Showing posts with label văn thơ. Show all posts
Showing posts with label văn thơ. Show all posts
Ngôi nhà Hà Nội
_ Tùy bút của Nhà văn Đỗ Chu _
ANTĐ - Ở bộ đội ra, mấy tháng đầu tôi còn phất phơ bên xưởng phim truyện, một hai thề sẽ theo đuổi việc viết kịch bản, sau đó được gọi về Hội Nhà văn, biên chế vào tổ sáng tác, ăn rồi viết, muốn đi đâu thì đi, ra vào là các bậc thầy nổi tiếng từ thuở mình chưa đẻ. Trụ sở Hội lúc đó ở bên đường Nguyễn Du, mãi sau mới chuyển qua đường Nguyễn Đình Chiểu. Một cụ lênh đênh trăm năm trong cõi người ta, một cụ lòa đôi con mắt còn thét đòi cầm bút đâm tà. Xem ra cả hai cụ đều ghê gớm.
Một sớm đông cụ Nguyễn Công Hoan ngồi chuyện trò với ông Nguyễn Đình Thi trong phòng khách vắng tanh. Cụ Hoan bệ vệ trong chiếc pardessu đen, ông Thi như sắp đi họp đâu, complet cravate. Thoáng thấy bóng tôi cả hai cùng giơ tay vẫy. Cụ Hoan choàng rộng tay trên bàn nhẩn nha nói, mình cũng là người Bắc Ninh đấy nhé, đầu kháng chiến Pháp chiếm vùng nam phần sông Đuống, Văn Giang được cắt về Hưng Yên cho tiện. Lúc còn nhỏ mình đã lên tỉnh thi Sectiphica trọ ở nhà một người quen trong Thị Cầu. Giờ đến mùa nhãn mình là người Hưng Yên còn giỗ chạp vẫn là người Kinh Bắc. Mả bà Đoàn Thị Điểm nay nằm đất Hưng Yên mà sách cũ vẫn chép bà nằm đất Bắc Ninh. Cũng là chuyện bể dâu nhỉ.
Ông Thi đứng dậy nói như vừa chợt nhớ, viết gì là tùy nhưng Đỗ Chu cũng cứ nên để ý đến những ngôi nhà Hà Nội, nó vẫn đang thì thầm kể chuyện. Mỗi ngôi nhà ở thành phố này là một pho tiểu thuyết, là một trường ca. Nói rồi ông bắt tay chúng tôi.
Cụ Hoan ngồi thẳng dậy, giơ một ngón tay thầy giáo, mình biết đang có một ngôi nhà đường Lý Thường Kiệt, hồi Pháp thuộc gọi là Boulevard careau, đó là ngôi nhà của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, cũng là người Bắc Ninh nhưng ở bên bắc phần, cụ thể là làng nào tổng nào thì không rõ, ông Luyện tốt nghiệp bác sĩ tại Paris, một chủ báo có tầm, là thường vụ Quốc hội khóa một, được cụ Hồ tin cậy lắm. Trước Cách mạng một lần từ Trà Cổ về mình gặp Tô Ngọc Vân giữa đường, ông Vân tính ra còn là người nhà bên ngoại của mình, cũng là người Xuân Cầu mà.
Hỏi đang đi đâu, ông ấy chỉ tay vào ngôi nhà vừa xây trong khu vườn gần đó mà bảo, ông Luyện mời tôi và kiến trúc sư Nguyễn Trực Luyện đến nhà uống rượu vang. Mình đã tặng “me sừ” một bức sơn dầu mừng nhà mới còn Nguyễn Trực Luyện thì vẽ kiểu và làm thiết kế. Nhân thể ông cũng nên tạt vào chuyện trò cho vui, có thể hiểu đây là một ngôi nhà bạn bè. Ngôi nhà xinh xắn quét vôi trắng, phòng khách rộng thoáng sang trọng, bức sơn dầu Tô Ngọc Vân vẽ ba cô gái áo dài đứng dưới gốc cây bồ kết hoa vàng rực, thân cành tua tủa gai. Bức ấy mà còn đến giờ thì phải biết.
Một sớm đông cụ Nguyễn Công Hoan ngồi chuyện trò với ông Nguyễn Đình Thi trong phòng khách vắng tanh. Cụ Hoan bệ vệ trong chiếc pardessu đen, ông Thi như sắp đi họp đâu, complet cravate. Thoáng thấy bóng tôi cả hai cùng giơ tay vẫy. Cụ Hoan choàng rộng tay trên bàn nhẩn nha nói, mình cũng là người Bắc Ninh đấy nhé, đầu kháng chiến Pháp chiếm vùng nam phần sông Đuống, Văn Giang được cắt về Hưng Yên cho tiện. Lúc còn nhỏ mình đã lên tỉnh thi Sectiphica trọ ở nhà một người quen trong Thị Cầu. Giờ đến mùa nhãn mình là người Hưng Yên còn giỗ chạp vẫn là người Kinh Bắc. Mả bà Đoàn Thị Điểm nay nằm đất Hưng Yên mà sách cũ vẫn chép bà nằm đất Bắc Ninh. Cũng là chuyện bể dâu nhỉ.
Ông Thi đứng dậy nói như vừa chợt nhớ, viết gì là tùy nhưng Đỗ Chu cũng cứ nên để ý đến những ngôi nhà Hà Nội, nó vẫn đang thì thầm kể chuyện. Mỗi ngôi nhà ở thành phố này là một pho tiểu thuyết, là một trường ca. Nói rồi ông bắt tay chúng tôi.
Cụ Hoan ngồi thẳng dậy, giơ một ngón tay thầy giáo, mình biết đang có một ngôi nhà đường Lý Thường Kiệt, hồi Pháp thuộc gọi là Boulevard careau, đó là ngôi nhà của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, cũng là người Bắc Ninh nhưng ở bên bắc phần, cụ thể là làng nào tổng nào thì không rõ, ông Luyện tốt nghiệp bác sĩ tại Paris, một chủ báo có tầm, là thường vụ Quốc hội khóa một, được cụ Hồ tin cậy lắm. Trước Cách mạng một lần từ Trà Cổ về mình gặp Tô Ngọc Vân giữa đường, ông Vân tính ra còn là người nhà bên ngoại của mình, cũng là người Xuân Cầu mà.
Hỏi đang đi đâu, ông ấy chỉ tay vào ngôi nhà vừa xây trong khu vườn gần đó mà bảo, ông Luyện mời tôi và kiến trúc sư Nguyễn Trực Luyện đến nhà uống rượu vang. Mình đã tặng “me sừ” một bức sơn dầu mừng nhà mới còn Nguyễn Trực Luyện thì vẽ kiểu và làm thiết kế. Nhân thể ông cũng nên tạt vào chuyện trò cho vui, có thể hiểu đây là một ngôi nhà bạn bè. Ngôi nhà xinh xắn quét vôi trắng, phòng khách rộng thoáng sang trọng, bức sơn dầu Tô Ngọc Vân vẽ ba cô gái áo dài đứng dưới gốc cây bồ kết hoa vàng rực, thân cành tua tủa gai. Bức ấy mà còn đến giờ thì phải biết.
Rượu vừa rót ra là ông bác sĩ liền quay lại nói chuyện với mình về cuốn Kép Tư Bền. Nghe bàn văn chương biết ngay trước sau gì người này rồi cũng sẽ có ngày cầm bút, thành nhà văn dễ như bỡn. Vậy mà thật tiếc, vào đêm toàn quốc kháng chiến ông ấy cùng hai anh con trai và một người em vợ đều đã hy sinh tại nhà trong một trận đánh dữ dội không cân sức. Trên đường lên Việt Bắc cụ Hồ bùi ngùi bảo, một nhà anh hùng liệt sĩ là nhà ấy.
Đã mấy chục năm vậy mà tôi vẫn chưa thể viết nổi về ngôi nhà thiêng liêng kia, tôi bồn chồn như người mang nợ đến hồi phải trả. Đất Kinh Bắc đâu có rộng, tới đâu tôi cũng hỏi thăm có biết ông Luyện không, quê chúng ta có một ông Luyện, nhưng gần như tất cả đều lắc đầu, một vài cụ già lưỡng lự, thuở bé có nghe nói. Đấy là một trí thức yêu nước, còn như người làng nào thì chịu, anh cứ thử dọc sông Đuống mà tìm.
