https://issuu.com/nvthuvien/docs/a_-_tieu_su_to_ngoc_van
http://baochi.nlv.gov.vn/baochi/cgi-bin/baochi?a=d&d=Hxsu19400212&e=-------vi-20--1--img-txIN------
https://issuu.com/nvthuvien/docs/nn-199
https://www.nguoi-viet.com/ThuVienNguoiViet/NgayNay.php?thuvien=181-210
Showing posts with label Danh nhân văn hóa. Show all posts
Showing posts with label Danh nhân văn hóa. Show all posts
Tướng quân Bãi Sậy - Ngô Quang Huy
284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam
Ngô Quang Huy
_ Vũ Thanh Sơn _
Ngô Quang Huy biệt hiệu là Quang Hiên, sinh năm 1835 ở xã An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn An Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Ngô Quang Huy là người thông minh, nổi tiếng hay chữ một vùng, đương thời có câu: “Thần Siêu, Thánh Quát, trẻ Quang Huy”. Năm 17 tuổi ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) tại trường thi Hà Nội, được bổ làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1883 Triều đình Huế kí Hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh. Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về huyện Đông Triều chiêu mộ quân đánh Pháp. Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, đỗ cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội đang làm Huấn đạo huyện Mỹ Đức đều bỏ quan chiêu mộ được hơn 100 quân đến Đông Triều gia nhập đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật.
Ngô Quang Huy là nhà nho từng làm đốc học, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ông đã thành lập một đội tuyên truyền gồm các nho sinh hô hào đồng bào gia nhập nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Nghĩa quân do các ông chỉ huy hoạt động mạnh ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Thanh Hà, Cẩm Giàng, Mỹ Hào và vùng chung quanh lỉnh lị Hải Dương.
Chiều 12/11/1883 nghĩa quân do Nguyễn Thiện Thuật, Hai Kế, Đề Vinh chỉ huy xuất phát từ Đông Triều về hạ thành Hải Dương. Đánh nhau đến gần sáng ngày 13 tháng 11, nghĩa quân không hạ được thành phải rút. Ngô Quang Huy trở về An Lạc cùng Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Tạ Hiện thành lập Tam tỉnh nghĩa quân còn gọi là “Đại nghĩa đoàn". Nghĩa quân có 5.000 người, xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền (Yên Dũng, Bắc Giang) và các căn cứ ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung Đồng. Sau vài tháng bị quân Pháp liên tục tấn công, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn, bị quân Pháp truy kích nghĩa quân tan rã, Ngô Quang Huy trở về An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang chờ thời, bí mật liên kết với các nghĩa sĩ.
Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật được vua Hàm Nghi phong là Lễ bộ thượng thư, sung Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, tước Thuần trung hầu. Nguyễn Thiện Thuật trở về vùng giáp ranh ba tỉnh Hải Dương - Hưng Yên - Bắc Ninh cho người mời cử nhân Ngô Quang Huy và Nguyễn Hữu Đức tới bàn bạc. Nhận được tin, Ngô Quang Huy lập tức đến gặp Nguyễn Thiện Thuật. Ba ông đã nhất trí phải khôi phục phong trào Bãi Sậy và mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân sang Bắc Ninh, Hải Dương và các tỉnh khác. Nguyễn Thiện Thuật giao cho Ngô Quang Huy phụ trách miền Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương.
Ngô Quang Huy là người thông minh, nổi tiếng hay chữ một vùng, đương thời có câu: “Thần Siêu, Thánh Quát, trẻ Quang Huy”. Năm 17 tuổi ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) tại trường thi Hà Nội, được bổ làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1883 Triều đình Huế kí Hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh. Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về huyện Đông Triều chiêu mộ quân đánh Pháp. Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, đỗ cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội đang làm Huấn đạo huyện Mỹ Đức đều bỏ quan chiêu mộ được hơn 100 quân đến Đông Triều gia nhập đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật.
Ngô Quang Huy là nhà nho từng làm đốc học, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ông đã thành lập một đội tuyên truyền gồm các nho sinh hô hào đồng bào gia nhập nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Nghĩa quân do các ông chỉ huy hoạt động mạnh ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Thanh Hà, Cẩm Giàng, Mỹ Hào và vùng chung quanh lỉnh lị Hải Dương.
Chiều 12/11/1883 nghĩa quân do Nguyễn Thiện Thuật, Hai Kế, Đề Vinh chỉ huy xuất phát từ Đông Triều về hạ thành Hải Dương. Đánh nhau đến gần sáng ngày 13 tháng 11, nghĩa quân không hạ được thành phải rút. Ngô Quang Huy trở về An Lạc cùng Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Tạ Hiện thành lập Tam tỉnh nghĩa quân còn gọi là “Đại nghĩa đoàn". Nghĩa quân có 5.000 người, xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền (Yên Dũng, Bắc Giang) và các căn cứ ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung Đồng. Sau vài tháng bị quân Pháp liên tục tấn công, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn, bị quân Pháp truy kích nghĩa quân tan rã, Ngô Quang Huy trở về An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang chờ thời, bí mật liên kết với các nghĩa sĩ.
Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật được vua Hàm Nghi phong là Lễ bộ thượng thư, sung Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, tước Thuần trung hầu. Nguyễn Thiện Thuật trở về vùng giáp ranh ba tỉnh Hải Dương - Hưng Yên - Bắc Ninh cho người mời cử nhân Ngô Quang Huy và Nguyễn Hữu Đức tới bàn bạc. Nhận được tin, Ngô Quang Huy lập tức đến gặp Nguyễn Thiện Thuật. Ba ông đã nhất trí phải khôi phục phong trào Bãi Sậy và mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân sang Bắc Ninh, Hải Dương và các tỉnh khác. Nguyễn Thiện Thuật giao cho Ngô Quang Huy phụ trách miền Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương.
Sau đó không lâu, Ngô Quang Huy nhận được sắc phong của vua Hàm Nghi phong cho ông là "Hồng lô Tự khanh, Tán lý quân vụ”. Nghĩa quân và nhân dân coi Ngô Quang Huy là nhân vật số hai của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, nên thường gọi ông là “ông Tán Bắc", "ông Tán Thái Lạc”...
Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, Tuần Văn người xã Xuân Quan, huyện Văn Giang đã dấy binh từ năm 1883 theo Đổng Quế, Đốc Sung, trợ thủ của Tuần Vân, Đội Văn (Vương Văn Vang) vốn là tướng giỏi của Tam tỉnh nghĩa quân năm 1884, cả hai ông đều được Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Đề đốc, phát triển lực lượng ra vùng chung quanh.
Ngô Quang Huy thành lập một đội quân tuyên truyền tố cáo tội ác của giặc Pháp và quan lại Nam triều, họp các kỳ hào và dân chúng, tuyên đọc Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Ông còn cho đắp đê, trồng tre dọc sông Nghĩa Trụ kéo dài từ xã Ngọc Kinh, qua Tuấn Dị, Vĩnh Bảo đến các xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số, một con đê khác từ Nghĩa Trai đến Cầu Ghênh (Nhạc Miếu) dài 4 cây số làm tuyến phòng thủ. Ông cho đắp nhiều gò đống, đắp nhiều bờ ruộng cao, khơi sâu kênh mương ở dọc đường 5 để quân sĩ ẩn núp phục kích quân Pháp.
