Lê Giản (Tô Gĩ) (1911-2003)

Wednesday, May 18, 2011

  


Lê Giản (Tô Gĩ hay Dĩ) (1911-2003) là một lão thành cách mạng cộng sản Việt Nam.

Lê Giản (Tô Gĩ hay Dĩ) sinh năm 1911, trong một gia đình nhà nho nghèo ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.



Tiểu sử


Lê Giản (Tô Gĩ hay Dĩ) sinh năm 1911. Bố làm thày đồ dạy chữ nho, chữ quốc ngữ cho các gia đình khá giả chung nhau góp thóc, gạo nuôi thày dạy ở nhà cho con cháu. Hồi nhỏ, đến năm ngoài 10 tuổi, cùng Tô Hiệu theo học các lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng ở trường làng. Sau do mẹ mất sớm, phải ra Hà Nội nhờ một người bà con buôn bán tơ lụa nuôi cho ăn học và giúp đỡ công việc vặt trong nhà.
Những năm 1926-1929, ông tham gia phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, được Học sinh đoàn, một tổ chức của Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội, sau trở thành Đông dương Cộng sản Đảng kết nạp vào hội.
Năm 1930 vào Nam hoạt động (cùng Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu).
Năm 1931 từ Nam kỳ trở lại miền Bắc, sau đó cùng gia đình chuyển xuống sinh sống ở Hải Phòng và tham gia hoạt động cách mạng ở đây.
Năm 1940 bị đế quốc Pháp bắt đầy lên Sơn La, cho đến tháng 6/1941 thì bị đầy đi Madagascar.
Tại đây, trong thế chiến II, ông (cùng 6 đồng chí khác) được quân đội Anh (lúc đó là phe Đồng minh chống phát xít) trả lại tự do, giao cho quân đội Mỹ.

Một số tù chính trị Việt Nam trong đó có ông và ông Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam) được OSS (Cục tình báo chiến lược, tiền thân của CIA) chọn đưa về Cancutta - Ấn Độ huấn luyện với tư cách là quân Đồng minh chống phát xít Nhật.
Tháng 8 năm 1944 ông được thả dù về Việt Nam. Ông mang điện đài, tài liệu, tiền và vũ khí về cho Ðảng, được chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho việc thành lập ngành công an.
Ông làm Tổng giám đốc Nha công an Việt Nam từ năm 1946 cho đến năm 1953. Sau, ban lãnh đạo Ðảng nghe theo kinh nghiệm Trung Quốc không để cho người từng có thời gian sống với địch nắm những công tác quan trọng, gạt ông khỏi chức vụ.
Từ đó, ông làm Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao cho đến khi về hưu (1978).
Từ những năm 1980, ông đã viết nhiều bài báo và tham luận góp ý kiến với lãnh đạo về các vấn đề chính trị, về dân chủ. Ông có uy tín rất lớn trong những người cộng sản thế hệ già.

Ông mất ngày 20 tháng 10 năm 2003, tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Các bài viết sưu tầm trên mạng



  1. Lê Giản hồi ký - Xem tại đây - Blog Làng Xuân Cầu
  2. Kỷ niệm 10 năm ngày mất của lão thành cách mạng Tô Gĩ (1913-2003) - Tô Quyết Tiến, Trang tin Họ Tô Việt Nam.
  3. Cố Phó Chánh án TANDTC Lê Giản: Cả cuộc đời tận tâm với sự nghiệp cách mạng - Trần Minh Giang, 03/02/2012, Blog Làng Xuân Cầu
  4. 7 chiến sĩ Cách mạng được máy bay Anh đưa về Việt Nam năm 1942 - Thanh Lê, 2/9/2005, Báo Công an Nhân dân Điện tử.
  5. Lũng Cò - Sân bay quốc tế đầu tiên của Việt Nam - Nguyễn Huy Du (Khu di tích Tân Trào), 5/11/2009, Báo điện tử Tuyên Quang.
  6. Chính phủ 1945 của Cụ Hồ bắt đầu từ đâu? - Lê Đỗ Huy/Bee.net, 02/09/2011, Blog BanTroi.
  7. Điệp viên nhảy dù thành Giám đốc công an Trung Bộ - Hồi ký của Cụ Nguyễn Văn Ngọc. Nhà xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội 1988, ISSUU.
  8. Intelligence in a time of decolonization: The case of the Democratic Republic of Vietnam at war (1945–50) - Christopher E. Goscha, Intelligence and National Security, Vol 22, No 1 (February 2007), ISSUU.