Đã buồn càng thêm buồn, cứ tưởng mình là người viết sớm viết nhiều mà hóa ra không khéo vẫn là chưa viết gì.
Dạo này tự dưng ít muốn ra ngoài, thích ngồi nhà để nhớ lại, để chiêm nghiệm như người ta vẫn thường nói. Loanh quanh tu sửa những gì đã viết, đọc thiên hạ chẳng được là bao, âu cũng là cái cách thu vén sớm, đợi một ngày chào anh em lên đường.
Tôi vốn không quen chỗ đông người, ở chỗ đông bỗng lóng ngóng, lâu ngày hóa sợ. Nhớ có lần từng nói, ngay từ nhỏ tôi đã thích mình được như con hoàng điểu nhảy nhót trong gò vắng. Kinh thi có câu, miên man hoàng điểu chỉ khâu ngung. Hoàng điểu không đi đàn, lang thang suốt ngày, ít ai đã gặp và nó cũng chẳng hề lấy thế làm buồn. Tôi xem việc cầm bút chẳng qua cũng chỉ là để bày tỏ tâm tình của mình, bày tỏ với mọi người xung quanh, đã đành là thế, nhưng trước hết hãy bày tỏ với chính mình cái đã. Đó vừa là tâm sự lại vừa là tự sự. Có thể dối giả với tất cả chứ chả thể dối giả được bản thân. Hoàng điểu không phải là một vẻ đẹp trong trời đất chăng?
14/07/2013
❧ ❀ ❧
Nguồn: Báo An ninh Thủ đô.
Nhân chuyện "cây đào Tô Hiệu", bàn về hư cấu trong truyện lịch sử
vào lúc
22:00
_ Nhà văn Nguyên Xuân Hưng _
Gần đây, tôi có theo dõi một số bài viết về "cây đào Tô Hiệu", truyện ngắn của ông Nguyễn Anh Tuấn và ý kiến của ông Lại Nguyên Ân.
Trong lời bạt của trang lethieunhon.com, cho biết tác giả Nguyễn Anh Tuấn đã đi điền dã, thu thập tư liệu và cho rằng cây đào ở nhà tù Sơn La do Tô Hiệu trồng là sự thật. Từ đó ông viết nên thiên truyện về Tô Hiệu. Tôi đã tìm trên mạng, thì truyện ngắn này đăng trên trang trieuxuan.info lại có nhan đề "Tô Hiệu - một số phận kỳ lạ" và cuối truyện đề là 1990.
Vấn đề đáng bàn ở đây là, nếu như việc trồng đào của ông Tô Hiệu là huyền thoại khuyết danh, thì truyện của ông Nguyễn Anh Tuấn là vẽ rắn thêm chân thành rồng thôi thì cũng được, nhưng nếu nó là sản phẩm hư cấu trong tác phẩm của một người khác, thì việc sáng tác văn học, hay viết truyện lịch sử như vậy khó chấp nhận được.
Tôi có lý do để quan tâm đến số phận ông Tô Hiệu (và cũng định viết về ông ấy). Về giai thoại cây đào Tô Hiệu, tôi rất chú ý tìm hiểu xem trong văn bản, chứng thư nào nói về chuyện này sớm nhất, hay nhân chứng nào chứng thực chuyện này.
Trong việc viết truyện lịch sử, để làm nổi bật phong cách nhân vật, phục vụ chủ để, hướng trọng tâm "sức nặng" nội dung vào thông điệp sau câu chữ, nhà văn có quyền hư cấu chi tiết. Đôi khi chi tiết sau khi được bịa ra, khiến người đọc tin rằng nó là thật, thật hơn sự thật. Ví dụ, trong Tam Quốc diễn nghĩa, có hàng trăm chi tiết kiểu như vậy, như Đốc Bưu trong Hán sử chép là do Lưu Bị đánh, trong tiểu thuyết thì lại bị Trương Phi đánh. Rõ ràng, Trương Phi đánh Đốc Bưu có vẻ thật hơn. Hồi những năm sáu mươi, tôi đọc một truyện ngắn trên báo Thiếu niên tiền phong thấy có chi tiết tết năm đó, Nguyễn Huệ ở Bắc Hà, sai kị sĩ mang cành đào vào Huế tặng Ngọc Hân. Có vẻ rất thật. Đến nỗi sau này con tôi kể, trong tiết dạy lịch sử, cô giáo lịch sử cũng nói chuyện đó (như một sự thật lịch sử?).
Cho đến nay, thời gian so với năm xảy ra sự thật lịch sử đã quá xa, khó mà tìm thấy lời giải đáp chắc chắn về vấn đề cây đào Tô Hiệu. Nếu vậy, thì đây tạm coi như một giai thoại, một huyền thoại đẹp. Bất luận cách ra đời của nó như thế nào, do một ông tuyên huấn kể lại, do ý đồ tuyên truyền cộng sản… thì cho đến nay cũng là di sản văn hóa phi vật thể rồi. Câu chuyện ca ngợi sức sống mãnh liệt của con người bất chấp lao tù. Nhà văn cần hư cấu trên nền huyền thoại như thế nào mà thôi.
Tình tiết Tô Hiệu trồng đào hoàn toàn có thể là hư cấu, mà chấp nhận được, mà có thể tin được. Vấn đề là, nếu nó là hư cấu, thì phải phân biệt rất rõ. Người viết văn càng cần phải phân biệt. Mặt khác, cũng cần phải phân biệt chi tiết lịch sử nào có thể là chi tiết phải tôn trọng, nó như cái đinh neo câu chuyện lại với thời đại đó. Trong câu chuyện của Nguyễn Anh Tuấn, có mấy chi tiết không nên hư cấu, nó làm cho chân dung tinh thần của nhân vật bị vẽ sai lệch đi. Đó là chi tiết về cha mẹ, về gia đình.
Có thể tác giả Nguyễn Anh Tuấn viết câu chuyện về Tô Hiệu vào năm 1990, cho nên trong câu chuyện ca ngợi phẩm chất của người tù cộng sản Tô Hiệu, không khỏi chịu ảnh hưởng của quan niệm về "con người mới" thời đó.
Đến đây, phải mở ngoặc khi nói thế này. Ông Tô Hiệu là người trong họ nhà tôi. Bà nội tôi và cụ thân sinh ông Tô Hiệu là hai anh em ruột. Sự nghiệp của ông Tô Hiệu thì mọi người trong nhà tôi chỉ biết qua sách báo, nhưng thân thế của ông thì bố tôi, các anh tôi biết rất rõ. Tôi cũng trực tiếp tiếp xúc với nhiều người cùng thế hệ ông Tô Hiệu, họ đều phản ứng cái điều sách báo thời xưa nói rằng ông Tô Hiệu sinh ra trong một gia đình "nông dân nghèo". Không đúng. Bây giờ, tôi có thấy trong wikipedia, mục về Tô Hiệu ghi ông sinh ra trong gia đình "nhà nho nghèo" là chính xác. Nhà nho và nông dân khác nhau chứ. Có lẽ chính vì cái lý lịch lưu hành trước đây của ông Tô Hiệu, mà tác giả Nguyễn Anh Tuấn, trong đoạn về mẹ Tô Hiệu, viết thế này:
Trong lời bạt của trang lethieunhon.com, cho biết tác giả Nguyễn Anh Tuấn đã đi điền dã, thu thập tư liệu và cho rằng cây đào ở nhà tù Sơn La do Tô Hiệu trồng là sự thật. Từ đó ông viết nên thiên truyện về Tô Hiệu. Tôi đã tìm trên mạng, thì truyện ngắn này đăng trên trang trieuxuan.info lại có nhan đề "Tô Hiệu - một số phận kỳ lạ" và cuối truyện đề là 1990.
Vấn đề đáng bàn ở đây là, nếu như việc trồng đào của ông Tô Hiệu là huyền thoại khuyết danh, thì truyện của ông Nguyễn Anh Tuấn là vẽ rắn thêm chân thành rồng thôi thì cũng được, nhưng nếu nó là sản phẩm hư cấu trong tác phẩm của một người khác, thì việc sáng tác văn học, hay viết truyện lịch sử như vậy khó chấp nhận được.
