này mà ra.
Đến mai em cứ chốn này mà ra.
❧ ❀ ❧
Các bài viết sưu tầm trên mạng
- Hát trống quân người Việt - , 1/5/2012, Blog Si phu Bac Ha.
- Mấy nét đặc sắc của hát trống quân Hưng Yên - Vũ Hồng Đức, 17/3/2011, Báo điện tử Hưng Yên
- Văn hóa dân gian tại Hưng Yên - Hát trống quân - Hưng Yên 24h - Sân chơi giới trẻ Hưng Yên
- Vinh danh nghệ nhân hát trống quân Hưng Yên: Mái đầu bạc và câu hát tình yêu - 06/01/2012, Hội Nông dân tỉnh Hưng Yên
- Hát trống quân Dạ Trạch - Nét văn hóa đặc sắc cần lưu giữ và phát triển - Vi Ngoan, Cổng thông tin điện tử tỉnh Hưng Yên - Huyện Khoái Châu.
- Hát trống quân Dạ Trạch - Ngô Thế Hải, 24/03/2011, Ca Dao Tục Ngữ - Hà Phương Hoài
- Trống quân Dạ Trạch - Điệu hát của tình yêu - Thu Hiền, 10/08/2011, Kênh truyền hình Nông nghiệp - Nông thôn VTC16
- Hát trống quân ở Hát Môn - Nhớ Về Hà Nội: Trang thông tin điện tử tổng hợp về thành phố Hà Nội.
- Khôi phục điệu hát trống quân ở Đan Phượng (Hà Tây) - Báo Hà Tây, 05/05/2008, Tin tức Du lịch.
- Hát trống quân Đức Bác: Những "báu vật" còn lại - Nguyễn Hải Sơn, 05/03/2010, Báo điện tử VnMedia.
- Trống quân Đức Bác - 03/12/2007, http://tranquanghai.info/.
- Trống quân Đức Bác - 20 tháng 04 năm 2004, Cổng thông tin điện tử Vĩnh Phúc.
- Trống quân Đức Bác - Tào Xuân Thủy, 22/10/2009, Báo điện tử QĐND.
- Sông Lô chiều cuối năm - Dương Đình Tường, 08/12/2010, Báo điện tử Nông nghiệp Việt Nam.
- Về Ngọc Cục nghe hát trống quân - TIẾN HUY, 28/01/2011, Báo Hải Dương.
- Nơi duy nhất hát trống quân đêm Trung thu - 30/9/2009, NhacViet Plus.
- Trung thu độc đáo nhất Bắc Bộ - Hà Tùng Long, 03/10/2009, Giadinh.net.vn, Báo Gia đình và Xã hội.
- Nơi duy nhất hát trống quân đêm Trung thu - Bùi Xuân Tiến, 30/09/2009, Bee.net.vn.
- Đi tìm người hát điệu trống quân xưa đất Kinh Bắc - Hà Dịu, 07/02/2011, Báo điện tử Sài Gòn tiếp thị media.
- Về Khánh Hà nghe hát trống quân - Theo Báo Lao Động điện tử, 7/9/2008, Vietnamtime.org.
- Hát trống quân làng Ngọc Trì - Lê Xuân Tê, 15/9/2005, Báo điện tử Hưng Yên.
- Tết Trung thu: Mùa trăng đôi lứa - 21/9/2007, Báo Sức Khoẻ và Đời Sống.
- Hát trống quân- Thực trạng cần bảo tồn - Nguyễn Mai Thoa, 04/11/2011, Báo Phú Thọ.
- Tết Trung thu: Mùa trăng đôi lứa - , 21/09/2007, Báo SứcKhoẻ và Đời Sống.
- Hát trống quân - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
- Hát trống quân - Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam.
- Hát trống quân - Trích: điển hay tích lạ - Nguyễn Tử Quang, 20/10/2006, tại trang Tứ Hải.
- ÂM THANH HÙNG VĨ CỦA TRỐNG ĐỒNG VIỆT CỔ - Lê Văn Hảo, Trang Cuộc Sống Việt.