  1. Lê Giản - Người chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến gắn bó với mảnh đất An toàn khu Định Hóa Thái Nguyên - Lý Thị Chiên, 09/02/2012, Ban quản lý Khu di tích lịch sử - sinh thái ATK Định Hoá Thái Nguyên
  2. Chuyện Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp người anh ruột ở Hà Nội - Hồng Thái H.T., 18/05/2009, Báo Công an Nhân dân Điện tử.
  3. Nguyễn Văn Linh là như thế - Xuân Cang, 30/06/2010, Báo Người Lao Động Điện tử
  4. Thư của ông LÊ GIẢN gửi Bộ Chính trị Trung ương CSVN (8/12/1994) - Diễn đàn Forum, 11/05/2011.
  5. Gia đình bà Lê Giản viếng Đại tướng - Báo VietNamNet, 12/10/2013.
  6. Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
  7. Chuyện đời của một vị tướng anh hùng: Điều chưa kể - Nguyễn Thiêm, 07/09/2014, Báo Công an nhân dân điện tử.
  8. Đèn Cù (Tập 2, Chương 54) - Trần Đĩnh, Thư viện Vinadia.
  9. Cả cuộc đời tận tâm với sự nghiệp cách mạng - Trần Minh Giang, 13/04/2012, Báo điện tử Công lý.
  10. Lê Giản - Người chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến gắn bó với mảnh đất An toàn khu Định Hóa Thái Nguyên - Lý Thị Chiên - Phó Trưởng ban, 09/10/2012, Ban quản lý Khu di tích lịch sử - sinh thái ATK Định Hoá Thái Nguyên.





Lê Giản (Việt Nam)


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Lê Giản (1911[1]-2003) là một nhà cách mạng và chính khách Việt Nam. Ông là người đứng đầu ngành công an Việt Nam từ năm 1946 cho đến năm 1952, tương đương với Bộ trưởng Bộ Công an ngày nay. Ngoài ra, ông còn từng giữ các chức vụ Vụ trưởng Vụ Trị an hành chính, Bộ Công an (1955-1958), Thẩm phán rồi Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (1958-1979). Ông được Nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh năm 2011 vì những đóng góp của mình đối với đất nước.


Thân thế

Ông tên thật là Tô Gĩ (đôi khi được viết thành Tô Dĩ), sinh ngày 2 tháng 8 năm 1911, tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Theo tài liệu của dòng họ Tô, ông và các nhà cách mạng tương lai Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu là anh em họ, cùng là hậu duệ 4 đời của Đốc học Nam Định Tô Ngọc Nữu.

Thân phụ ông, Tô Chuẩn, làm nghề thầy đồ, dạy chữ Nho và chữ Quốc ngữ cho con em các gia đình khá giả trong làng. Mẹ ông làm buôn bán nhỏ, nuôi sống gia đình. Từ nhỏ, ông được thân phụ dạy chữ Nho, chữ Quốc ngữ; đến năm ngoài 10 tuổi, ông cùng người anh em họ Tô Hiệu theo học các lớp đồng ấu, dự bị, sơ đẳng ở trường làng.

Năm 11 tuổi, mẹ mất, ông được gia đình gửi ra Hà Nội ở nhờ một người bà con buôn bán tơ lụa nuôi cho ăn học và giúp đỡ công việc vặt trong nhà. Ông lần lượt học tại các trường Hàng Vôi, Sinh Từ ở Hà Nội cho đến năm 1929, khi đã 18 tuổi, ông thôi học và đi làm thư ký giúp việc cho một nhà buôn Pháp ở Hàng Gai (Hà Nội).


Bước đầu tham gia hoạt động cách mạng

Khi đi học ở Hà Nội, ông sớm chịu ảnh hưởng của các thành viên Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội đang hoạt động bí mật tại Bắc Kỳ. Ông tham gia vào tổ chức Học sinh đoàn và Xích vệ đoàn, những tổ chức ngoại vi của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, nhiều lần tham gia rải truyền đơn tại Hà Nội. Tháng 12 năm 1929, ông được kết nạp vào Đông Dương Cộng sản Đảng.[2]

Tháng 6 năm 1930, sau khi Đông Dương Cộng sản Đảng hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam, ông được Tô Chấn bố trí vào Sài Gòn cùng với Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu. Bấy giờ chính quyền thực dân tại Nam Kỳ thẳng tay đàn áp các phong trào cách mạng, ông bị mất liên lạc với tổ chức nên tham gia hoạt động cho Việt Nam Quốc dân Đảng một thời gian trước khi tổ chức này bị chia rẽ và tan rã.