Nghĩa quân do Ngô Quang Huy chỉ huy đánh nhiều trận như trận tấn công đồn Bần Yên Nhân, nhiều trận phục kích quân Pháp ở đồn Ghênh, đồn Bần Yên Nhân, đồn Đống Mối (Nghĩa Lộ tổng Đại Từ, Văn Lâm). Các trận càn của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải vào An Lạc, Đình Dù, Đại Từ, Nghĩa Trai, Đông Khúc, Khúc Lộng... đều bị nghĩa quân đánh bật ra bảo vệ được căn cứ.
Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy còn được vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích giao cho việc tổ chức lực lượng kháng chiến ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ông thường thảo thư từ liên lạc với các quan lại trong phe chủ chiến và sớ gửi vua Hàm Nghi.
Mặc dù đã nhiều cố gắng, song bị quân Pháp liên tục bao vây, truy kích Ngô Quang Huy đành phải giải tán nghĩa quân rồi cùng em là Ngô Quang Chước cùng mươi nghĩa quân thân tín chạy lên Phủ Lạng Thương (tỉnh Bắc Giang ngày nay), quân Pháp vẫn đuổi sát phía sau, để giữ trọn danh tiết không sa vào tay giặc, ngày 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng 1/5/1889), Ngô Quang Huy đã tự tử. Ngô Quang Chước cùng mấy nghĩa quân chôn cất, rồi san bằng mặt ruộng cho mất dấu tích. Mươi năm sau, ông Chước quay lại tìm thì không thấy.
Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, Tuần Văn người xã Xuân Quan, huyện Văn Giang đã dấy binh từ năm 1883 theo Đổng Quế, Đốc Sung, trợ thủ của Tuần Vân, Đội Văn (Vương Văn Vang) vốn là tướng giỏi của Tam tỉnh nghĩa quân năm 1884, cả hai ông đều được Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Đề đốc, phát triển lực lượng ra vùng chung quanh.
Ngô Quang Huy thành lập một đội quân tuyên truyền tố cáo tội ác của giặc Pháp và quan lại Nam triều, họp các kỳ hào và dân chúng, tuyên đọc Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Ông còn cho đắp đê, trồng tre dọc sông Nghĩa Trụ kéo dài từ xã Ngọc Kinh, qua Tuấn Dị, Vĩnh Bảo đến các xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số, một con đê khác từ Nghĩa Trai đến Cầu Ghênh (Nhạc Miếu) dài 4 cây số làm tuyến phòng thủ. Ông cho đắp nhiều gò đống, đắp nhiều bờ ruộng cao, khơi sâu kênh mương ở dọc đường 5 để quân sĩ ẩn núp phục kích quân Pháp.
Nghĩa quân do Ngô Quang Huy chỉ huy đánh nhiều trận như trận tấn công đồn Bần Yên Nhân, nhiều trận phục kích quân Pháp ở đồn Ghênh, đồn Bần Yên Nhân, đồn Đống Mối (Nghĩa Lộ tổng Đại Từ, Văn Lâm). Các trận càn của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải vào An Lạc, Đình Dù, Đại Từ, Nghĩa Trai, Đông Khúc, Khúc Lộng... đều bị nghĩa quân đánh bật ra bảo vệ được căn cứ.
Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy còn được vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích giao cho việc tổ chức lực lượng kháng chiến ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ông thường thảo thư từ liên lạc với các quan lại trong phe chủ chiến và sớ gửi vua Hàm Nghi.
Mặc dù đã nhiều cố gắng, song bị quân Pháp liên tục bao vây, truy kích Ngô Quang Huy đành phải giải tán nghĩa quân rồi cùng em là Ngô Quang Chước cùng mươi nghĩa quân thân tín chạy lên Phủ Lạng Thương (tỉnh Bắc Giang ngày nay), quân Pháp vẫn đuổi sát phía sau, để giữ trọn danh tiết không sa vào tay giặc, ngày 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng 1/5/1889), Ngô Quang Huy đã tự tử. Ngô Quang Chước cùng mấy nghĩa quân chôn cất, rồi san bằng mặt ruộng cho mất dấu tích. Mươi năm sau, ông Chước quay lại tìm thì không thấy.
✯✯✯
Nguồn Dựng nước - Giữ nước - hoi_ls Thượng tá, 28 Tháng Mười Một, 2011.
Ngô Quang Huy
Quê xã Yên Lạc huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên. Đỗ Cử nhân khoa Nhâm tý 1852 triều Tự Đức.
Con Ngô Quang Diêu, anh Ngô Quang Chước, cha con anh em đều thi đỗ, làm Huấn đạo, thăng Đốc học.
Cùng Ngô Quang Chước phối hợp với Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện Thuật chống nhau với quân Pháp ở chiến khu Bãi Sậy(Khởi nghĩa Bãi Sậy 1883-1892).
Vua Hàm Nghi phong Hồng lô tự khanh (hàm Chánh Tứ phẩm),sung Tán lý quân vụ, chỉ huy quân Cần vương vùng nam Bắc Ninh, bắc Hưng Yên, Hải Dương,tục gọi Ông Tán Bắc.Khi Nguyễn Thiện Thuật lánh sang Trung Quốc,ông tiếp tục chỉ huy cuộc kháng chiến ít lâu, rồi rút lên mạn ngược.
Thất truyền.
Theo NHÂN VẬT HỌ NGÔ (TIẾP THEO)H-M - Blog Trảo Nha
Danh nhân đất Việt: Thầy Đốc Nam
Lời Tiểu Dẫn Phả hệ họ Tô:
[...] Tô Ngọc Nữu, Cử Nhân❖Cử Nhân: có thể chỉ đến một trong các khái niệm sau:
• Cử nhân (học vị) - học vị dành cho người tốt nghiệp đại học (ngoại trừ ngành kỹ thuật).
• Bằng cử nhân - bằng tốt nghiệp đại học.
• Một tên gọi khác của Hương cống - một học vị trong hệ thống khoa bảng thời phong kiến ở Việt Nam.
Hương cống (chữ Nho 鄉貢) là một loại học vị trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Loại học vị này được xác định trong kỳ thi Hương.