- Hò Hội hay Hát Hội - (trong Phân Loại Dân Ca Cổ), Phạm Duy, http://www.phamduy.com/.
- Hát trống quân Dạ Trạch - Phạm Lê Hòa, 13/2/2011, Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương.
- Hát trống quân - Phạm Trọng Toàn, 08/11/2010, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật.
- Hát Trống Quân - Đông Lan, trong Văn Minh Làng Quê Việt, Mẹ Việt Nam.
- Trống Quân - trong Tự thân vang (Idiophone), Viện nghiên cứu âm nhạc Huế.
- Hát trống quân - tieuboingoan, 25/02/2008, Ca Dao Tục Ngữ.
- Hát Trống quân - Quỳnh Anh (ST), 24/08/2009, mtv.vn.
- Ngày xuân nghe hát trống quân . . . - Vũ Lâm, 12/02/2009, Thể thao Văn hóa.
- Các khúc hát giao duyên vào mùa gặt lúa - Thy Nga, 06/09/2009, Trang Trần Quang Hải (RFA).
- Hát trống quân - Cinet tổng hợp.
- Trống quân - Trích từ VĂN LANG VŨ BỘ, Kim Định, tại Trang Dũng Lạc dunglac.org.
- TRỐNG QUÂN XƯA VÀ NAY Ở VIỆT NAM
- Phạm Minh Hương, Viện Âm nhạc Việt Nam, Âm nhạc Truyền thống Việt Nam. - TRỐNG QUÂN IN VIETNAM NOW AND THEN
- Phạm Minh Hương, Vietnamese Institute for Musicology, Vietnamese Traditional Music - Âm nhạc Truyền thống Việt Nam. - Trong Quan singing (Hát Trống Quân) - Waytovietnam Travel.
- Hát trống quân - Audio
Video sưu tầm trên mạng
Di Sản Văn Hóa: Trống QuânHát trống quân [ANTTVN]
"Nhời chào - mời trầu"
Trống quân Dạ Trạch
Trống quân Dạ Trạch
Lấy chồng thợ mộc sướng sao
Hát trống quân - 1
Phim tài liệu về Hát trống quân
Phim tài liệu về Hát trống quân
Hát trống quân - 4
Phim tài liệu về Hát trống quân
Phim tài liệu về Hát trống quân
Hát Trống Quân
Mấy nét đặc sắc của hát trống quân Hưng Yên
Hát trống quân được coi là một loại dân ca đặc biệt ở miền Bắc, một di sản văn hoá dân tộc, một thời được nhân dân đồng bằng Bắc Bộ ưa thích ngang với hát chèo.
Những bài hát trống quân đã thu thập được với những canh hát, cuộc hát trên sàn diễn còn đến nay rất sinh động, trào lộng mà trang nhã, thông minh , chứng tỏ trình độ sáng tạo nghệ thuật của nhân dân. Giờ đây, trống quân được hát ở cả hội hè, đình đám, hát theo bài bản sẵn có, đối đáp ngay tại nơi diễn, mặt nhìn mặt giữa thanh thiên bạch nhật hay dưới ánh điện sáng trưng, giai điệu bài hát lặp lại nhiều lần mà không phát triển.
Những bài hát trống quân đã thu thập được với những canh hát, cuộc hát trên sàn diễn còn đến nay rất sinh động, trào lộng mà trang nhã, thông minh , chứng tỏ trình độ sáng tạo nghệ thuật của nhân dân. Giờ đây, trống quân được hát ở cả hội hè, đình đám, hát theo bài bản sẵn có, đối đáp ngay tại nơi diễn, mặt nhìn mặt giữa thanh thiên bạch nhật hay dưới ánh điện sáng trưng, giai điệu bài hát lặp lại nhiều lần mà không phát triển.
Sợ rằng hát thế sẽ làm mất đi cái đặc sắc vốn có của trống quân Hưng Yên, Hải Dương so với các địa phương khác ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ từng hát.