Năm 1931, ông xin vào làm cho một chủ tàu biển chạy tuyến Sài Gòn - Hải Phòng - Hongkong - Singapore với ý định trốn đi Pháp, đi Liên Xô hoạt động. Tuy nhiên khi vào đến Hải Phòng thì ông bị chỉ điểm nên bị thực dân Pháp bắt giam. Tuy nhiên sau thời gian dài thẩm tra, do không có chứng cứ buộc tội nên ông được thả tự do.

Sau khi được tha, ông ở lại Hải Phòng, sau đó bắt liên lạc được với tổ chức và hoạt động trong phong trào Mặt trận dân chủ, Hội Ánh sáng, Truyền bá quốc ngữ, Ái hữu tư thục… cho đến năm 1937. Thời gian này, ông nhiều lần làm việc với một lãnh đạo cũ của Việt Nam Quốc dân Đảng, nay hoạt động cho Đảng Cộng sản Đông Dương, Trần Huy Liệu, khởi đầu mối quan hệ thân tình giữa 2 người nhiều năm sau này.

Từ năm 1938 đến 1939, ông được giao nhiệm vụ phụ trách cơ quan giao thông liên lạc, ấn loát ở Hải Phòng, rồi công tác tại Thành ủy Hải Phòng. Trong thời gian này, ông nhiều lần bị mật thám Pháp bắt bớ, tra khảo, nhưng vì không có bằng chứng nên không buộc tội được.


Bị lưu đày và trở về Tổ quốc

Tuy nhiên, đến đầu năm 1940, do cơ sở bị lộ, ông được lệnh phải di chuyển khỏi Hải Phòng trong vòng 24 giờ. Nhưng do mất liên lạc, ông chưa kịp đào thoát thì bị chính quyền thực dân bắt giam. Ông bị kết án và bị đi lưu đày ở các nhà tù Bắc Mê Hà Giang (tháng 6 năm 1940), Sơn La (tháng 11 năm 1940)[3] và sau đó bị đưa sang lưu đày ở Madagascar vào tháng 5 năm 1941.[2] Cùng bị lưu đày tại Madagascar với ông có các ông Hoàng Đình Rong, Phan Bôi, Vũ Văn Địch, Nguyễn Thế Truyền. Theo hồi ký của Lê Giản, tổng cộng trước sau có 27 người Việt Nam bị lưu đày tại đây, gồm cả Hộ pháp Cao Đài Phạm Công Tắc.[4]

Tháng 11 năm 1942, quân đội Anh chiếm lại được Madagascar từ tay chính quyền Vichy và trả tự do cho nhóm lưu đày. Ông cùng các đồng chí của mình tuyên bố nguyện vọng được tham gia chống phát xít cùng với quân Đồng Minh. Cơ quan tình báo Anh SOE tuyển mộ ông cùng 6 đồng chí nữa vào Lực lượng 136 (Force 136) và đưa sang Calcutta (Ấn Độ) huấn luyện về truyền tin, chuẩn bị tung về hoạt động ở Đông Dương, bấy giờ đang do quân Nhật kiểm soát. Ngoài Lê Giản, 6 người còn lại là Hoàng Đình Rong, Đoàn Ngọc Rê, Phan Bôi, Vũ Văn Địch, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn phòng.[5]

Sau một thời gian huấn luyện, nhóm 7 người lần lượt được quân Đồng Minh thả dù vào Đông Dương thành nhiều đợt. Ông và Hoàng Đình Giong là toán đầu tiên được đưa nhảy dù vào Cao Bằng ngày 25 tháng 10 năm 1944. Toán thứ 2 gồm Phan Bôi và Đoàn Ngọc Rê, cũng đáp xuống Cao Bằng cuối tháng 11 năm 1944. Toán cuối cùng gồm Nguyễn Văn phòng, Nguyễn Văn Ngọc, Vũ Văn Địch được thả vào gần Hà Nội vào tháng 5 năm 1945.[6] Các nhóm có nhiệm vụ bắt liên lạc với các tổ chức chống phát xít, sau đó truyền thông tin về cho bộ chỉ huy quân Đồng Minh ở Côn Minh (Trung Quốc). Cả ba nhóm sau đó đều bắt liên lạc và hoạt động cho tổ chức Việt Minh cho đến ngày Nhật Bản đầu hàng.[5][7]