Xem Thi Hương khoa Canh Tuất (1850), nguyên Giáo thụ❖Giáo thụ: Học quan ở một phủ coi việc học chính, dùng Cử nhân, quan hàng lục, thất phẩm (6-7/9). Thời Minh-Mệnh, quan hàng ngũ, thất phẩm (5-7/9). Xem Học quan. phủ Trường Khánh❖Phủ Trường Khánh: Có 2 thông tin:
1. Thuộc trấn [sau năm 1832 gọi là tỉnh] Lạng-Sơn; Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), vua Lê Thánh Tông định lại bản đồ toàn quốc, chia cả nước thành 12 thừa tuyên. Theo đó, Lạng Sơn được gọi là Lạng Sơn thừa tuyên gồm 1 phủ 7 châu (phủ Tràng Định và các châu: Châu Ôn, Lộc Bình, Yên Bác, Văn Uyên, Văn Lan, Thất Nguyên, Thoát Lãng). Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), vua Minh Mệnh đã bỏ đơn vị trấn và đặt đơn vị mới là tỉnh. Trấn Lạng Sơn được đổi thành tỉnh Lạng Sơn gồm 1 phủ và 7 châu (phủ Trường Khánh và các châu: châu Ôn, Lộc Bình, Thoát Lãng, Văn Uyên, Văn Quan, Thất Tuyền, Yên Bác). Trường Khánh sau đổi là Trường Định, tức huyện Trường Định (Tràng Định), tỉnh Lạng Sơn.
2. Thuộc tỉnh Ninh Bình., tự❖Tên tự: Theo định nghĩa của Đại Từ Điển Tiếng Việt, tên tự là tên đặt dựa vào tên vốn có thường phổ biến trong giới trí thức thời phong kiến. Đối với dân gian xưa, tên tự còn được gọi là tên chữ vì các cụ thường dùng từ Hán Việt để đặt tên này.
Tên chữ ((表)字 - (biểu) tự) là tên gọi của một người vào thời gian trưởng thành của cuộc đời. Sau năm 20 tuổi, tên chữ sẽ được đặt thay cho tên gọi như một biểu tượng của sự trưởng thành và kính trọng. Tên chữ chỉ thường dùng cho nam giới, và thường do cha mẹ đặt tên, cũng có thể là thầy giáo đầu tiên trong buổi học đầu tiên đặt cho, hay thậm chí do chính bản thân tự đặt cho mình.
Theo quyển Lễ ký, sau khi một người đàn ông đến tuổi trưởng thành, sẽ rất thiếu kính trọng khi những người cùng lứa gọi ông ta bằng tên thực (名 - danh). Vì thế, tên thực chỉ dùng khi một người tự nói về bản thân mình hoặc để một người lớn hơn gọi, còn tên chữ sẽ được những người ngang lứa gọi nhau một cách long trọng hoặc dùng trong văn bản, nên mới được gọi là tên chữ.
Tên chữ thường có hai âm và thường dựa trên ý nghĩa của tên thực.
Xem thêm Tên tự là Đính Phủ.
[...] Tô Ngọc Nữu, Cử Nhân❖Cử Nhân: có thể chỉ đến một trong các khái niệm sau:
• Cử nhân (học vị) - học vị dành cho người tốt nghiệp đại học (ngoại trừ ngành kỹ thuật).
• Bằng cử nhân - bằng tốt nghiệp đại học.
• Một tên gọi khác của Hương cống - một học vị trong hệ thống khoa bảng thời phong kiến ở Việt Nam.
Hương cống (chữ Nho 鄉貢) là một loại học vị trong hệ thống giáo dục Việt Nam thời phong kiến. Loại học vị này được xác định trong kỳ thi Hương.
Xem Thi Hương khoa Canh Tuất (1850), nguyên Giáo thụ❖Giáo thụ: Học quan ở một phủ coi việc học chính, dùng Cử nhân, quan hàng lục, thất phẩm (6-7/9). Thời Minh-Mệnh, quan hàng ngũ, thất phẩm (5-7/9). Xem Học quan. phủ Trường Khánh❖Phủ Trường Khánh: Có 2 thông tin:
1. Thuộc trấn [sau năm 1832 gọi là tỉnh] Lạng-Sơn; Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), vua Lê Thánh Tông định lại bản đồ toàn quốc, chia cả nước thành 12 thừa tuyên. Theo đó, Lạng Sơn được gọi là Lạng Sơn thừa tuyên gồm 1 phủ 7 châu (phủ Tràng Định và các châu: Châu Ôn, Lộc Bình, Yên Bác, Văn Uyên, Văn Lan, Thất Nguyên, Thoát Lãng). Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), vua Minh Mệnh đã bỏ đơn vị trấn và đặt đơn vị mới là tỉnh. Trấn Lạng Sơn được đổi thành tỉnh Lạng Sơn gồm 1 phủ và 7 châu (phủ Trường Khánh và các châu: châu Ôn, Lộc Bình, Thoát Lãng, Văn Uyên, Văn Quan, Thất Tuyền, Yên Bác). Trường Khánh sau đổi là Trường Định, tức huyện Trường Định (Tràng Định), tỉnh Lạng Sơn.
2. Thuộc tỉnh Ninh Bình., tự❖Tên tự: Theo định nghĩa của Đại Từ Điển Tiếng Việt, tên tự là tên đặt dựa vào tên vốn có thường phổ biến trong giới trí thức thời phong kiến. Đối với dân gian xưa, tên tự còn được gọi là tên chữ vì các cụ thường dùng từ Hán Việt để đặt tên này.
Tên chữ ((表)字 - (biểu) tự) là tên gọi của một người vào thời gian trưởng thành của cuộc đời. Sau năm 20 tuổi, tên chữ sẽ được đặt thay cho tên gọi như một biểu tượng của sự trưởng thành và kính trọng. Tên chữ chỉ thường dùng cho nam giới, và thường do cha mẹ đặt tên, cũng có thể là thầy giáo đầu tiên trong buổi học đầu tiên đặt cho, hay thậm chí do chính bản thân tự đặt cho mình.
Theo quyển Lễ ký, sau khi một người đàn ông đến tuổi trưởng thành, sẽ rất thiếu kính trọng khi những người cùng lứa gọi ông ta bằng tên thực (名 - danh). Vì thế, tên thực chỉ dùng khi một người tự nói về bản thân mình hoặc để một người lớn hơn gọi, còn tên chữ sẽ được những người ngang lứa gọi nhau một cách long trọng hoặc dùng trong văn bản, nên mới được gọi là tên chữ.
Tên chữ thường có hai âm và thường dựa trên ý nghĩa của tên thực.
Xem thêm Tên tự là Đính Phủ.
Nguyên tên tôi là Nữu (鈕Nữu鈕
), trước nay vẫn viết một bên là chữ Kim (金Kim金
), một bên là chữ Sửu (丑丑
), tên tự là Đính Phủ thì chữ Đính (釘Đính釘
) cũng có chữ Kim một bên, bên kia là chữ Đinh (丁Đinh丁
) Nay theo điều lệ của bộ Lễ, chữ Kim là quốc húy❖Quốc húy: là việc tránh tên thật (tên húy) của đế vương và tổ tiên của ông ta. (tên Nguyễn Kim). Bởi vậy từ nay đổi lại: chữ Nữu thì thay bộ Kim bằng bộ Ngọc (玉Ngọc玉
), bỏ tên tự Đính Phủ thay bằng tên tự mới là Ôn Như cho phải phép nước.
8 - Cụ Đinh Phủ, hiệu Trọng Liêu, thụy Trầm Ước, húy Ngọc Nữu.