Hãy đặt hát trống quân trong diễn xướng ở một không gian cụ thể trong sinh hoạt văn nghệ dân gian mà xem xét, sẽ rút ra được cái khác biệt của trống quân Hưng Yên (và Hải Dương):
Hãy đặt hát trống quân trong diễn xướng ở một không gian cụ thể trong sinh hoạt văn nghệ dân gian mà xem xét, sẽ rút ra được cái khác biệt của trống quân Hưng Yên (và Hải Dương):
Trống quân xưa, thường hát vào những đêm trăng, nhất là mùa trăng thu, nên gọi trống quân là bản tình ca mùa thu hoặc tình ca đêm vàng là thế. Đặc biệt là những canh hát diễn ra dưới trăng tháng tám hằng năm làm xao xuyến lòng ai, ngỡ mình dự hội xuân nào đấy:
Tháng tám anh đi chơi xuân
Thấy đây mở hội trống quân anh vào
Hội điểm trống quân Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ) và Khúc Lộng (xã Vĩnh Khúc) huyện Văn Giang; hội hát trống quân liên tỉnh giữa làng Tào (xã Thúc Kháng, Bình Giang,Hải Dương) với làng Đầu (Bãi Sậy, Ân Thi, Hưng Yên) và cuộc hát các làng ở hai bên bờ sông Cửu An, dài mấy cây số của Ân Thi và Bình Giang thường diễn ra suốt cả mùa trăng. Thấy đây mở hội trống quân anh vào
Các tỉnh khác thi thoảng mới hát. (Đến nay Xuân Cầu- Khúc Lộng đã không duy trì được những cuộc vui như thế). Ở Kẻ Lép (nay là xã Đức Bác, huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc) hát với đào Xoan làng Phù Đức( huyện Phù Ninh) hằng năm vào ngày 6 tháng 9 âm lịch, hát từ trưa đến tối, thôi hát trống quân thì chuyển sang hát xoan thờ thần. Họ đứng đối diện nhau từng nhóm, nữ bưng trống trước ngực, nam cầm dùi gõ vào mặt trống, vừa hát vừa nhìn mặt nhau biểu lộ tình cảm qua từng lời hát. Hát trống quân các làng Xuân Cầu, Khúc Lộng, làng Tào và làng Đầu lại khác. Người hát không trực diện, được ngăn cách bởi một dòng sông, lại hát dưới trăng, nên không thấy mặt người, chỉ nghe tiếng hát, tạo ra sự bất ngờ trong ứng đối (chứ không hát bài có sẵn).
Cuộc hát trống quân thường có 3 phần:
- Thăm hỏi, dò xét quê quán, tên tuổi, gia thất.
- Xe kết, trao đổi tình tứ, ví von, ướm, thách và ước hẹn.
- Chia tay và hẹn đêm mai hát tiếp.
Các tỉnh khác, phần chia tay như chào xã giao, giã bạn và chấm dứt cuộc hát.
Ở Hưng Yên (và Hải Dương) hát gọi ra hát, ý thêu nên ý, tình dệt nên tình, lưu lại hồi, hồi lại lưu, thâu đêm suốt sáng, vẫn chưa phân được tài cao, thấp, đành tạm chia tay mà hát rằng:
Ở Hưng Yên (và Hải Dương) hát gọi ra hát, ý thêu nên ý, tình dệt nên tình, lưu lại hồi, hồi lại lưu, thâu đêm suốt sáng, vẫn chưa phân được tài cao, thấp, đành tạm chia tay mà hát rằng:
Hẹn đêm mai lại ngọt bùi cùng nhau.
Các tỉnh có hát trống quân nhằm tăng thêm phần vui cho một nhu cầu cụ thể. Ở Đức Bác: mỗi nhóm hát cứ một đào Xoan Phùng Đức hát với 3 đến 5 trai Đức Bác (phường Xoan có 10-12 đào, do đó cuộc hát có từ 10-12 nhóm). Trai Đức Bác mang thuyền sang đón phường Xoan qua sông Lô sang hát ở cửa đình làng mình. Số nhóm hát từ bến đò trên xuống, số khác từ bến dưới lên. Sau mỗi câu hát, đệm “ta hỡi trống quân”, trai quay lưng về đình lùi một bước, đào Xoan tiến một bước và chấm dứt hát trống quân khi họ đến đình làng.