Hoạt động trong ngành Công an

Sau khi đáp xuống Cao Bằng, ông cùng Hoàng Đình Rong lập tức bắt liên lạc với tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương và và được giao nhiệm vụ tổ chức xây dựng căn cứ địa ở Việt Bắc cho đến tháng 9 năm 1945. Ông cũng chính là người được lãnh tụ Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ xây dựng sân bay Lũng Cò vào tháng 7 năm 1945 để nhận tiếp tế từ các máy bay Mỹ thuộc OSS cho Việt Minh, cũng như phục vụ hoạt động di tản các phi công Mỹ bị quân Nhật bắn rơi.[8][9]

Sau khi Cách mạng tháng 8 thành công, tháng 10 năm 1945, ông được Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa điều động về Hà Nội và cử giữ chức vụ Phó giám đốc Sở Liêm phóng Bắc bộ. Ngày 21 tháng 2 năm 1946, các Sở Cảnh sát và Sở Liêm phóng trên toàn quốc hợp thành Việt Nam Công an vụ, đặt dưới quyền quản lý của Bộ Nội vụ.[10] Ông Nguyễn Dương được bổ nhiệm vào chức vụ Giám đốc Việt Nam Công an Vụ.[11]

Ngày 18 tháng 4 năm 1946, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định 121-NV/NĐ, quy định tổ chức ngành Công an vụ thành 3 cấp. Theo đó, cấp trung ương gọi là Nha Công an Việt Nam, đặt dưới quyền điều khiển trực tiếp của Tổng giám đốc Việt Nam công an vụ, đồng thời cũng quy định "giúp việc cho Tổng giám đốc Việt Nam công an vụ là một Phó giám đốc". Ngày 2 tháng 5 năm 1946, Bộ trưởng Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng ký Nghị định số 129 NV/NĐ, cử ông vào chức vụ Phó Giám đốc Việt Nam Công an Vụ, phụ tá cho Giám đốc Công an Vụ Nguyễn Dương.[12] Chỉ 37 ngày sau, ngày 8 tháng 6 năm 1946, Chủ tịch Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 100, chấp thuận cho ông Nguyễn Dương từ chức Giám đốc Việt Nam Công an Vụ và cử ông thay chức vụ này.[13]

Trên cương vị đứng đầu ngành công an, ông đã hoạt động tích cực để bảo vệ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, đặc biệt với Vụ án Ôn Như Hầu nhiều tranh cãi. Khi Toàn quốc kháng chiến nổ ra, ông được giao nhiệm vụ tổ chức ATK Định Hóa, bảo vệ các cơ quan trung ương đang đóng tại đây. Ông cũng đồng thời đảm nhiệm chức vụ Khu ủy viên An toàn khu. Ngày 5 tháng 4 năm 1948, Bộ trưởng Nội vụ Phan Kế Toại ký Nghị định số 291/NĐ tổ chức lại bộ máy ngành Công an. Theo đó Nha Công an Việt Nam đổi tên thành Nha Công an Trung ương. Tên gọi Việt Nam Công an vụ và tổ chức Sở Công an Kỳ không còn sử dụng. Chức vụ của ông thay đổi từ Giám đốc Việt Nam Công an Vụ thành Giám đốc Nha Công an Trung ương.

Tháng 9 năm 1952, ông Trần Quốc Hoàn được bổ nhiệm thay ông làm Giám đốc Nha Công an.[14] Ông được điều động tham gia công tác cải cách ruộng đất. Đến đầu năm 1955, ông được điều động trở lại ngành Công an, giữ chức Vụ trưởng Vụ Trị an hành chính, Bộ Công an, kiêm Cục trưởng Cục Biên phòng (nay là Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng Việt Nam).[15]


Hoạt động trong ngành Tòa án

Tháng 5 năm 1958, ông được phân công làm Thẩm phán, Ủy viên Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Tháng 9 năm 1960, ông được bổ nhiệm là Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Ông công tác trên cương vị này đến tháng 6 năm 1979 mới nghỉ hưu.