Sinh ngày mùng 8 tháng 11 năm Đinh Sửu (1817).
Mất ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Sửu (1889).
Thọ 73 tuổi.
Đỗ Cử Nhân khoa Canh Tuất đời nhà Nguyễn (1850).
Năm Tân Hợi cụ đi thi hội văn lý dự đắc tứ phân mây? bổ giáo thụ phủ trường Khánh rồi kế tiếp: giáo thụ phủ Lý Nhân, Tri huyện Bình Lục, giáo thụ phủ Nghĩa Hưng, quyền Đốc học Nam Định hàm Văn lâm lang rồi về hưu trí.
Cụ có 3 cụ bà. (Cụ nọ chết lấy tiếp cụ kia).
Cụ chính thất
cưới năm Canh Dần là con gái cụ tiền chiêu văn quán Nguyễn Kỳ Phong tiên sinh người làng Xuân Cầu.
Mất ngày 9 tháng 6 năm Canh Thân (27/06/1860), tên hiệu là Quý Hiếu.
Cụ sinh được 4 con trai.
Tô Mậu tên tự là Bá Mậu.
Sinh ngày 15 tháng 7 năm Mậu Tuất (1837?) (1838).
Mất ngày mùng 1 tháng 2 năm Tân Dậu (1861)
Bà Tô Mậu họ Đặng hiệu Ngọc Thục. Mất ngày 22 tháng 3 năm Đinh Hợi 15/04/1887
Sinh được một con trai
Tô Xướng tên tự là Mỹ Phát tên hiệu là Tĩnh Trai
Sinh ngày 30 tháng 10 năm Canh Thân (12/11/1860). Mất ngày 16 tháng 4 năm Mậu Tý (26/05/1888). Đỗ Cử Nhân thứ 8 khoa Bính Tuất (1886).
Tô Phát tên tự là Xuân Dục.
Sinh tháng Giêng năm Quý Mão (6/2/1843).
Mất ngày 26 tháng 3 năm Mậu Tý (6/5/1888).
Bà Tô Phát họ Chu hiệu Dần Thục con cụ Đề lại người làng Triều đông xã Vĩnh Khúc. Mất ngày 21 tháng 3 năm Đinh Hợi (14/4/1887)
Sinh được 1 trai và 4 gái
Tô Thị Giá. Sinh ngày mùng 2 tháng 7 năm Giáp Tý (3/8/1864).
Tô Thị Mậu. Sinh ngày 16 tháng Giêng năm Đinh Mão (20/2/1867).
Tô Thị Thân. Sinh ngày 20 tháng 8 năm Nhâm Thân (Tân Mùi - theo GIA PHẢ HỌ TÔ - Tô Ngọc Nữu) (4/10/1871).
Tô Y. Sinh năm Đinh Sửu (1877). Sinh ra Tô Tu, Tô Hiệu, Tô Chấn, Tô Thị Xuyến, Tô Thị Phúc.
Tô Thị Năm. Sinh năm Tân Tỵ (1881).
Tô Sính tên tự là Trọng Đài
Sinh ngày mùng 1 tháng 3 năm Mậu Thân (1847?) (1848).
Mất ngày mùng 6 tháng 4 năm Mậu Tý (1888)
Bà Tô Sính họ Tô. Mất ngày 23 tháng Chạp âm lịch
Sinh được 3 trai và 3 gái
Tô Thị Noãn. Sinh ngày 10 tháng 11 năm Đinh Mão (1867).
Tô Tuân. Sinh ngày 18 tháng 2 năm Quý Dậu (1873). Sinh ra Tô Đê.
Tô Thị Thủ. Sinh năm Giáp Tuất (1874).
Tô Diễn. Sinh ngày 5 tháng 10 năm Mậu Dần (1878).
Tô Kỷ. Sinh năm Tân Tỵ (1881). Sinh ra Tô Nhu, Tô Quang Đẩu, Tô Tuấn.
Tô Thị Thành tức bà Cả Thành. Sinh năm Nhâm Ngọ (1882).
Tô Khanh tên tự là Thứ Công
Sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm Ất Mão (1854?) (1855).
Mất ngày 29 tháng 3 năm Mậu Tý (1888)
Bà Tô Khanh họ Tô, con cụ Tú Thục. Mất ngày 24 tháng 5 năm Bính Tuất.
Cụ trắc thất
tên hiệu là Thủ Nhất
cưới năm Quý Hợi là con gái cụ cựu Ngự sử Đào phủ quân người làng Nhân Nội xã Vĩnh Bảo.
Mất ngày 18 tháng 12 năm Kỷ Tỵ.
Cụ sinh hạ được 2 con gái
Tô Thị Tư tức bà chánh Đồng Than.
Sinh ngày 15 tháng 10 năm Giáp Tý (1864).
Cụ sinh được 1 con gái là Phạm Thị Mệnh lấy con cụ Tú Nhân nội Văn Giang.
Tô Thị Dần tức bà Bát Ngọc Lịch.
Sinh ngày tháng 9 năm Bính Dần (1866).
Không có con.
Cụ trắc thất (thứ 2)
cưới năm Canh Ngọ là con gái cụ thông lại phủ Lý Nhân Nguyễn Phủ quân người làng Mọc quan nhân ngoại thành Hà Nội.
Mất ngày 16 tháng 7 âm lịch, tên hiệu là Diệu Tâm.
Cụ sinh hạ được 4 con gái
Tô Thị Bẩy vợ ông Tô nguyên là ông nội Lê Giản.
Sinh tháng 9 năm Ất Hợi (1875).
Sinh hạ được 4 trai và 1 gái
Tô Chuẩn
Tô Phiếm
Tô Chử
Tô Phái
Tô Thị Trị
Tô Thị Tám vợ ông Nguyễn Đạo Khung sinh ra Lê Văn Lương.
Sinh ngày 13 tháng 3 năm (Ất? Mão 1855) Kỷ Mão (1879).
Sinh hạ được 5 con trai và 2 con gái
Nguyễn Công Hân
Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Mỹ
Nguyễn Công Miều
Nguyễn Công Bồng
Nguyễn Thị Học
Nguyễn Thị Bình
Tô Thị Chín vợ ông Quản Xuân Đính
Sinh ngày 21 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882).
Sinh hạ được 5 con trai và 2 con gái
Quản Xuân Bình
Quản Xuân Thi
Quản Xuân Ngữ
Quản Xuân Được
Quản Xuân Thỉnh
Quản Thị Giáp
Quản Thị Uất
Tô Thị Mười vợ ông Tô Xung tức Ấm Kinh
Sinh năm Giáp Thân (1884).
Sinh hạ được 1 trai và 1 gái.
Tô Chương
Tô Thị Đường
Mấy năm cuối đời cụ Đốc Nam từ năm Giáp Thân đến năm Mậu Tý (1884 – 1888) xảy ra nhiểu việc biến cố bất thường làm cho cụ đau buồn.