Tôi có lý do để quan tâm đến số phận ông Tô Hiệu (và cũng định viết về ông ấy). Về giai thoại cây đào Tô Hiệu, tôi rất chú ý tìm hiểu xem trong văn bản, chứng thư nào nói về chuyện này sớm nhất, hay nhân chứng nào chứng thực chuyện này.
Trong việc viết truyện lịch sử, để làm nổi bật phong cách nhân vật, phục vụ chủ để, hướng trọng tâm "sức nặng" nội dung vào thông điệp sau câu chữ, nhà văn có quyền hư cấu chi tiết. Đôi khi chi tiết sau khi được bịa ra, khiến người đọc tin rằng nó là thật, thật hơn sự thật. Ví dụ, trong Tam Quốc diễn nghĩa, có hàng trăm chi tiết kiểu như vậy, như Đốc Bưu trong Hán sử chép là do Lưu Bị đánh, trong tiểu thuyết thì lại bị Trương Phi đánh. Rõ ràng, Trương Phi đánh Đốc Bưu có vẻ thật hơn. Hồi những năm sáu mươi, tôi đọc một truyện ngắn trên báo Thiếu niên tiền phong thấy có chi tiết tết năm đó, Nguyễn Huệ ở Bắc Hà, sai kị sĩ mang cành đào vào Huế tặng Ngọc Hân. Có vẻ rất thật. Đến nỗi sau này con tôi kể, trong tiết dạy lịch sử, cô giáo lịch sử cũng nói chuyện đó (như một sự thật lịch sử?).
Cho đến nay, thời gian so với năm xảy ra sự thật lịch sử đã quá xa, khó mà tìm thấy lời giải đáp chắc chắn về vấn đề cây đào Tô Hiệu. Nếu vậy, thì đây tạm coi như một giai thoại, một huyền thoại đẹp. Bất luận cách ra đời của nó như thế nào, do một ông tuyên huấn kể lại, do ý đồ tuyên truyền cộng sản… thì cho đến nay cũng là di sản văn hóa phi vật thể rồi. Câu chuyện ca ngợi sức sống mãnh liệt của con người bất chấp lao tù. Nhà văn cần hư cấu trên nền huyền thoại như thế nào mà thôi.
Tình tiết Tô Hiệu trồng đào hoàn toàn có thể là hư cấu, mà chấp nhận được, mà có thể tin được. Vấn đề là, nếu nó là hư cấu, thì phải phân biệt rất rõ. Người viết văn càng cần phải phân biệt. Mặt khác, cũng cần phải phân biệt chi tiết lịch sử nào có thể là chi tiết phải tôn trọng, nó như cái đinh neo câu chuyện lại với thời đại đó. Trong câu chuyện của Nguyễn Anh Tuấn, có mấy chi tiết không nên hư cấu, nó làm cho chân dung tinh thần của nhân vật bị vẽ sai lệch đi. Đó là chi tiết về cha mẹ, về gia đình.
Có thể tác giả Nguyễn Anh Tuấn viết câu chuyện về Tô Hiệu vào năm 1990, cho nên trong câu chuyện ca ngợi phẩm chất của người tù cộng sản Tô Hiệu, không khỏi chịu ảnh hưởng của quan niệm về "con người mới" thời đó.
Đến đây, phải mở ngoặc khi nói thế này. Ông Tô Hiệu là người trong họ nhà tôi. Bà nội tôi và cụ thân sinh ông Tô Hiệu là hai anh em ruột. Sự nghiệp của ông Tô Hiệu thì mọi người trong nhà tôi chỉ biết qua sách báo, nhưng thân thế của ông thì bố tôi, các anh tôi biết rất rõ. Tôi cũng trực tiếp tiếp xúc với nhiều người cùng thế hệ ông Tô Hiệu, họ đều phản ứng cái điều sách báo thời xưa nói rằng ông Tô Hiệu sinh ra trong một gia đình "nông dân nghèo". Không đúng. Bây giờ, tôi có thấy trong wikipedia, mục về Tô Hiệu ghi ông sinh ra trong gia đình "nhà nho nghèo" là chính xác. Nhà nho và nông dân khác nhau chứ. Có lẽ chính vì cái lý lịch lưu hành trước đây của ông Tô Hiệu, mà tác giả Nguyễn Anh Tuấn, trong đoạn về mẹ Tô Hiệu, viết thế này:
"Những trưa hè nắng như rang như thiêu, một người mẹ già lọm khọm với cái giỏ bên hông bắt cua cáy ở những thửa ruộng chiêm ngập nước. Mắt anh hoa lên những vòng quáng nắng. Cái chõng tre đã lung lay. Cái phiên nhà đã mọt. Cái chổi cùn trong xó bếp lạnh tạnh… Đất nước nghèo trong bùn lầy, vách nát, buồn trong từng câu ca, trong mỗi cái nhìn và mỗi đường gân trên bàn tay răn deo của người mẹ già. Tô Hiệu thấy sống mũi cay cay…"
Tưởng tượng về gia cảnh và bà mẹ Tô Hiệu quả là hoàn toàn không đúng. Mà không đúng thì diễn biến tâm lý của người con thương mẹ cũng sụp đổ. Tôi được nghe kể lại là, bà cụ là một người tháo vát, nội trị trong gia đình rất giỏi. Khi anh em Tô Hiệu, Tô Chấn bị truy nã, bà cụ vẫn tiếp tục thuê xe tay đi Hải Dương, Hà Nội để "bắt đền". Cái lý của cụ là chúng tôi gửi con cho Nhà nước bảo hộ ăn học, giờ không thấy chúng nó đâu, các ông phải tìm về cho tôi. Bà cụ chắc chắn không bao giờ mò cua bắt ốc ở ngoài đồng. Gia cảnh nhà Tô Hiệu lúc đầu khá, còn tiền cho các con đi ăn học, nhưng sau có sa sút, một phần cũng là do gia đình tội phạm.
Trong các sách về Tô Hiệu, chỉ nhắc đến mẹ, chứ không nhắc đến bố. Có lẽ vì do ông cụ thân sinh ông Tô Hiệu là nhà nho (hình như có làm quan lại nhỏ), và tự tử. Theo các cụ nhà tôi kể lại, đó là do ông cụ chán cảnh bị quan lại, hào lý hạch sách, nhà lại nghèo dần, phải bán dần của cải đi. Có lẽ hồi xưa, viết về người cách mạng thì phải hội tụ những yếu tố được cho là tốt đẹp: gia đình công nông, nghèo, ý chí cách mạng… Chuyện tự tử của người cha không phải giai cấp cần lao là khó chấp nhận trong lý lịch của đồng chí Tô Hiệu?. Chủ nghĩa lý lịch thấm vào các nhà báo, nhà văn chăng? Tôi thì tôi cam đoan rằng, ông Tô Hiệu trong gian lao nhất định phải nhớ cả cha lẫn mẹ. Ông Tô Hiệu nhớ một bà mẹ đi xe tay, nhà khá giả thì chắc nhớ khác với nhớ bà mẹ chân lấm tay bùn mò cua bắt ốc.
Chính vì chi tiết sai sự thật lịch sử này, mà tôi cho rằng, truyện về ông Tô Hiệu đã đăng lại của Nguyễn Anh Tuấn kém giá trị. Thiên truyện ca ngợi sức sống của con người trong lao tù, ca tụng nhân cách một người hy sinh vì tự do, độc lập, đáng tiếc lại bị những giới hạn về nhãn quan một thời vô tình "can thiệp" vào, khiến cho việc dựng lại chân dung Tô Hiệu có phần khiên cưỡng.
Nói thêm về một tư liệu lịch sử: Chúng ta chỉ biết làng Xuân Cầu là làng sinh ra nhiều hào kiệt như Nguyễn Công Hoan, Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Tô Chấn, Lê Giản… nhưng ít biết làng Xuân Cầu là một làng quê có truyền thống buôn bán, làm nghề. Nghề cổ xưa là nhuộm thâm. Làng có tục săn chuột, thịt chuột mang ra chợ huyện bán. Trong làng có nhiều nhà làm nghề: bánh mỡ, bánh tro, bánh tráng… Người Xuân Cầu đi làm ăn buôn bán khắp nơi, thường có truyền thống sinh sống tụ hội thành một phố, hay quần cư thành một khu vực cạnh nhau, có tinh thần tương trợ nhau làm ăn. Việc này chắc có nguồn gốc gần một nghìn năm hình thành nên làng, trước thời Nguyễn làng có tên là Huê Cầu.