Trống quân Hưng Yên không chỉ góp vui cho một nhu cầu cụ thể nào đó, ở một điểm nào đó mà cao hơn là hội hát thi tài ở hai bên bờ sông (chứ không cùng một bờ, càng không cùng một chỗ quy định),
Trống quân Hưng Yên không chỉ góp vui cho một nhu cầu cụ thể nào đó, ở một điểm nào đó mà cao hơn là hội hát thi tài ở hai bên bờ sông (chứ không cùng một bờ, càng không cùng một chỗ quy định),
cùng lúc diễn ra tại nhiều điểm hát (gọi hội điểm) dài mấy cây số bên bờ sông trăng Cửu An từ cống Tranh đến gần cầu Từ Ô của hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương. Thật là:
Sông trăng đáy nước in trời
Đôi bờ khúc hát tình đời gửi trao
Hát trống quân được gửi trao giữa hai bờ sông Cửu An nói trên, không di động điểm liên tục như Đức Bác, mà ổn định từng điểm, từng nhóm điểm và cả hội điểm, dùng con sông như mặt hộp truyền âm với hai lối hát:Đôi bờ khúc hát tình đời gửi trao
- Kết ở câu sáu chữ (hát không đệm bất cứ một từ nào).
- Kết ở câu tám chữ (đệm thời, í a đưa hơi) các lão nghệ nhân gọi là trống quân giọng bồi do bồi thêm từ vào câu hát.
Nhiều tỉnh hát trống quân ở một chỗ, trực diện hát đối hát đáp, khống chế thời gian hát, hát khi diễu hành (xã Đức Bác), hát khi diễn xướng (ít thấy trong hát giao duyên mà thấy trong ca hát lễ nghi, phong tục) như ở làng Giỏ (xã Hữu Bổ, Phong Châu, Phú Thọ): “Cái” xướng cho các “con” hoạ lại vế cuối, bên đáp cũng làm như vậy. Do vậy, không thấy hoặc không rõ người sáng tạo nội dung sau người hát có khi hát tập thể (Đức Bác và Hữu Bổ).
Hát trống quân hai làng Đầu, làng Tào và các làng hai bên bờ sông chia địa giới hai tỉnh Hưng Yên, Hải Dương (từ Cống Tranh đến gần cầu Từ Ô) còn tồn tại đến nay là hát cách sông, một con sông không rộng lắm, lại hát dưới trăng (không phải đèn măng xông, đèn dầu hay đèn điện), sao cho đối phương không nhìn thấy mặt người hát, không nghe thấy lời người xui hát (tác giả).
Mỗi bên cử một người hát, không ai biết hát đến bao giờ, hát cái gì,
Hát trống quân hai làng Đầu, làng Tào và các làng hai bên bờ sông chia địa giới hai tỉnh Hưng Yên, Hải Dương (từ Cống Tranh đến gần cầu Từ Ô) còn tồn tại đến nay là hát cách sông, một con sông không rộng lắm, lại hát dưới trăng (không phải đèn măng xông, đèn dầu hay đèn điện), sao cho đối phương không nhìn thấy mặt người hát, không nghe thấy lời người xui hát (tác giả).
Mỗi bên cử một người hát, không ai biết hát đến bao giờ, hát cái gì,
hát đến đâu biết đến đấy, nuôi mãi cuộc hát bất tận, không dễ dàng phân định thắng, thua. Cuộc hát tạm dừng để lấy sức rồi hát tiếp , hát nữa. Được dự cuộc hát hội trống quân như thế, không ai có thể quên. Người sáng tạo nội dung đứng sau người hát, trống quân Hưng Yên (và Hải Dương) gọi là người xui. Người xui - tác giả (một người hoặc nhóm người) có vai trò to lớn đến chất lượng và cả thời lượng của cuộc hát. Nếu hát bài đặt sẵn như các tỉnh, hoặc như hát trống quân trong lễ hội nay thì khác gì đọc sách, mà người đọc lại đã thuộc lòng. Vì nó không có yếu tố bất ngờ, vừa hát đáp vừa sáng tạo hát hỏi. Đáp trong hỏi và hỏi trong đáp tạo ra sự cuốn hút hấp dẫn nhau, đẩy cuộc hát đến điểm đỉnh của cao trào, trống quân như thế tự tước bỏ phần đặc sắc, bỏ đi phần hồn mà giữ lại phần xác.