Năm Giáp Thân (1884) Tự Đức ký hiệp ước bán nước ta cho thực dân Pháp. Nhân cơ hội này bọn côn đồ nổi lên cướp đoạt tài sản của nhân dân trong đó tất cả đồ đạc sách vở của cụ bị bọn chúng cướp sạch. Cụ phải tạm lánh ra Bát Tràng.
Tiếp đến năm Bính Tuất (1886) con dâu thứ 4 là bà Tô Khanh chết.
Năm Đinh Hợi (1887) con dâu thứ 1 và thứ 2 là bà Tô Mậu, Tô Phát chết.
Năm Mậu Tý (1888) 3 con trai thứ 2,3,4 là các ông Tô Phát, Tô Sính, Tô Khanh và cháu đích tôn là bác Cử Nhân Tô Xướng chết.
Ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Sửu 1889 cụ cũng mất theo.
Chép lại theo bản photocopy
Tháng 3 năm 2007
Tô Thắng






8 - Cụ Đinh Phủ, hiệu Trọng Liêu, thụy Trầm Ước, húy Ngọc Nữu.
Sinh ngày mùng 8 tháng 11 năm Đinh Sửu (1817).
Mất ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Sửu (1889).
Thọ 73 tuổi.
Đỗ Cử Nhân khoa Canh Tuất đời nhà Nguyễn (1850).
Năm Tân Hợi cụ đi thi hội văn lý dự đắc tứ phân mây? bổ giáo thụ phủ trường Khánh rồi kế tiếp: giáo thụ phủ Lý Nhân, Tri huyện Bình Lục, giáo thụ phủ Nghĩa Hưng, quyền Đốc học Nam Định hàm Văn lâm lang rồi về hưu trí.
Cụ có 3 cụ bà. (Cụ nọ chết lấy tiếp cụ kia).
Cụ chính thất
cưới năm Canh Dần là con gái cụ tiền chiêu văn quán Nguyễn Kỳ Phong tiên sinh người làng Xuân Cầu.
Mất ngày 9 tháng 6 năm Canh Thân (27/06/1860), tên hiệu là Quý Hiếu.
Cụ sinh được 4 con trai.
Tô Mậu tên tự là Bá Mậu.
Sinh ngày 15 tháng 7 năm Mậu Tuất (1837?) (1838).
Mất ngày mùng 1 tháng 2 năm Tân Dậu (1861)
Bà Tô Mậu họ Đặng hiệu Ngọc Thục. Mất ngày 22 tháng 3 năm Đinh Hợi 15/04/1887
Sinh được một con trai
Tô Xướng tên tự là Mỹ Phát tên hiệu là Tĩnh Trai
Sinh ngày 30 tháng 10 năm Canh Thân (12/11/1860). Mất ngày 16 tháng 4 năm Mậu Tý (26/05/1888). Đỗ Cử Nhân thứ 8 khoa Bính Tuất (1886).
Tô Phát tên tự là Xuân Dục.
Sinh tháng Giêng năm Quý Mão (6/2/1843).
Mất ngày 26 tháng 3 năm Mậu Tý (6/5/1888).
Bà Tô Phát họ Chu hiệu Dần Thục con cụ Đề lại người làng Triều đông xã Vĩnh Khúc. Mất ngày 21 tháng 3 năm Đinh Hợi (14/4/1887)
Sinh được 1 trai và 4 gái
Tô Thị Giá. Sinh ngày mùng 2 tháng 7 năm Giáp Tý (3/8/1864).
Tô Thị Mậu. Sinh ngày 16 tháng Giêng năm Đinh Mão (20/2/1867).
Tô Thị Thân. Sinh ngày 20 tháng 8 năm Nhâm Thân (Tân Mùi - theo GIA PHẢ HỌ TÔ - Tô Ngọc Nữu) (4/10/1871).
Tô Y. Sinh năm Đinh Sửu (1877). Sinh ra Tô Tu, Tô Hiệu, Tô Chấn, Tô Thị Xuyến, Tô Thị Phúc.
Tô Thị Năm. Sinh năm Tân Tỵ (1881).
Tô Sính tên tự là Trọng Đài
Sinh ngày mùng 1 tháng 3 năm Mậu Thân (1847?) (1848).
Mất ngày mùng 6 tháng 4 năm Mậu Tý (1888)
Bà Tô Sính họ Tô. Mất ngày 23 tháng Chạp âm lịch
Sinh được 3 trai và 3 gái
Tô Thị Noãn. Sinh ngày 10 tháng 11 năm Đinh Mão (1867).
Tô Tuân. Sinh ngày 18 tháng 2 năm Quý Dậu (1873). Sinh ra Tô Đê.
Tô Thị Thủ. Sinh năm Giáp Tuất (1874).
Tô Diễn. Sinh ngày 5 tháng 10 năm Mậu Dần (1878).
Tô Kỷ. Sinh năm Tân Tỵ (1881). Sinh ra Tô Nhu, Tô Quang Đẩu, Tô Tuấn.
Tô Thị Thành tức bà Cả Thành. Sinh năm Nhâm Ngọ (1882).
Tô Khanh tên tự là Thứ Công
Sinh ngày mùng 8 tháng 4 năm Ất Mão (1854?) (1855).
Mất ngày 29 tháng 3 năm Mậu Tý (1888)
Bà Tô Khanh họ Tô, con cụ Tú Thục. Mất ngày 24 tháng 5 năm Bính Tuất.
Cụ trắc thất
tên hiệu là Thủ Nhất
cưới năm Quý Hợi là con gái cụ cựu Ngự sử Đào phủ quân người làng Nhân Nội xã Vĩnh Bảo.
Mất ngày 18 tháng 12 năm Kỷ Tỵ.
Cụ sinh hạ được 2 con gái
Tô Thị Tư tức bà chánh Đồng Than.
Sinh ngày 15 tháng 10 năm Giáp Tý (1864).
Cụ sinh được 1 con gái là Phạm Thị Mệnh lấy con cụ Tú Nhân nội Văn Giang.
Tô Thị Dần tức bà Bát Ngọc Lịch.
Sinh ngày tháng 9 năm Bính Dần (1866).
Không có con.
Cụ trắc thất (thứ 2)
cưới năm Canh Ngọ là con gái cụ thông lại phủ Lý Nhân Nguyễn Phủ quân người làng Mọc quan nhân ngoại thành Hà Nội.
Mất ngày 16 tháng 7 âm lịch, tên hiệu là Diệu Tâm.
Cụ sinh hạ được 4 con gái
Tô Thị Bẩy vợ ông Tô nguyên là ông nội Lê Giản.
Sinh tháng 9 năm Ất Hợi (1875).
Sinh hạ được 4 trai và 1 gái
Tô Chuẩn
Tô Phiếm
Tô Chử
Tô Phái
Tô Thị Trị
Tô Thị Tám vợ ông Nguyễn Đạo Khung sinh ra Lê Văn Lương.
Sinh ngày 13 tháng 3 năm (Ất? Mão 1855) Kỷ Mão (1879).