Tại Hải Phòng, phố Hạ Lý thời trước năm sáu mươi thế kỷ trước là phố của người Xuân Cầu. Huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương có đến một nửa thị trấn là dân Xuân Cầu (Ông Nguyễn Công Hoan đã dạy học và viết nhiều truyện ngắn châm biếm ở phố huyện này, lấy nguyên mẫu nhân vật và sự kiện ở đây). Còn nhiều chi tiết về ông Tô Hiệu ở hai địa danh này mà tôi được biết qua bố mẹ, anh chị. Ông Tô Hiệu bị bắt ở Hạ Lý, chính là tại xóm của người Xuân Cầu.
Tôi thường nghe kể nhà ông Tô Hiệu có ba anh em trai đều đi học trường tỉnh, rồi ra Hà Nội học (ông anh cả ở làng). Người em họ là ông Tô Điển, tức Tô Quang Đẩu, sau này là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Khi ông Đẩu còn sống, tôi có nhìn thấy ông ấy nhiều lần đến nhà tôi. Ông Tô Điển chưa bao giờ chứng thực việc bà mẹ đi hỏi vợ cho ông Tô Hiệu. Chuyện gán ghép, "nhìn ngó" đám này đám khác thì trong làng bao giờ cũng có, nhưng đến mức ăn hỏi thì coi như người trong nhà rồi. Chi tiết này cũng không có đâu. Bà Đen sau này là người trông nhà lưu niệm Tô Hiệu, tôi nghe kể bà không phủ nhận, cũng không kể gì về chuyện đó. Tình tiết này có lẽ hư cấu cũng không sao, an ủi cả người đã hy sinh lẫn người còn sống, nhưng tôi biết nhiều người Xuân Cầu thế hệ trước nói dứt khoát không có chuyện đó.
Xuân Cầu ngoài họ Nguyễn, họ Cao, còn có mấy chi họ Tô, xa xôi chắc cũng có chung ông tổ.
Bài này viết nhân kỷ niệm ngày mất của ông Tô Hiệu (7/3/1944), tôi coi như một nén tâm nhang thành kính tưởng nhớ ông.
Trong các sách về Tô Hiệu, chỉ nhắc đến mẹ, chứ không nhắc đến bố. Có lẽ vì do ông cụ thân sinh ông Tô Hiệu là nhà nho (hình như có làm quan lại nhỏ), và tự tử. Theo các cụ nhà tôi kể lại, đó là do ông cụ chán cảnh bị quan lại, hào lý hạch sách, nhà lại nghèo dần, phải bán dần của cải đi. Có lẽ hồi xưa, viết về người cách mạng thì phải hội tụ những yếu tố được cho là tốt đẹp: gia đình công nông, nghèo, ý chí cách mạng… Chuyện tự tử của người cha không phải giai cấp cần lao là khó chấp nhận trong lý lịch của đồng chí Tô Hiệu?. Chủ nghĩa lý lịch thấm vào các nhà báo, nhà văn chăng? Tôi thì tôi cam đoan rằng, ông Tô Hiệu trong gian lao nhất định phải nhớ cả cha lẫn mẹ. Ông Tô Hiệu nhớ một bà mẹ đi xe tay, nhà khá giả thì chắc nhớ khác với nhớ bà mẹ chân lấm tay bùn mò cua bắt ốc.
Chính vì chi tiết sai sự thật lịch sử này, mà tôi cho rằng, truyện về ông Tô Hiệu đã đăng lại của Nguyễn Anh Tuấn kém giá trị. Thiên truyện ca ngợi sức sống của con người trong lao tù, ca tụng nhân cách một người hy sinh vì tự do, độc lập, đáng tiếc lại bị những giới hạn về nhãn quan một thời vô tình "can thiệp" vào, khiến cho việc dựng lại chân dung Tô Hiệu có phần khiên cưỡng.
Nói thêm về một tư liệu lịch sử: Chúng ta chỉ biết làng Xuân Cầu là làng sinh ra nhiều hào kiệt như Nguyễn Công Hoan, Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Tô Chấn, Lê Giản… nhưng ít biết làng Xuân Cầu là một làng quê có truyền thống buôn bán, làm nghề. Nghề cổ xưa là nhuộm thâm. Làng có tục săn chuột, thịt chuột mang ra chợ huyện bán. Trong làng có nhiều nhà làm nghề: bánh mỡ, bánh tro, bánh tráng… Người Xuân Cầu đi làm ăn buôn bán khắp nơi, thường có truyền thống sinh sống tụ hội thành một phố, hay quần cư thành một khu vực cạnh nhau, có tinh thần tương trợ nhau làm ăn. Việc này chắc có nguồn gốc gần một nghìn năm hình thành nên làng, trước thời Nguyễn làng có tên là Huê Cầu.
Tại Hải Phòng, phố Hạ Lý thời trước năm sáu mươi thế kỷ trước là phố của người Xuân Cầu. Huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương có đến một nửa thị trấn là dân Xuân Cầu (Ông Nguyễn Công Hoan đã dạy học và viết nhiều truyện ngắn châm biếm ở phố huyện này, lấy nguyên mẫu nhân vật và sự kiện ở đây). Còn nhiều chi tiết về ông Tô Hiệu ở hai địa danh này mà tôi được biết qua bố mẹ, anh chị. Ông Tô Hiệu bị bắt ở Hạ Lý, chính là tại xóm của người Xuân Cầu.
Tôi thường nghe kể nhà ông Tô Hiệu có ba anh em trai đều đi học trường tỉnh, rồi ra Hà Nội học (ông anh cả ở làng). Người em họ là ông Tô Điển, tức Tô Quang Đẩu, sau này là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Khi ông Đẩu còn sống, tôi có nhìn thấy ông ấy nhiều lần đến nhà tôi. Ông Tô Điển chưa bao giờ chứng thực việc bà mẹ đi hỏi vợ cho ông Tô Hiệu. Chuyện gán ghép, "nhìn ngó" đám này đám khác thì trong làng bao giờ cũng có, nhưng đến mức ăn hỏi thì coi như người trong nhà rồi. Chi tiết này cũng không có đâu. Bà Đen sau này là người trông nhà lưu niệm Tô Hiệu, tôi nghe kể bà không phủ nhận, cũng không kể gì về chuyện đó. Tình tiết này có lẽ hư cấu cũng không sao, an ủi cả người đã hy sinh lẫn người còn sống, nhưng tôi biết nhiều người Xuân Cầu thế hệ trước nói dứt khoát không có chuyện đó.
Xuân Cầu ngoài họ Nguyễn, họ Cao, còn có mấy chi họ Tô, xa xôi chắc cũng có chung ông tổ.
Bài này viết nhân kỷ niệm ngày mất của ông Tô Hiệu (7/3/1944), tôi coi như một nén tâm nhang thành kính tưởng nhớ ông.
30/3/2012
❧ ❀ ❧
Cây đào TÔ HIỆU giữa huyền thoại và sự thật
vào lúc
21:47
_ Lại Nguyên Ân _
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân hồi đáp những băn khoăn của bạn đọc lethieunhon.com bằng thái độ đề cao tư duy học thuật: “Về truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch”. – Đây là truyện ngắn, tức là tác phẩm hư cấu. Vậy thì đây là lĩnh vực tác giả có toàn quyền trong cái thế giới hư cấu của mình. Tác giả có thể để cho nhân vật người tù trồng cây đào hay cây gì cũng được, v.v... Song có chỗ hơi đáng tiếc là tác giả lại biến thiên truyện ấy thành một thứ truyện ký, tức là như sự ghi lại một sự thực đã từng xảy ra, bằng cách cho in kèm văn bản truyện một vài bức hình như thể làm “chứng tích” về chuyện người tù trồng đào. Đây là chỗ sự hư cấu bị giới hạn; truyện hư cấu có cơ trở thành truyện ký; mà truyện ký thì giá trị ít nhiều tùy thuộc chỗ cái sự thực mà nó muốn xác nhận, trên thực tế có phải là sự thật hay không?”