Câu “không thầy đố mày làm nên” áp dụng vào các cuộc hát trống quân, dưới ánh trăng của Ân Thi – Bình Giang, qua một dòng sông quê được coi như một lối hát mẫu mực.
Câu “không thầy đố mày làm nên” áp dụng vào các cuộc hát trống quân, dưới ánh trăng của Ân Thi – Bình Giang, qua một dòng sông quê được coi như một lối hát mẫu mực.
Nhạc cụ đệm cho hát trống quân của các tỉnh đều là loại trống có tang (bằng gỗ hoặc kim loại), dễ di động. Trống Hữu Bổ (Phong Châu, Phú Thọ), lại có dây khoác lên vai, hình dạng như trống đế chèo. Hiện nay, thì ở đâu hát trống quân cũng đệm trống có tang.
Ngược dòng lịch sử thì khác hẳn. Nhân dân ta đã sáng tạo nhiều loại thể nghệ thuật và nhiều loại nhạc cụ tương ứng. Riêng nhạc cụ cho hát trống quân thì bất di bất dịch, có nghĩa là đàn ở đâu hát ở đó, hoặc hát ở đâu thì làm đàn ở đó. Chưa rõ vì sao tổ tiên lại sáng tạo ra nhạc cụ này, cũng không gọi là đàn mà gọi là trống, có lẽ là phải gõ lên dây chăng? Cái đặc biệt của nhạc cụ đệm cho hát trống quân là âm dương tương sinh, phải có hai người chơi một nhạc cụ, gọi nhạc cụ này cho tên loại hát: Trống quân.
Trống quân không có tang mà là loại đàn đất (thổ cổ), không có cần, có dây căng ghìm chắc hai đầu. Hộp âm đất được khoét hườm hàm ếch, sâu 50 phân, chứa khoảng 100 vỏ ốc nhồi. Miệng hố đậy vừa mâm gỗ hoặc đồng, lấy đất sét dẻo miết kín lại. Một cọc gỗ cao 40-50 phân chống giữa mâm, nâng dây thừng (mây, song hoặc kim loại) làm hai phần dây căng đều nhau. Mỗi hố trống (trống quân) có hai người chơi, mỗi người cầm một cái que dài ba mươi phân, bằng cật tre già vót nhẵn, tròn đều như cây sáo trúc,
Ngược dòng lịch sử thì khác hẳn. Nhân dân ta đã sáng tạo nhiều loại thể nghệ thuật và nhiều loại nhạc cụ tương ứng. Riêng nhạc cụ cho hát trống quân thì bất di bất dịch, có nghĩa là đàn ở đâu hát ở đó, hoặc hát ở đâu thì làm đàn ở đó. Chưa rõ vì sao tổ tiên lại sáng tạo ra nhạc cụ này, cũng không gọi là đàn mà gọi là trống, có lẽ là phải gõ lên dây chăng? Cái đặc biệt của nhạc cụ đệm cho hát trống quân là âm dương tương sinh, phải có hai người chơi một nhạc cụ, gọi nhạc cụ này cho tên loại hát: Trống quân.