Sinh hạ được 5 con trai và 2 con gái
Nguyễn Công Hân
Nguyễn Công Hoan
Nguyễn Công Mỹ
Nguyễn Công Miều
Nguyễn Công Bồng
Nguyễn Thị Học
Nguyễn Thị Bình
Tô Thị Chín vợ ông Quản Xuân Đính
Sinh ngày 21 tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882).
Sinh hạ được 5 con trai và 2 con gái
Quản Xuân Bình
Quản Xuân Thi
Quản Xuân Ngữ
Quản Xuân Được
Quản Xuân Thỉnh
Quản Thị Giáp
Quản Thị Uất
Tô Thị Mười vợ ông Tô Xung tức Ấm Kinh
Sinh năm Giáp Thân (1884).
Sinh hạ được 1 trai và 1 gái.
Tô Chương
Tô Thị Đường
Mấy năm cuối đời cụ Đốc Nam từ năm Giáp Thân đến năm Mậu Tý (1884 – 1888) xảy ra nhiểu việc biến cố bất thường làm cho cụ đau buồn.
Năm Giáp Thân (1884) Tự Đức ký hiệp ước bán nước ta cho thực dân Pháp. Nhân cơ hội này bọn côn đồ nổi lên cướp đoạt tài sản của nhân dân trong đó tất cả đồ đạc sách vở của cụ bị bọn chúng cướp sạch. Cụ phải tạm lánh ra Bát Tràng.
Tiếp đến năm Bính Tuất (1886) con dâu thứ 4 là bà Tô Khanh chết.
Năm Đinh Hợi (1887) con dâu thứ 1 và thứ 2 là bà Tô Mậu, Tô Phát chết.
Năm Mậu Tý (1888) 3 con trai thứ 2,3,4 là các ông Tô Phát, Tô Sính, Tô Khanh và cháu đích tôn là bác Cử Nhân Tô Xướng chết.
Ngày 16 tháng 5 năm Kỷ Sửu 1889 cụ cũng mất theo.
Chép lại theo bản photocopy
Tháng 3 năm 2007
Tô Thắng
Video đã phát trên VTV VN: vtv.vn/video/danh-nhan-dat-viet-thay-doc-nam-151746.htm
Nhà họa sĩ Tô Ngọc Vân - Tố Hữu
_ Tố Hữu _
Nhà Anh, cuối phố Yết Kiêu
Chợ ngồi, rau quả sớm chiều, ngoài hiên
Bán mua, chào giá, trao tiền
Ai hay Anh tự cõi tiên, nhìn đời!
Phòng riêng, chẳng lọt nắng trời
Trông lên, chợt thấy tranh tươi bút thần
Dịu dang, người đẹp thanh tân
Nghiêng đầu bên huệ trắng ngần, tương tư...
Người hay mơ đó, thực hư ?
Năm mươi năm lẻ, tưởng như còn nàng!
Chợ ngồi, rau quả sớm chiều, ngoài hiên
Bán mua, chào giá, trao tiền
Ai hay Anh tự cõi tiên, nhìn đời!
Phòng riêng, chẳng lọt nắng trời
Trông lên, chợt thấy tranh tươi bút thần
Dịu dang, người đẹp thanh tân
Nghiêng đầu bên huệ trắng ngần, tương tư...
Người hay mơ đó, thực hư ?
Năm mươi năm lẻ, tưởng như còn nàng!
Bâng khuâng lại nhớ đến chàng
Long lanh ánh mắt, nở nang miệng cười
Tuyệt vời, Tô Ngọc Vân ơi!
Tài hoa màu sắc, cho đời nên tranh.
Mũ vải mềm, mảnh áo xanh
Nẻo quê, xóm núi, bóng Anh đi về.
Đường dài kháng chiến mài mê
Chân Anh nào biết phút tê tái lòng
Anh đi, để giọt máu hồng
Dáng Anh lồng lộng cánh đồng Điện Biên!
Long lanh ánh mắt, nở nang miệng cười
Tuyệt vời, Tô Ngọc Vân ơi!
Tài hoa màu sắc, cho đời nên tranh.
Mũ vải mềm, mảnh áo xanh
Nẻo quê, xóm núi, bóng Anh đi về.
Đường dài kháng chiến mài mê
Chân Anh nào biết phút tê tái lòng
Anh đi, để giọt máu hồng
Dáng Anh lồng lộng cánh đồng Điện Biên!
5-3-1991
❧ ❀ ❧
Nguồn: Thi Viện.
Xem: BÀI THƠ TỐ HỮU VIẾT TẶNG TÔ NGỌC VÂN - Đinh Quang Tỉnh, 08/01/2011,13:32:41
Tô Ngọc Vân - Bậc thầy nghệ thuật tranh sơn dầu
_ Ngô Trọng Bình (TTXVN/Vietnam+) _

Danh họa Tô Ngọc Vân là một trong “tứ kiệt” của hội họa hàng đầu của mỹ thuật hiện đại Việt Nam: nhất Trí (Nguyễn Gia Trí), nhì Vân (Tô Ngọc Vân), tam Lân (Nguyễn Tường Lân), tứ Cẩn (Trần Văn Cẩn).
Tô Ngọc Vân vừa là người mở đường, vừa là người đặt nền móng đầu tiên và góp nhiều công xây dựng tiền đồ vẻ vang của hội họa hiện đại Việt Nam thế kỷ 20.
Ông là một nghệ sỹ có nhiều tác phẩm nổi tiếng, một nhà giáo đã có công tổ chức, lãnh đạo Trường Mỹ thuật và giảng dạy cho nhiều thế hệ họa sỹ.
Ông là người chiến sỹ xuất sắc trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, là tấm gương sáng của các thế hệ nghệ sỹ tạo hình Việt Nam.
Nền mỹ thuật Việt Nam tự hào có một Tô Ngọc Vân. Ông vinh dự được Bác Hồ và Nhà nước tặng bức trướng với dòng chữ vàng “Một tài năng lớn - Một nhà trí thức yêu nước chân chính.”
Một tài năng mỹ thuật lớn
Tô Ngọc Vân sinh ngày 15/12/1906, ở làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên, lớn lên tại phố Hàng Quạt (Hà Nội). Cha ông thuộc giai cấp tiểu tư sản thành thị, mẹ ông thuộc dòng nho nghèo ở nông thôn.
Từ năm lên 6 tuổi, do gia đình nghèo, ông phải ở với bà nội và một người cô. Có năng khiếu hội hoạ từ nhỏ, học hết năm thứ ba trường Bưởi (cấp trung học), ông quyết tâm bỏ trường Bưởi để ra ngoài tập vẽ thêm.
Say mê với nghệ thuật, ông thi đỗ vào khóa 2 Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Khoa Sơn dầu), và là một trong số ít tài năng được chú ý khi mới nhập môn. Năm 1931, ông thi tốt nghiệp và đỗ thủ khoa của Trường.
Về kỹ thuật vẽ sơn dầu, ông đã đạt đến trình độ bậc thầy. Ngay từ khi còn là sinh viên, ông đã có 3 tác phẩm sơn dầu được trưng bày tại Triển lãm Mỹ thuật đầu tiên ở Sài Gòn tháng 12/1930 và được nhiều người hâm mộ về phong cách diễn tả như: “Ánh mặt trời”, “Bụi chuối ngoài nắng” và “Trời dịu”.