Tôi định đáp lại các ý kiến thảo luận bằng cách viết thêm một ý kiến luận bàn (comment) nữa, có thể là comment thứ 55, sau 54 comments đã có; song sợ viết quá dài so với khuôn khổ mỗi comment nên tôi quyết định chuyển thành một bài riêng.
Có 2 việc cần bàn: 1/ Xung quanh truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch” của Nguyễn Anh Tuấn; 2/ Về “cây đào Tô Hiệu”: một sự thật hay một huyền thoại?
1/ Về truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch”. – Đây là truyện ngắn, tức là tác phẩm hư cấu. Vậy thì đây là lĩnh vực tác giả có toàn quyền trong cái thế giới hư cấu của mình. Tác giả có thể để cho nhân vật người tù trồng cây đào hay cây gì cũng được, v.v... Song có chỗ hơi đáng tiếc là tác giả lại biến thiên truyện ấy thành một thứ truyện ký, tức là như sự ghi lại một sự thực đã từng xảy ra, bằng cách cho in kèm văn bản truyện một vài bức hình như thể làm “chứng tích” về chuyện người tù trồng đào. Đây là chỗ sự hư cấu bị giới hạn; truyện hư cấu có cơ trở thành truyện ký; mà truyện ký thì giá trị ít nhiều tùy thuộc chỗ cái sự thực mà nó muốn xác nhận, trên thực tế có phải là sự thật hay không?
Trong thực tế văn học Việt Nam mà tôi biết, những thiên ký sự, phóng sự, truyện ký … mà về sau bị phát hiện có những tình tiết hư cấu, thêm thắt, không có thực, thì rốt cuộc sẽ bị mất mát hoặc thu hẹp giá trị.
Luôn thể, cũng nên cùng nhau suy nghĩ về giá trị xã hội của những đối tượng được văn chương tuyên dương.
Các giá trị xã hội chẳng bao giờ đứng yên cả; chúng luôn luôn tăng giảm trong cảm nhận của các thế hệ nối tiếp nhau; người ta luôn luôn cùng nhau căn vặn, biện giải về giá trị các phong trào xã hội chính trị đã qua.
Những năm 1920-30 thì chủ nghĩa CS được ngưỡng mộ bởi thậm chí cả những trí thức tân tiến hàng đầu châu Âu. Đến những năm 1950, trí thức Tây Âu nhìn về Đông Âu và bắt đầu ngờ ngợ về một câu hỏi: bên phía trời Đông kia là “thiên đường dưới trần thế” hay là “quần đảo ngục tù”? Ngờ vực và tranh cãi kéo dài suốt mấy chục năm đã kết thúc (lãng xẹt?) vào thời “perestroika” và kế đó Liên Xô tan rã, Đông Âu chuyển biến trở lại hòa nhập (khá mệt mỏi!) với Tây Ây dân chủ. Năm 1995 Nghị viện châu Âu có nghị quyết kết án CNCS; rồi sau đó người Đông Âu sang Mỹ dựng đài tưởng niệm những nạn nhân của CNCS.
Vậy là vào những năm 1980 trở về trước, sẽ là bình thường nếu văn nghệ sĩ đem công trình sáng tạo để ngợi ca CNCS và các chiến sĩ của nó; còn ngày nay, công việc tương tự sẽ khó tránh bị coi là … lạc hậu cả thế kỷ.
Cho nên, hẳn sẽ có không ít người cho rằng tác giả truyện “Cây đào của người tù áo sạch” đã làm cái công việc đem thêm sơn màu tô trát lên chỗ đã được/bị tô trát quá nhiều.
Có người cổ vũ tác giả do muốn đem hình ảnh những người xưa sao tuyệt vời đến thế đối lập với những hậu thế sao tồi tệ đến thế; – những mong người ta cải đổi, sửa sang, cho “xứng đáng” với lớp người đi trước! Dụng ý này hẳn cũng có khá đông công chúng. Nhưng hẳn cũng đã có người biết nghĩ theo hướng khác. Rằng ở giai đoạn bị tù đày vì tranh đấu thì những “người tù áo sạch” là “người tù áo sạch” thật đấy, nhưng trong đầu họ đã có đầy đủ ý thức “mất xiềng xích mà được cả thế giới”, để đến khi độc chiếm thế giới được rồi thì sẽ toàn quyền định đoạt mọi thứ theo duy nhất ý chí của mình. Trên thực tế, những người “cầm cân nảy mực” hôm nay đang ứng xử một cách rất vô cảm với người lao động kia, vẫn có quyền coi “người tù áo sạch” khi xưa là tiền bối của họ; bởi họ, những người “cầm cân nảy mực” này, chính là thế hệ vị lai của những “người tù áo sạch” năm xưa: chính trong đội ngũ họ đã chọn lựa nhau, kết nạp nhau, bầu cử nhau vào các vị trí này khác, kế tục nhau từ đó tới nay, chứ nào phải người ngoài? Thành thử, đem vào văn chương để đối lập hai thế hệ cùng đội ngũ ấy với nhau, tuy có vẻ “khả thi” về văn chương, song lại là giả tạo, và hiệu quả thực tế thì chắc là cực kỳ ít ỏi!
Tất nhiên chẳng ai nên đặt lại vấn đề đạo đức khi xưa trong hàng ngũ những “người tù áo sạch”. Những chiến sĩ “chết trước rạng đông” bao giờ mà chẳng đẹp đẽ?!
Và điều quan trọng, về sáng tác, là toàn quyền của tác giả. Công chúng thích hay không là chuyện khác, chứ công chúng không nên, – mà cũng không thể – buộc tác giả viết hoặc không viết một điều gì anh ta muốn hay không muốn viết. Nhưng tác phẩm hễ đã công bố ra thì cần được tự do khen chê, đánh giá, bình phẩm.
2/ Về “cây đào Tô Hiệu”: một sự thật hay một huyền thoại? – Có không ít ý kiến viết trong các comments muốn coi đó như là sự thật. Căn cứ vào đâu? Không thấy ai nêu được căn cứ gì cả!
Xin lưu ý một trải nghiệm mà những người cùng lứa tuổi với tôi (sinh vào những năm 1940s) sống ở miền Bắc hẳn còn nhớ: dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng LĐVN, các bộ sách hồi ký quan trọng như “Nhân dân ta rất anh hùng”, “Bác Hồ”, “Lên đường thắng lợi”, “Một lòng theo Đảng”, … được xuất bản khá nhiều, trong đó có những hồi ký về nhà tù Sơn La, nhưng không hồi ký nào nói đến chuyện cây đào Tô Hiệu. Bạn nào kỹ tính thì nên đọc kỹ lại thêm trong các hồi ký như “Suối Reo năm ấy” của Xuân Thủy, hay thử đến hỏi nhà văn Nguyễn Xuân Khánh (có tác phẩm mới nhất: “Đội gạo lên chùa”) là người đã từng ghi hồi ký cho tướng Lê Quang Hòa “Ánh sáng mùa xuân ở nhà tù Sơn La” (đăng Văn nghệ quân đội, s. 2/1962) xem trong đó có nói chuyện cây đào Tô Hiệu hay không?
Vào dịp kỷ niệm kể trên có một diễn ca được phổ biến cực rộng, ấy là bài “Ba mươi năm đời ta có Đảng” của Tố Hữu; khi nói về những gương hy sinh của các chiến sĩ lớp trước, có đoạn này:
Có 2 việc cần bàn: 1/ Xung quanh truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch” của Nguyễn Anh Tuấn; 2/ Về “cây đào Tô Hiệu”: một sự thật hay một huyền thoại?
1/ Về truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch”. – Đây là truyện ngắn, tức là tác phẩm hư cấu. Vậy thì đây là lĩnh vực tác giả có toàn quyền trong cái thế giới hư cấu của mình. Tác giả có thể để cho nhân vật người tù trồng cây đào hay cây gì cũng được, v.v... Song có chỗ hơi đáng tiếc là tác giả lại biến thiên truyện ấy thành một thứ truyện ký, tức là như sự ghi lại một sự thực đã từng xảy ra, bằng cách cho in kèm văn bản truyện một vài bức hình như thể làm “chứng tích” về chuyện người tù trồng đào. Đây là chỗ sự hư cấu bị giới hạn; truyện hư cấu có cơ trở thành truyện ký; mà truyện ký thì giá trị ít nhiều tùy thuộc chỗ cái sự thực mà nó muốn xác nhận, trên thực tế có phải là sự thật hay không?