Trống quân không có tang mà là loại đàn đất (thổ cổ), không có cần, có dây căng ghìm chắc hai đầu. Hộp âm đất được khoét hườm hàm ếch, sâu 50 phân, chứa khoảng 100 vỏ ốc nhồi. Miệng hố đậy vừa mâm gỗ hoặc đồng, lấy đất sét dẻo miết kín lại. Một cọc gỗ cao 40-50 phân chống giữa mâm, nâng dây thừng (mây, song hoặc kim loại) làm hai phần dây căng đều nhau. Mỗi hố trống (trống quân) có hai người chơi, mỗi người cầm một cái que dài ba mươi phân, bằng cật tre già vót nhẵn, tròn đều như cây sáo trúc,
gõ lên phần dây trước mặt chỗ ngồi của mình sau mỗi câu hát “Thùng thùng thình thùng thình; Thùng thùng thình thùng thình” (Thùng 1,6 ; thình 5,10 là phách mạnh).
Rằm tháng 8 “âm lịch”, Nhâm Thân (1992), tại hội điểm trống quân nổi tiếng trên sân đình Đầu (xã Bãi Sậy, Ân Thi), chúng tôi đã tổ chức trình diễn hát trống quân, có lập trống quân(đàn đất như miêu tả trên) đệm cho hát như xưa. Các cụ tuổi cao làng Đầu đã công nhận các hố đàn đất do chúng tôi thực hiện đúng như các cụ từng chứng kiến tại các cuộc hát trống quân tại đây trong quá khứ.
Trống quân là thứ trống đất, đàn đất, bất tiện cho việc thay đổi điểm hát, nên đã được thay thế bằng trống có tang. Dân tộc Cao Lan ở phía Bắc nước ta cũng có trống đất, dùng da trâu bịt miệng hố, sau bịt bằng một loại vỏ cây trẩu, cũng gõ que lên sợi dây căng trên một thùng cộng hưởng đào ngay dưới đất. Khác Hưng Yên, trống quân là nhạc khí, còn người Cao Lan dùng trống đất như binh khí. Trống quân và trống đất Cao Lan có ảnh hưởng qua lại thế nào, chưa rõ. Chúng tôi nêu ra, mong muốn chúng trở thành một đề tài nghiên cứu cho các nhà folklore.
Rằm tháng 8 “âm lịch”, Nhâm Thân (1992), tại hội điểm trống quân nổi tiếng trên sân đình Đầu (xã Bãi Sậy, Ân Thi), chúng tôi đã tổ chức trình diễn hát trống quân, có lập trống quân(đàn đất như miêu tả trên) đệm cho hát như xưa. Các cụ tuổi cao làng Đầu đã công nhận các hố đàn đất do chúng tôi thực hiện đúng như các cụ từng chứng kiến tại các cuộc hát trống quân tại đây trong quá khứ.
Trống quân là thứ trống đất, đàn đất, bất tiện cho việc thay đổi điểm hát, nên đã được thay thế bằng trống có tang. Dân tộc Cao Lan ở phía Bắc nước ta cũng có trống đất, dùng da trâu bịt miệng hố, sau bịt bằng một loại vỏ cây trẩu, cũng gõ que lên sợi dây căng trên một thùng cộng hưởng đào ngay dưới đất. Khác Hưng Yên, trống quân là nhạc khí, còn người Cao Lan dùng trống đất như binh khí. Trống quân và trống đất Cao Lan có ảnh hưởng qua lại thế nào, chưa rõ. Chúng tôi nêu ra, mong muốn chúng trở thành một đề tài nghiên cứu cho các nhà folklore.
Tóm lại, trống quân Hưng Yên (và Hải Dương) được hát dưới trăng (thường vào mùa thu, tháng 8), đối đáp qua một dòng sông, ổn định một điểm hay nhiều điểm (gọi là hội điểm), phát triển thành hội hát thi tài được người xui trợ thủ, có chia tay và hẹn hát tiếp… Và, hát được đệm bằng một nhạc cụ là trống không có tang -thổ cổ- trống quân.
Đó là sự khác biệt của Hưng Yên (và Hải Dương) với các tỉnh phía Bắc trong loại thể hát trống quân.
❧ ❀ ❧
HÁT TRỐNG QUÂN DẠ TRẠCH - HƯNG YÊN
TOP
TOP
Subscribe to:
Posts (Atom)