Nhiều tác phẩm sơn dầu của ông đến nay vẫn được đánh giá là những kiệt tác của nền mỹ thuật Việt Nam.
Khi cảm thụ tranh của ông, người ta dễ dàng nhận ra âm hưởng của Gauguin (Pháp) trong bức “Lễ vật”, cũng như phảng phất ảnh hưởng của bích họa Ajanta (Ấn Độ) trên bức lụa “Quà cưới” (1932) hay của hội hoạ Nhật Bản ở bức lụa “Hai em bé mục đồng”...
Qua những thể nghiệm đầu tay, những tác phẩm của ông đã sớm lộ ra tính cách của một họa sĩ duy sắc: ưa thích thể chất đẹp, say sưa với ánh sáng, với những phản quang phong phú của màu sắc nồng nàn...
Những nét riêng được trau dồi đã trở thành định hình cơ bản trong phong cách Tô Ngọc Vân vào những năm sau này.
Năm 1931 và 1932, ông gửi tranh tham gia Triển lãm Mỹ thuật tại Paris, Pháp, và được tặng Huy chương Vàng với bức tranh sơn dầu “Bức thư”. Cũng năm 1932, ông được cấp Bằng danh dự Phòng triển lãm họa sĩ Pháp và được bầu là hội viên Hội họa sĩ Pháp.
Từ năm 1935 đến 1939, ông được cử đi dạy họa ở trường Sisowath ở Phnom Penh, Campuchia. Tại đây, ông đã sáng tác nhiều bức tranh với những đặc trưng của con người, phong cảnh của đất nước Chùa Tháp.
Từ năm 1930 đến 1945, ông là giáo sư hội họa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhiều học sinh của ông sau này đã được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.
Vừa giảng dạy, ông vừa sáng tác mà nhiều bức sơn dầu đã trở nên nổi tiếng như “Thiếu nữ bên hoa huệ”“Thiếu nữ bên hoa huệ”
(sơn dầu-1944)


(sơn dầu-1943)


(sơn dầu-1944)


Có thể nói, giai đoạn từ 1940 đến 1944 là giai đoạn ông sáng tác nhiều tranh về thiếu nữ (ngoài những tranh trên còn có “Thiếu nữ nằm bên hoa sen”, “Thiếu nữ ngồi”, “Thiếu nữ tựa kỷ”).
Tô Ngọc Vân còn là một trong những hoạ sĩ đã viết nhiều bài báo có những nhận định sắc bén về mỹ thuật có giá trị nhằm phổ cập, quảng bá, hướng dẫn và phê bình về mỹ thuật.
Những bài trong giai đoạn này ông viết với bút danh Ái Mỹ hoặc Tô Tử: “Cái đẹp trong hội họa” (1936), “Nguyễn Gia Trí và sơn ta” (1930), “Phòng triển lãm 1940”, “Phê bình nghệ thuật vẽ sơn của hoạ sỹ Nhật” (1941), “Cái Đẹp trong tranh” (1942), “Những bức vẽ bằng sơn ta của Nguyễn Gia Trí” (1944).
Nghệ sỹ - chiến sỹ trọn đời vì cách mạng
Hoạ sỹ Tô Ngọc Vân không chỉ có tài năng mà còn là một nhân cách nghệ thuật lớn. Với tình yêu cái đẹp, mê say màu sắc và giá trị thẩm mỹ dân tộc, ông đã đến với nghệ thuật cách mạng như một lẽ sống để ông thực hiện ước mơ xây dựng một nền hội họa Việt Nam.
Cách mạng chuyển mình, Tô Ngọc Vân cũng chuyển biến tư tưởng, nhìn thấy con đường đi đúng đắn nhất cho một hoạ sỹ.
Về quá trình lột xác và hóa thân này, Tô Ngọc Vân đã viết:
Sau đó vài năm, ông đã trở thành một Nghệ sỹ Cách mạng, một Nghệ sỹ Nhân dân, đúng theo nghĩa của nó.
Năm 1945, ông được cử làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam trên cơ sở trường bị tàn phá nặng nề. Khoá học đầu tiên được khai giảng ngày 15/11/1945.
Đầu năm 1946, ông được giới thiệu vào Bắc Bộ phủ vẽ tranh và nặn tượng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bức tranh sơn dầu “Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ” và đây là bức tranh chân dung sơn dầu đẹp nhất của ông sáng tác về Bác.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ông cùng nhiều văn nghệ sỹ lên chiến khu Việt Bắc, công tác tại Đội tuyên truyền xung phong, rồi Đội kịch Tháng Tám.
Năm 1948, ông được cử làm trưởng đoàn Văn hoá kháng chiến Việt Bắc. Cuối năm 1949, ông làm Giám đốc xưởng hoạ sơn mài Việt Nam, đồng thời là biên tập viên đầu tiên và là một trong những người sáng lập báo Văn Nghệ.
Năm 1950, ông được cử làm Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương sau này chuyển thành Trường Mỹ thuật Việt Nam.
25 sinh viên “khoá mỹ thuật kháng chiến” được sự giảng dạy trực tiếp của Tô Ngọc Vân và các họa sĩ tài danh khác đã trở thành những hoạ sỹ tên tuổi của nền mỹ thuật đương đại Việt Nam như: Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Kim Đồng, Phan Kế An, Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Lê Thanh Đắc, Mai Văn Hiến, Mai Văn Nam, Quang Phòng, Trần Lưu Hậu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Đào Đức... Đào tạo lớp anh chị em họa sĩ kế cận là một đóng góp lớn lao của ông.
Những năm tháng sống trong lòng dân, cùng vui buồn với những con người chất phác, những chiến sĩ, những người lao động cần mẫn đã đưa lại cho ông cảm hứng sáng tác đề tài mới: “Hà Nội vùng lên”“Hà Nội vùng lên”
(sơn dầu-1944)
❖“Hà Nội vùng lên” (sơn dầu-1944)
(1948), “Giặc đến giặc đi” (1949), “Nữ y tá” (1949).
Các tác phẩm trong giai đoạn này đã báo hiệu sự chuyển biến bước đầu của ông, đề tài và đối tượng như: tiết tấu năng động, rộn ràng, chiều hướng đi vào khắc họa tính cách nhân vật...
Trong thời gian này, ông làm nhiều việc, khi thì hoá trang trình bày cho một vở sân khấu, khi thì in truyền đơn và ông tranh thủ thời gian ký hoạ cuộc sống con người, cảnh vật của núi rừng Việt Bắc dưới nhiều chất liệu như sơn mài, sơn dầu, màu nước, chì.