Trong thực tế văn học Việt Nam mà tôi biết, những thiên ký sự, phóng sự, truyện ký … mà về sau bị phát hiện có những tình tiết hư cấu, thêm thắt, không có thực, thì rốt cuộc sẽ bị mất mát hoặc thu hẹp giá trị.
Luôn thể, cũng nên cùng nhau suy nghĩ về giá trị xã hội của những đối tượng được văn chương tuyên dương.
Các giá trị xã hội chẳng bao giờ đứng yên cả; chúng luôn luôn tăng giảm trong cảm nhận của các thế hệ nối tiếp nhau; người ta luôn luôn cùng nhau căn vặn, biện giải về giá trị các phong trào xã hội chính trị đã qua.
Những năm 1920-30 thì chủ nghĩa CS được ngưỡng mộ bởi thậm chí cả những trí thức tân tiến hàng đầu châu Âu. Đến những năm 1950, trí thức Tây Âu nhìn về Đông Âu và bắt đầu ngờ ngợ về một câu hỏi: bên phía trời Đông kia là “thiên đường dưới trần thế” hay là “quần đảo ngục tù”? Ngờ vực và tranh cãi kéo dài suốt mấy chục năm đã kết thúc (lãng xẹt?) vào thời “perestroika” và kế đó Liên Xô tan rã, Đông Âu chuyển biến trở lại hòa nhập (khá mệt mỏi!) với Tây Ây dân chủ. Năm 1995 Nghị viện châu Âu có nghị quyết kết án CNCS; rồi sau đó người Đông Âu sang Mỹ dựng đài tưởng niệm những nạn nhân của CNCS.
Vậy là vào những năm 1980 trở về trước, sẽ là bình thường nếu văn nghệ sĩ đem công trình sáng tạo để ngợi ca CNCS và các chiến sĩ của nó; còn ngày nay, công việc tương tự sẽ khó tránh bị coi là … lạc hậu cả thế kỷ.
Cho nên, hẳn sẽ có không ít người cho rằng tác giả truyện “Cây đào của người tù áo sạch” đã làm cái công việc đem thêm sơn màu tô trát lên chỗ đã được/bị tô trát quá nhiều.
Có người cổ vũ tác giả do muốn đem hình ảnh những người xưa sao tuyệt vời đến thế đối lập với những hậu thế sao tồi tệ đến thế; – những mong người ta cải đổi, sửa sang, cho “xứng đáng” với lớp người đi trước! Dụng ý này hẳn cũng có khá đông công chúng. Nhưng hẳn cũng đã có người biết nghĩ theo hướng khác. Rằng ở giai đoạn bị tù đày vì tranh đấu thì những “người tù áo sạch” là “người tù áo sạch” thật đấy, nhưng trong đầu họ đã có đầy đủ ý thức “mất xiềng xích mà được cả thế giới”, để đến khi độc chiếm thế giới được rồi thì sẽ toàn quyền định đoạt mọi thứ theo duy nhất ý chí của mình. Trên thực tế, những người “cầm cân nảy mực” hôm nay đang ứng xử một cách rất vô cảm với người lao động kia, vẫn có quyền coi “người tù áo sạch” khi xưa là tiền bối của họ; bởi họ, những người “cầm cân nảy mực” này, chính là thế hệ vị lai của những “người tù áo sạch” năm xưa: chính trong đội ngũ họ đã chọn lựa nhau, kết nạp nhau, bầu cử nhau vào các vị trí này khác, kế tục nhau từ đó tới nay, chứ nào phải người ngoài? Thành thử, đem vào văn chương để đối lập hai thế hệ cùng đội ngũ ấy với nhau, tuy có vẻ “khả thi” về văn chương, song lại là giả tạo, và hiệu quả thực tế thì chắc là cực kỳ ít ỏi!
Tất nhiên chẳng ai nên đặt lại vấn đề đạo đức khi xưa trong hàng ngũ những “người tù áo sạch”. Những chiến sĩ “chết trước rạng đông” bao giờ mà chẳng đẹp đẽ?!
Và điều quan trọng, về sáng tác, là toàn quyền của tác giả. Công chúng thích hay không là chuyện khác, chứ công chúng không nên, – mà cũng không thể – buộc tác giả viết hoặc không viết một điều gì anh ta muốn hay không muốn viết. Nhưng tác phẩm hễ đã công bố ra thì cần được tự do khen chê, đánh giá, bình phẩm.
2/ Về “cây đào Tô Hiệu”: một sự thật hay một huyền thoại? – Có không ít ý kiến viết trong các comments muốn coi đó như là sự thật. Căn cứ vào đâu? Không thấy ai nêu được căn cứ gì cả!
Xin lưu ý một trải nghiệm mà những người cùng lứa tuổi với tôi (sinh vào những năm 1940s) sống ở miền Bắc hẳn còn nhớ: dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng LĐVN, các bộ sách hồi ký quan trọng như “Nhân dân ta rất anh hùng”, “Bác Hồ”, “Lên đường thắng lợi”, “Một lòng theo Đảng”, … được xuất bản khá nhiều, trong đó có những hồi ký về nhà tù Sơn La, nhưng không hồi ký nào nói đến chuyện cây đào Tô Hiệu. Bạn nào kỹ tính thì nên đọc kỹ lại thêm trong các hồi ký như “Suối Reo năm ấy” của Xuân Thủy, hay thử đến hỏi nhà văn Nguyễn Xuân Khánh (có tác phẩm mới nhất: “Đội gạo lên chùa”) là người đã từng ghi hồi ký cho tướng Lê Quang Hòa “Ánh sáng mùa xuân ở nhà tù Sơn La” (đăng Văn nghệ quân đội, s. 2/1962) xem trong đó có nói chuyện cây đào Tô Hiệu hay không?
Vào dịp kỷ niệm kể trên có một diễn ca được phổ biến cực rộng, ấy là bài “Ba mươi năm đời ta có Đảng” của Tố Hữu; khi nói về những gương hy sinh của các chiến sĩ lớp trước, có đoạn này:
... “Chết nằm xuống còn hôn cờ đảng,
Chết còn trao súng đạn, quên đau,
Chết còn trút áo cho nhau,
Miếng cơm dành để người sau ấm lòng”...
Trong tuyên truyền thời ấy, người ta giải thích rõ các việc “chết còn hôn cờ”, “trước khi chết trao lại súng”, “chết còn cởi áo nhường lại người đồng chí”, v.v. là những sự tích gì (chẳng hạn “cởi áo” gắn với tên tuổi Nguyễn Chí Diểu ở Trị Thiên,... ). Hoàn toàn không thấy diễn ca của Tố Hữu nêu việc người chiến sĩ trong khám tù còn trồng đào, để lại hậu thế một tình yêu sự sống, chẳng hạn. Mà khi Tố Hữu viết thiên diễn ca ấy thì bài ký của Nguyễn Tuân đã in ra rồi! Thật quá tốt để dệt thêm nống dệt cho thiên tụng ca rất mực... hoành tráng, chính quy! Vì sao ông trùm tuyên huấn lại không sử dụng tài liệu của nhà tùy bút từng là tổng thư ký Hội văn nghệ hồi kháng chiến? Có thể hiểu đằng sau việc này là sự không xác nhận của giới phụ trách sử đảng thời ấy (đối với sự việc Tô Hiệu trồng đào), thời mà các bộ phận khác nhau trong đảng (các nhóm hồi bí mật vốn chỉ biết nhau, không biết người của nhóm khác) khá nghiêm khắc trông chừng nhau về việc tính toán công lao thành tích đã qua, đề phòng những sự thêu dệt về nhân thân, bởi mỗi tình tiết trong tiểu sử đã qua, thậm chí cả của người đã khuất (luôn luôn có những bà con đồng chí hiện còn sống), đến lúc ấy đều đã “có giá” rồi, trong khi số ghế, số biệt thự đều hữu hạn…
Vậy là “cây đào Tô Hiệu” đã không được thừa nhận là sự thật ngay hồi nó vừa được đề xuất. Sự bác bỏ của Nguyễn Công Hoan (mà tôi nêu trong bài đầu) không chỉ đáng chú ý vì ông là nhà văn cao tuổi, có uy tín cao, được coi như một nhân chứng sống của xã hội Việt Nam thời kỳ 1930-45, mà còn đáng chú ý ở chỗ: Tô Hiệu là bà con trong họ ngoại của Nguyễn Công Hoan (mẹ nhà văn là người họ Tô), sự không xác nhận này cũng gián tiếp là thái độ của thân tộc họ Tô ở Văn Giang hồi ấy (ngày nay họ có thể lại nghĩ khác?); hơn nữa, em ruột Nguyễn Công Hoan là Lê Văn Lương (1912-95) là cán bộ cao cấp từ thời Xứ ủy Bắc Kỳ, có chân trong thường vụ Trung ương đảng (tức Bộ chính trị) từ Đại hội II (1951) và chỉ ra khỏi vị trí này (1956) do chịu trách nhiệm một phần về sai lầm trong cải cách ruộng đất, rồi lại được bầu vào Ban bí thư từ ĐH III (1960); thái độ mà Nguyễn Công Hoan bộc lộ (về “cây đào Tô Hiệu”) có thể có thông tin tham khảo từ Bí thư Lê Văn Lương chăng?