Những năm cuối đời[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi nghỉ hưu năm 1979, ông sống cùng gia đình tại thành phố Hà Nội. Trong những năm cuối đời, ông viết nhiều bài báo và tham luận góp ý kiến với lãnh đạo nhà nước về các vấn đề chính trị, về dân chủ. Ông còn được suy cử làm Trưởng ban danh dự của Ban liên lạc họ Tô Việt Nam đầu tiên.

Ông mất ngày 20 tháng 10 năm 2003, tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.


Vinh danh


Đời tư

Con gái lớn của ông là Tô Hồng Thu, gả cho ông Phan Văn Xoàn, về sau là Thiếu tướng, Tư lệnh Cảnh vệ.[16]


Chú thích

  1. ^ Một số tài liệu ghi ông sinh năm 1911.
  2. ^ a ă Lê Giản – Người chiến sĩ cách mạng trong kháng chiến gắn bó với mảnh đất An toàn khu Định Hóa Thái Nguyên
  3. ^ Các nhà cách mạng Tô Hiệu, Trần Huy Liệu cũng đang thụ án lưu đày Sơn La lúc bấy giờ.
  4. ^ Lê Giản, Những ngày sóng gió. "Cảnh đói khát tin tức của chúng tôi trên hòn đảo Madagasca".
  5. ^ a ă 7 chiến sĩ Cách mạng được máy bay Anh đưa về Việt Nam năm 1942
  6. ^ Những bí mật sau quân hàm Đại tá
  7. ^ Cả bảy người về sau đều giữ các chức vụ cao trong chính quyền Việt Nam. Trừ Hoàng Đình Giong (sau lấy tên là Vũ Đức) tử trận khi là Khu trưởng Khu 6 và Phan Bôi (sau lấy tên là Hoàng Hữu Nam) tử nạn khi là Chánh Văn phòng Phủ Chủ tịch vào năm 1947; những người còn lại đều sống qua chiến tranh. Tô Gĩ (sau lấy tên Lê Giản) sau là Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Vũ Văn Địch (sau lấy tên Trần Hiệu) sau là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Nguyễn Văn Ngọc sau là Phó Chủ nhiệm Văn phòng Nội chính Phủ Thủ tướng, kiêm Trưởng ban Biên giới và Trưởng ban Việt kiều Trung ương của Chính phủ, Đoàn Ngọc Rê (sau lấy tên là Dương Công Hoạt) sau là Phó chủ nhiệm Ủy ban dân tộc, và Nguyễn Văn phòng (sau lấy tên là Nguyễn Văn Minh) sau là Chánh án Tòa Dân sự, Tòa án Nhân dân Tối cao.
  8. ^ Về thăm Lũng Cò - sân bay quốc tế đầu tiên của Cách mạng Việt Nam
  9. ^ Sân bay đầu tiên của người Việt
  10. ^ Sắc lệnh số 23/SL ngày 21 tháng 2 năm 1946
  11. ^ Sắc lệnh số 30/SL ngày 22 tháng 2 năm 1946
  12. ^ Nghị định số 129 NV/CC ngày 2 tháng 5 năm 1946.
  13. ^ Sắc lệnh số 100 ngày 8 tháng 6 năm 1946.
  14. ^ Sắc lệnh số 113-SL ngày 6 tháng 9 năm 1952.
  15. ^ ĐỒNG CHÍ LÊ GIẢN (1913 - 2003)
  16. ^ Chuyện đời của một vị tướng anh hùng: Điều chưa kể

Tham khảo



https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Gi%E1%BA%A3n_(Vi%E1%BB%87t_Nam)


ÔNG TÔ GĨ (Lê Giản)

Ông Tô Gĩ sinh ngày 1 tháng Bẩy năm Quí Sửu (2-8-1913) tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh).

Xuân Cầu là một làng có truyền thống hiếu học, có nhiều gia đình khoa bảng. Cụ Tô Trân là Kỵ nội (Cụ Tổ 5 đời) của Tô Gĩ, đỗ Tiến sĩ năm 1826, con trai thứ hai của Tiến sĩ Tô Trân là Tô Đăng đỗ Cử nhân năm 1867. Đầu thế kỷ 20, quê hương Xuân Cầu lại xuất hiện hai nhà văn hóa lớn: Nguyễn Công Hoan, nhà giáo-nhà văn lão thành và Tô Ngọc Vân, họa sĩ bậc thầy trong làng hội họa Việt Nam.