Tháng 4/1954, vào lúc chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt nhất, Tô Ngọc Vân đã lên đường ra mặt trận. Ông đã trực tiếp tham gia và ghi lại không khí ác liệt của chiến trường cũng như sinh hoạt thường nhật của bộ đội ta ở Điện Biên qua các tác phẩm như: “Giáo viên dân tộc Thái”, “Cho ngựa ăn”, “Qua đèo”, “Qua suối”, “Trú quân”…
Ngày 17/6/1954, ông hy sinh tại Ba Khe, bên kia đèo Lũng Lô lịch sử trong lúc nghệ thuật của ông đang lớn lên mạnh mẽ. Chiếc cặp vẽ mà ông mang theo mình đi chiến dịch có nhiều ký hoạ dọc đường như: “Trú quân”, “Hành quân qua suối”, “Lên đèo”, “Qua đèo Lũng Lô”, “Chuẩn bị lên đường”.
Bức ký họa chì “Đèo Lũng Lô” là bức tranh cuối cùng trong cuộc đời sáng tác của ông.
Với những đóng góp to lớn của ông cho nền mỹ thuật cách mạng hiện đại Việt Nam, toàn bộ tác phẩm của ông được nhà nước trưng thu và lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Năm 1985, một đường phố của Thành phố Hồ Chí Minh mang tên Tô Ngọc Vân; năm 1995, một đường phố của Hà Nội mang tên Tô Ngọc Vân.
Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1 năm 1996) về văn học nghệ thuật./.
Những bài trong giai đoạn này ông viết với bút danh Ái Mỹ hoặc Tô Tử: “Cái đẹp trong hội họa” (1936), “Nguyễn Gia Trí và sơn ta” (1930), “Phòng triển lãm 1940”, “Phê bình nghệ thuật vẽ sơn của hoạ sỹ Nhật” (1941), “Cái Đẹp trong tranh” (1942), “Những bức vẽ bằng sơn ta của Nguyễn Gia Trí” (1944).
Nghệ sỹ - chiến sỹ trọn đời vì cách mạng
Hoạ sỹ Tô Ngọc Vân không chỉ có tài năng mà còn là một nhân cách nghệ thuật lớn. Với tình yêu cái đẹp, mê say màu sắc và giá trị thẩm mỹ dân tộc, ông đã đến với nghệ thuật cách mạng như một lẽ sống để ông thực hiện ước mơ xây dựng một nền hội họa Việt Nam.
Cách mạng chuyển mình, Tô Ngọc Vân cũng chuyển biến tư tưởng, nhìn thấy con đường đi đúng đắn nhất cho một hoạ sỹ.
Về quá trình lột xác và hóa thân này, Tô Ngọc Vân đã viết:
“Sự chuyển hướng nghệ thuật, chúng tôi thấy còn khó khăn, nặng nề như trái núi. Việc không dễ dàng như người ta tưởng, như giở một bàn tay úp thành ngửa hay thay cái nhãn hiệu này thành cái nhãn hiệu kia”.
Sau đó vài năm, ông đã trở thành một Nghệ sỹ Cách mạng, một Nghệ sỹ Nhân dân, đúng theo nghĩa của nó.
Năm 1945, ông được cử làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam trên cơ sở trường bị tàn phá nặng nề. Khoá học đầu tiên được khai giảng ngày 15/11/1945.
Đầu năm 1946, ông được giới thiệu vào Bắc Bộ phủ vẽ tranh và nặn tượng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bức tranh sơn dầu “Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ” và đây là bức tranh chân dung sơn dầu đẹp nhất của ông sáng tác về Bác.
Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ông cùng nhiều văn nghệ sỹ lên chiến khu Việt Bắc, công tác tại Đội tuyên truyền xung phong, rồi Đội kịch Tháng Tám.
Năm 1948, ông được cử làm trưởng đoàn Văn hoá kháng chiến Việt Bắc. Cuối năm 1949, ông làm Giám đốc xưởng hoạ sơn mài Việt Nam, đồng thời là biên tập viên đầu tiên và là một trong những người sáng lập báo Văn Nghệ.
Năm 1950, ông được cử làm Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương sau này chuyển thành Trường Mỹ thuật Việt Nam.
25 sinh viên “khoá mỹ thuật kháng chiến” được sự giảng dạy trực tiếp của Tô Ngọc Vân và các họa sĩ tài danh khác đã trở thành những hoạ sỹ tên tuổi của nền mỹ thuật đương đại Việt Nam như: Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Kim Đồng, Phan Kế An, Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Lê Thanh Đắc, Mai Văn Hiến, Mai Văn Nam, Quang Phòng, Trần Lưu Hậu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Đào Đức... Đào tạo lớp anh chị em họa sĩ kế cận là một đóng góp lớn lao của ông.
Những năm tháng sống trong lòng dân, cùng vui buồn với những con người chất phác, những chiến sĩ, những người lao động cần mẫn đã đưa lại cho ông cảm hứng sáng tác đề tài mới: “Hà Nội vùng lên”“Hà Nội vùng lên”
(sơn dầu-1944)
Các tác phẩm trong giai đoạn này đã báo hiệu sự chuyển biến bước đầu của ông, đề tài và đối tượng như: tiết tấu năng động, rộn ràng, chiều hướng đi vào khắc họa tính cách nhân vật...
Trong thời gian này, ông làm nhiều việc, khi thì hoá trang trình bày cho một vở sân khấu, khi thì in truyền đơn và ông tranh thủ thời gian ký hoạ cuộc sống con người, cảnh vật của núi rừng Việt Bắc dưới nhiều chất liệu như sơn mài, sơn dầu, màu nước, chì.
Tháng 4/1954, vào lúc chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt nhất, Tô Ngọc Vân đã lên đường ra mặt trận. Ông đã trực tiếp tham gia và ghi lại không khí ác liệt của chiến trường cũng như sinh hoạt thường nhật của bộ đội ta ở Điện Biên qua các tác phẩm như: “Giáo viên dân tộc Thái”, “Cho ngựa ăn”, “Qua đèo”, “Qua suối”, “Trú quân”…
Ngày 17/6/1954, ông hy sinh tại Ba Khe, bên kia đèo Lũng Lô lịch sử trong lúc nghệ thuật của ông đang lớn lên mạnh mẽ. Chiếc cặp vẽ mà ông mang theo mình đi chiến dịch có nhiều ký hoạ dọc đường như: “Trú quân”, “Hành quân qua suối”, “Lên đèo”, “Qua đèo Lũng Lô”, “Chuẩn bị lên đường”.
Bức ký họa chì “Đèo Lũng Lô” là bức tranh cuối cùng trong cuộc đời sáng tác của ông.
Với những đóng góp to lớn của ông cho nền mỹ thuật cách mạng hiện đại Việt Nam, toàn bộ tác phẩm của ông được nhà nước trưng thu và lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Năm 1985, một đường phố của Thành phố Hồ Chí Minh mang tên Tô Ngọc Vân; năm 1995, một đường phố của Hà Nội mang tên Tô Ngọc Vân.
Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1 năm 1996) về văn học nghệ thuật./.
Ngô Trọng Bình (TTXVN/Vietnam+)
28/01/2012
28/01/2012
❧ ❀ ❧
Nguồn "VietnamPlus"
Subscribe to:
Posts (Atom)