Đương nhiên, không được xác nhận như một sự thật thì “cây đào Tô Hiệu” đã dần dần được ghi nhớ như một huyền thoại; huyền thoại này hẳn đã manh nha trước khi Nguyễn Tuân viết bài tùy bút “Đào Sơn La” (Văn học, số Tết 1959) và nhà văn thật ra cũng chỉ kể cảm nhận của mình về huyền thoại “như thật” ấy, khi đến thăm nhà tù Sơn La hoang vắng, chứ cũng không đưa ra tài liệu nào để thuyết phục công chúng rằng đấy là “sự kiện” có thật.
Cái huyền thoại mà Nguyễn Tuân ghi lại theo cách của ông hồi năm 1959 ấy, cũng đã mai một suốt một thời gian dài. Kể từ năm 1959, năm xuất hiện bài báo của Nguyễn Tuân, rồi năm 1960, năm xuất bản cuốn tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân trong đó có bài báo kể trên, trở về sau, thử xem suốt ba bốn chục năm ròng, có ai nhắc đến sự việc cây đào Tô Hiệu, dù chỉ thuần túy coi như huyền thoại? Có bạn nào thật yêu sự tích này, thử tìm lại sách báo trong nước thời trước khi có internet xem, có những bài nào của những ai nói và nói ra sao về việc này?
Tôi nghĩ, chỉ khi nhà tù Sơn La được đưa vào một “tua” du lịch, tức là chỉ từ cuối những năm 1990, thì người ta mới dần dà nhận ra là có thể dùng đến cái huyền thoại mà Nguyễn Tuân từng ghi nhận, và “cây đào Tô Hiệu” đã được dựng dậy trong dư luận. Vả chăng sự thoái hóa về điều được gọi là đạo đức cách mạng trong đội ngũ đến hồi báo động cũng cần đến những huyền thoại về một lớp tiền bối hy sinh quên mình vì sự nghiệp, như huyền thoại này.
Hiện nay thì huyền thoại này đang mạnh lên, chứng cứ là nó đang được người ta nỗ lực làm như thể là sự việc có thật. Chiều hướng này sẽ còn chưa dừng lại. Sẽ thật lạ nhưng cũng không ngoài dự đoán nếu một ngày kia có một cấp chức sắc nào đó đứng ra “chứng thực” sự việc “cây đào Tô Hiệu”; bởi một tập thể chức sắc đương quyền thì chắc hẳn phải ở lứa tuổi dưới 60, tức là gồm những người sinh sau năm 1952, lại đứng ra làm chuyện “chứng thực” sự việc hồi những năm 1930-40 (“Chúng tôi biết tận mắt cái việc xảy ra 40 năm trước khi chúng tôi ra đời” !) thì ta sẽ có thêm một thứ kỷ lục đặc biệt! Thế nhưng thử hỏi các vua nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX lại ban sắc phong tước cho những nhân vật huyền sử hồi thế kỷ I hoặc II thì đã chẳng báo trước điều đó rồi hay sao? Ôi, chúng ta đang sống ở thời nào đây nhỉ? – thời hiện đại hay thời trung cổ?
Tôi xin chấm dứt bài viết tại đây. Xin nhắc lại: theo tôi, “cây đào Tô Hiệu” chỉ là huyền thoại, không phải là sự thật.
Trong các bình luận (comment) dưới bài cũ của tôi có những vị đưa ra các chứng nhân khác về việc không có sự thật “cây đào Tô Hiệu”; tôi không liên lạc với các vị ấy nên không có ý kiến về các chứng minh ấy, dù nó không trái nhận xét của tôi. Ngoài ra, tôi cũng thoáng thấy ở một vài comment có những phản ứng có thể nói là vô lý, ví dụ có bạn này căn vặn bạn kia: sao đã bảo là cũng quý Tô Hiệu mà lại không chịu tin “cây đào Tô Hiệu” là sự thật? Ôi, người ta có thể yêu cái nhân vật kia mà không tin là có cái sự thật được gán (như thật) cho nhân vật ấy lắm chứ? Yêu như huyền thoại chứ không tin như sự thật, – đó là thái độ khả chấp; sao lại đặt điều kiện “nếu yêu quý thì phải coi đó là sự thật”? Xin các bạn, đừng ai nên khuyên người khác cũng mù quáng giống như tầm mắt của mình.
Thành thật xin lỗi nếu những ý trong bài này có làm phật lòng những bạn đọc nhất định. Tôi chỉ có thể nói thật suy nghĩ của mình, không thể làm ngược lại.
Vậy là “cây đào Tô Hiệu” đã không được thừa nhận là sự thật ngay hồi nó vừa được đề xuất. Sự bác bỏ của Nguyễn Công Hoan (mà tôi nêu trong bài đầu) không chỉ đáng chú ý vì ông là nhà văn cao tuổi, có uy tín cao, được coi như một nhân chứng sống của xã hội Việt Nam thời kỳ 1930-45, mà còn đáng chú ý ở chỗ: Tô Hiệu là bà con trong họ ngoại của Nguyễn Công Hoan (mẹ nhà văn là người họ Tô), sự không xác nhận này cũng gián tiếp là thái độ của thân tộc họ Tô ở Văn Giang hồi ấy (ngày nay họ có thể lại nghĩ khác?); hơn nữa, em ruột Nguyễn Công Hoan là Lê Văn Lương (1912-95) là cán bộ cao cấp từ thời Xứ ủy Bắc Kỳ, có chân trong thường vụ Trung ương đảng (tức Bộ chính trị) từ Đại hội II (1951) và chỉ ra khỏi vị trí này (1956) do chịu trách nhiệm một phần về sai lầm trong cải cách ruộng đất, rồi lại được bầu vào Ban bí thư từ ĐH III (1960); thái độ mà Nguyễn Công Hoan bộc lộ (về “cây đào Tô Hiệu”) có thể có thông tin tham khảo từ Bí thư Lê Văn Lương chăng?
Đương nhiên, không được xác nhận như một sự thật thì “cây đào Tô Hiệu” đã dần dần được ghi nhớ như một huyền thoại; huyền thoại này hẳn đã manh nha trước khi Nguyễn Tuân viết bài tùy bút “Đào Sơn La” (Văn học, số Tết 1959) và nhà văn thật ra cũng chỉ kể cảm nhận của mình về huyền thoại “như thật” ấy, khi đến thăm nhà tù Sơn La hoang vắng, chứ cũng không đưa ra tài liệu nào để thuyết phục công chúng rằng đấy là “sự kiện” có thật.