Xuân Cầu còn là một làng giầu truyền thống cách mạng. Cuối thế kỷ 19, người dân Xuân Cầu đã tham gia nghĩa quân Bãi Sậy, từ 1885 đến 1889, dưới sự lãnh đạo của hai danh tướng Tán Thuật và Tán Huy (Ngô Quang Huy, người xã Trưng Trắc, huyện Văn Giang, Đốc học tỉnh Bắc Ninh, là ông ngoại của hai liệt sĩ cách mạng tiền bối Tô Chấn, Tô Hiệu). Cuộc Khởi nghĩa tuy thất bại, nhưng ý chí đấu tranh vì độc lập dân tộc được tôi luyện trong nhân dân Xuân Cầu từ đấy. Đầu thế kỷ 20, khi thực dân Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta, thì làn sóng yêu nước ở nhiều nơi, trong đó có Xuân Cầu lại dâng lên mạnh mẽ. Nhiều người con ưu tú của Xuân Cầu như Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Điển (Tô Quang Đẩu), Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Tô Gĩ…đã gia nhập đội quân tiên phong của giai cấp công nhân và trở thành những chiến sĩ cách mạng tiền bối.

Tô Gĩ trải qua tuổi thơ vất vả vì mẹ bị bạo bệnh mất sớm, khi em gái ông mới được 8 tháng tuổi. Cha ông, gà sống nuôi con, cuộc sống túng bấn, khó khăn. Từ 1922 đến 1925, Tô Gĩ được cha gửi ra nhà ông Tô Phong (là em trai của ông nội) ở 92 Hàng Gai, vừa đi học vừa giúp việc vặt trong nhà. Từ 1926 đến 1930, ông chuyển đến nhà chú ruột là Tô Chử ở phố Hàng Vôi. Năm 1929, thi vào trường Sư phạm không đỗ, Tô Gĩ thôi học, xin làm thư ký cho một hãng buôn.

Thời gian học ở Hà Nội, sớm được giác ngộ cách mạng, Tô Gĩ tham gia Học sinh đoàn và Thanh niên xích vệ đội. Ông từng tham gia bãi khóa, đòi trả tự do cho Cụ Phan Bội Châu; vận động làm lễ truy điệu để tang Cụ Phan Chu Trinh. Ông còn giác ngộ quần chúng treo cờ, căng biểu ngữ vào những ngày lễ như ngày 1 tháng 5, ngày kỷ niệm Cách mang tháng Mười Nga; được phân công bảo vệ những cuộc mít tinh, biểu tình, bảo vệ các “đồng chí cao cấp”. Tháng 6 năm 1930, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Cũng năm 1930, sau cuộc khởi nghĩa không thành của Việt Nam Quốc dân đảng, thực dân Pháp tiến hành “khủng bố trắng”. Nhiều đảng viên cộng sản bị bắt bớ, bị tra tấn dã man. Tô Gĩ cũng bị mật thám theo dõi.

Tháng 7 năm 1930, ông xin phép tổ chức cho vào Sài Gòn hoạt động. Ở đây, ông đã liên hệ với mấy người anh họ là Tô Chấn, Tô Hiệu, Tô Điển. Nhóm 4 anh em Họ Tô đã từng lập kế hoạch mưu sát hai tên Toàn quyền Pasquier (Đông Dương) và Degreb (Nam Dương nay là Indonésia), khi chúng có kế hoạch gặp nhau tại Hà Nội hoặc Sài Gòn để bàn cách cấu kết đàn áp cách mạng của Đông Dương và Nam Dương. Kế hoạch trên đã phải hủy bỏ, khi nhận được lời khuyên của đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ, Đảng Cộng sản Đông Dương. Đánh hơi được vụ việc này, thực dân Pháp đã lần lượt bắt Tô Chấn, Tô Hiệu. Làm việc ở Tòa báo Trung Lập được một thời gian, năm 1931, Tô Gĩ xin đi làm phụ bếp dưới tầu biển Jean Dupuis, chuyên chở hàng ven biển đi Singapore và Hồng Kông. Ông hy vọng sẽ kiếm được việc làm trên các tầu viễn dương, đi các nước xa hơn để tìm đường cứu nước. Ý nguyện chưa thành thì tháng 5 năm 1931, ông bị buộc thôi việc vì chủ tầu nghi ông tham gia “hội kín”. Khi về quê Xuân Cầu, ông bị bắt lên tỉnh Bắc Ninh, rồi bị giam ở Sở mật thám Hà Nội (tháng 7-1931). Không khai thác được gì, chúng phải thả ông và quản thúc ở quê. Năm 1932, Tô Gĩ lập gia đình. Ông cùng vợ là bà Nguyễn Thị Chế (người thôn Tam Kỳ, cùng xã Nghĩa Trụ) sinh sống ở Hải Phòng, nơi có nhiều bà con Xuân Cầu làm ăn, buôn bán. Bà buôn bán nhỏ, ông vừa dạy học, vừa làm báo và hoạt động cách mạng. Nhà ông là chỗ qua lại của nhiều cán bộ cách mạng như Tô Hiệu, Lê Thanh Nghị, Nguyễn Văn Linh, Bùi Đình Bổng… Năm 1939, sau khi Chính phủ Mặt trận Bình dân ở Pháp bị đổ, bọn mật thám Pháp lại theo dõi sát sao hoạt động của những người cộng sản. Thỉnh thoảng, chúng lại bắt giam ông vài ba ngày, vào dịp kỷ niệm ngày 1-5 hoặc 7-11. Tháng 4-1940, ông bị bắt giam ở “căng” Bắc Mê, tỉnh Hà Giang. Đầu tháng 11-1940, ông bị chuyển lên nhà tù Sơn La. Ở đây, ông được học tập, rèn luyện thêm về lý luận, lý tưởng cách mạng. Ông được gặp lại Tô Hiệu, khi đó là Bí thư chi bộ nhà tù và nhiều đồng chí cộng sản như Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Khang, Xuân Thủy, Hoàng Tùng…

Tháng 6 năm1941, ông bị đày đi đảo Madagascar, Châu Phi. Cùng ở đây với ông, có các đồng chí Phan Bôi (Hoàng Hữu Nam), Nguyễn Văn Ngọc, Vũ Văn Địch (Trần Hiệu), Hoàng Đình Rong, Dương Công Hoạt, Nguyễn Phòng. Hai năm ở đảo, ông cùng các đồng chí luôn giữ vững nền nếp sinh hoạt, học tập chính trị; tăng gia sản xuất, cải thiện điều kiện sinh hoạt nhà tù; làm công tác dân vận với người bản xứ và không để xẩy ra xung đột với những tù nhân người Việt có xu hướng chính trị khác biệt (Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Song, Phạm Công Tắc (Hộ pháp đạo Cao Đài) và 5 chức sắc Cao Đài khác đều là những phần tử thân Nhật).

Tháng 6 năm 1943, quân Đồng Minh chiếm đảo Madagascar, trả tự do cho những người tù chính trị ở đây. Tô Gĩ là một trong ba đảng viên cộng sản được đưa về Ấn Độ sớm nhất và được quân Đồng Minh mời làm việc cho họ ở các Đài phát thanh như New Delhi (Ấn Độ), Sydney (Australia). Ông và các đồng chí của ông một mực xin được trở về nước chống phát xít Nhật, đồng thời nhận bất cứ việc gì có ích cho các nước Đồng Minh. Cuối cùng họ đã chấp nhận yêu cầu nói trên và huấn luyện cho các ông về nghiệp vụ tình báo: sử dụng vũ khí, điện đài và nhẩy dù.

Tháng 8 năm 1944, Tô Gĩ và Hoàng Đình Rong được bay từ Calcutta (Ấn Độ) về Việt Nam và nhẩy dù xuống Cao Bằng. Các ông đã liên lạc được với tổ chức Đảng và Mặt trận Việt Minh. Thời gian ở chiến khu, ông mang bí danh Lê Giản. Sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công, Hồ Chủ tịch giao cho các đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Hữu Nam, Hoàng Văn Thái và ông ở lại Việt Bắc, giúp đỡ địa phương xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, tổ chức sản xuất, ổn định cuộc sống của đồng bào các dân tộc.

Cuối tháng 9 năm 1945, Hồ Chủ tịch điều ông về Hà Nội, bổ sung cán bộ cho ngành Công an. Lúc đầu, ông giữ chức Phó Giám đốc Sở Liêm phóng Bắc Bộ. Cuối tháng 2 năm 1946, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Nha Công an Việt Nam (Bộ Công an ngày nay). Nhiệm vụ của ngành Công an lúc đó rất nặng nề. Chính quyền non trẻ của ta phải đương đầu với bao âm mưu xảo quyệt của thù trong, giặc ngoài. Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946), ngành Công an phải lo vừa bảo vệ vùng tự do, đặc biệt là An toàn khu (ATK), nơi có cơ quan đầu não của Đảng và Chính phủ; vừa tổ chức hoạt động trong vùng địch chiếm.

Tháng 12 năm 1952, ông tham gia Cải cách ruộng đất, làm Bí thư Đoàn ủy Cải cách ruộng đất.

Giữa năm 1955, ông trở về công tác ở ngành Công an và giữ chức Vụ trưởng Vụ Trị an Hành chính, kiêm Cục trưởng Cục Biên phòng.

Cuối năm 1958, ông chuyển công tác về ngành Tòa án, làm Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cho đến cuối năm 1978, trong đó có 3 năm được biệt phái vào Miền Nam để củng cố chính quyền nhân dân, xây dựng bộ máy ngành Tòa án, sau ngày Miền Nam được hoàn toàn giải phóng.

Hơn 30 năm công tác trong hai ngành chuyên chính của Đảng và Nhà nước, ông luôn luôn vừa làm vừa học với tất cả lương tâm và trách nhiệm của người cộng sản. Mạnh dạn nhưng thận trọng, kiên quyết với kẻ thù, nhưng hết lòng thương yêu đồng bào, đồng chí; ông luôn luôn sáng suốt, tỉnh táo khi phải sử lý các tình huống phức tạp. Không để lọt một kẻ tội phạm, nhưng cũng không bắt oan, xử oan một người vô tội. Chí công Vô tư, suốt đời giữ được tính liêm khiết, giản dị.

Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhất và Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng; được phong tặng danh hiệu Lão thành cách mạng.

Sau một thời gian cùng các ông Tô Thuận, Tô Hoàn chuẩn bị, ngày 3-8-1998 (12 tháng Sáu năm Mậu Dần), ông đã có bài phát biểu quan trọng trong Lễ dâng hương tại đền Văn Hiến (xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây) tưởng niệm 819 năm ngay hóa của Đức Tô Hiến Thành, danh nhân kiệt xuất của Đất nước và của dòng Họ Tô Việt Nam. Sau đó, tại đình Vạn Xuân, xã Hạ Mỗ, ông đã chủ tri buổi tọa đàm đầu tiên về dòng họ của 150 đại biểu của 21 chi Họ Tô ở 12 tỉnh, thành phố Miền Bắc và Bắc Miền Trung. Hội nghị đã quyết định thành lập Ban liên lạc Họ Tô Việt Nam và nhất trí cử ông làm Trưởng ban lâm thời.

Ngày 21-2-1999, tại nhà ông ở số 8, phố Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội, ông đã chủ trì phiên họp đầu tiên của Ban liên lạc Họ Tô Việt Nam. Hội nghị đã suy tôn ông là Trưởng Ban danh dự và bầu ông Tô Tử Hạ, Họ Tô huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, Phó Trưởng ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ làm Trưởng Ban liên lạc. Tuy tuổi cao, sức yếu nhưng ông Tô Gĩ đã có đóng góp quan trọng để thành lập Ban liên lạc Họ Tô Việt Nam và định hướng chính xác cho hoạt động của Ban liên lạc những ngày đầu với tiêu chí “Chắp nối dòng họ - Tìm về cội nguồn”.Và hoạt động dòng họ đã theo tiêu chí đó trong suốt 20 năm (1998 – 2018), thu được kết quả rất tốt đẹp.

Ông mất ngày 21-2-2003, hưởng thọ 91 tuổi. Đông đảo bà con Họ Tô cả nước đã về Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội để tiễn biệt ông về nơi an nghỉ cuối cùng với đôi câu đối:

Bẩy mươi năm tuổi Đảng, khi nước ngoài, lúc trong nước, vì Cách mạng một lòng son sắt
Chín mươi mốt tuổi đời, khi còn trẻ, lúc tuổi già, với Dòng họ trọn nghĩa vẹn tình

(Bài viết có sử dụng một số tư liệu của Cố Giáo sư Tô Linh, con trai trưởng của ông Tô Gĩ)

Tô Bỉnh



TOP



TOP

0 nhận xét:

Post a Comment