Cái huyền thoại mà Nguyễn Tuân ghi lại theo cách của ông hồi năm 1959 ấy, cũng đã mai một suốt một thời gian dài. Kể từ năm 1959, năm xuất hiện bài báo của Nguyễn Tuân, rồi năm 1960, năm xuất bản cuốn tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân trong đó có bài báo kể trên, trở về sau, thử xem suốt ba bốn chục năm ròng, có ai nhắc đến sự việc cây đào Tô Hiệu, dù chỉ thuần túy coi như huyền thoại? Có bạn nào thật yêu sự tích này, thử tìm lại sách báo trong nước thời trước khi có internet xem, có những bài nào của những ai nói và nói ra sao về việc này?
Tôi nghĩ, chỉ khi nhà tù Sơn La được đưa vào một “tua” du lịch, tức là chỉ từ cuối những năm 1990, thì người ta mới dần dà nhận ra là có thể dùng đến cái huyền thoại mà Nguyễn Tuân từng ghi nhận, và “cây đào Tô Hiệu” đã được dựng dậy trong dư luận. Vả chăng sự thoái hóa về điều được gọi là đạo đức cách mạng trong đội ngũ đến hồi báo động cũng cần đến những huyền thoại về một lớp tiền bối hy sinh quên mình vì sự nghiệp, như huyền thoại này.
Hiện nay thì huyền thoại này đang mạnh lên, chứng cứ là nó đang được người ta nỗ lực làm như thể là sự việc có thật. Chiều hướng này sẽ còn chưa dừng lại. Sẽ thật lạ nhưng cũng không ngoài dự đoán nếu một ngày kia có một cấp chức sắc nào đó đứng ra “chứng thực” sự việc “cây đào Tô Hiệu”; bởi một tập thể chức sắc đương quyền thì chắc hẳn phải ở lứa tuổi dưới 60, tức là gồm những người sinh sau năm 1952, lại đứng ra làm chuyện “chứng thực” sự việc hồi những năm 1930-40 (“Chúng tôi biết tận mắt cái việc xảy ra 40 năm trước khi chúng tôi ra đời” !) thì ta sẽ có thêm một thứ kỷ lục đặc biệt! Thế nhưng thử hỏi các vua nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX lại ban sắc phong tước cho những nhân vật huyền sử hồi thế kỷ I hoặc II thì đã chẳng báo trước điều đó rồi hay sao? Ôi, chúng ta đang sống ở thời nào đây nhỉ? – thời hiện đại hay thời trung cổ?
Tôi xin chấm dứt bài viết tại đây. Xin nhắc lại: theo tôi, “cây đào Tô Hiệu” chỉ là huyền thoại, không phải là sự thật.
Trong các bình luận (comment) dưới bài cũ của tôi có những vị đưa ra các chứng nhân khác về việc không có sự thật “cây đào Tô Hiệu”; tôi không liên lạc với các vị ấy nên không có ý kiến về các chứng minh ấy, dù nó không trái nhận xét của tôi. Ngoài ra, tôi cũng thoáng thấy ở một vài comment có những phản ứng có thể nói là vô lý, ví dụ có bạn này căn vặn bạn kia: sao đã bảo là cũng quý Tô Hiệu mà lại không chịu tin “cây đào Tô Hiệu” là sự thật? Ôi, người ta có thể yêu cái nhân vật kia mà không tin là có cái sự thật được gán (như thật) cho nhân vật ấy lắm chứ? Yêu như huyền thoại chứ không tin như sự thật, – đó là thái độ khả chấp; sao lại đặt điều kiện “nếu yêu quý thì phải coi đó là sự thật”? Xin các bạn, đừng ai nên khuyên người khác cũng mù quáng giống như tầm mắt của mình.
Thành thật xin lỗi nếu những ý trong bài này có làm phật lòng những bạn đọc nhất định. Tôi chỉ có thể nói thật suy nghĩ của mình, không thể làm ngược lại.
9/3/2012
❧ ❀ ❧
Bạn Văn 11/03/2012 22:39
Lại Nguyên Ân là một nhà nghiên cứu đáng trọng. Đối với học thuật, bao giờ ông cũng nghiêm túc, coi trọng sự thật và đảm bảo tính thực chứng. Cái "vụ" Cây đào Tô Hiệu này càng cho thấy thêm điều đó: để xé toang huyền thoại giúp nhau nhìn vào sự thật, LNA đã viện dẫn rất nhiều tư liệu và đầy trách nhiệm với vấn đề bàn thảo cũng như với người đối thoại. Tuy nhiên, ở bài này, vẫn cần trao đổi với tiên sinh vài điều để chặt chẽ hơn. Điều định bàn không phải chuyện cây đào là thực hay hư. Tôi chỉ trao đổi về một khía cạnh nhỏ thôi, ấy là sự lập luận khoa học. Phàm để khẳng định hay bác bỏ điều gì, thì dứt khoát phải có đủ chứng lý. Quá hiểu điều thông thường ấy, nên tiên sinh đã đưa ra đủ cả chứng và lý. Chứng gồm cả nhân chứng là Nguyễn Công Hoan (qua NCH còn có cả Lê Giản) và vật chứng (nhiều hồi kí của các vị cộng sản cùng thời với Tô Hiệu và diễn ca lịch sử 30 năm đời ta có Đảng của ông trùm tuyên huấn - nhà thơ Tố Hữu). Lý được biện từ hai thói đời: "qui công" cho những người định/được tôn là danh nhân và "huyền thoại hóa" để biến đối tượng nào đó thành thiêng liêng. Có vẻ như chứng và lý đã đủ để làm căn cứ cho tiên sinh bác bỏ: cây đào Tô Hiệu không phải là sự thật mà chỉ là một huyền thoại. Song, ngẫm kĩ, cả chứng và lý của tiên sinh đều chưa đủ thuyết phục.
Thứ nhất, việc nhiều cuốn hồi kí thời ấy và bài "Ba mươi năm đời ta có Đảng" không thấy nhắc gì đến cây đào Tô Hiệu, thì không hoàn toàn đồng nghĩa với việc không có cây đào. "không nói" không có nghĩa là “không có”. Nó không được nói đến có thể do lí do khác thì sao. Chẳng hạn, do bị bỏ sót (trên đời, khi đưa vào sách vở đâu thiếu những thứ quan trọng bị bỏ sót?) cũng có thể do cố ý lờ đi (ở đời, bên cạnh thói “qui công”, cũng có thói “dìm công”, “dìm hàng” để loại bỏ nhau nữa, tướng Giáp rất nhiều năm bị lờ tịt công trạng chẳng phải thế sao?) v.v.
Thứ nhất, việc nhiều cuốn hồi kí thời ấy và bài "Ba mươi năm đời ta có Đảng" không thấy nhắc gì đến cây đào Tô Hiệu, thì không hoàn toàn đồng nghĩa với việc không có cây đào. "không nói" không có nghĩa là “không có”. Nó không được nói đến có thể do lí do khác thì sao. Chẳng hạn, do bị bỏ sót (trên đời, khi đưa vào sách vở đâu thiếu những thứ quan trọng bị bỏ sót?) cũng có thể do cố ý lờ đi (ở đời, bên cạnh thói “qui công”, cũng có thói “dìm công”, “dìm hàng” để loại bỏ nhau nữa, tướng Giáp rất nhiều năm bị lờ tịt công trạng chẳng phải thế sao?) v.v.
Sách dẫn ra chỉ được xem là chứng cứ tin cậy khi trong đó các tác giả kia "nói không", tức là bằng những gì họ biết mười mươi, họ khẳng định là "không có cây đào". Tiếc rằng, sách được dẫn chẳng có lời khẳng định mười mươi nào như vậy.
Thứ hai, ý kiến của Nguyễn Công Hoan cũng không đủ căn cứ. Ông Nguyễn Công Hoan không tận mắt chứng kiến mà chỉ suy ra từ hiện tượng “qui công” và viện gián tiếp qua ý ông Lê Giản. Còn ông Lê Giản lại cũng không đưa ra bằng chứng mà chỉ đưa ra lập luận theo lối suy diễn ("vì người tù nào lại có thì giờ đi trồng đào bao giờ? Vả lại nếu cây đào trồng từ ngày đồng chí Tô Hiệu thì đến năm nay, trải qua hơn hai chục năm, nó còn xanh hay đã cằn cỗi?”). Rồi việc tiên sinh cho rằng có thể Nguyễn Công Hoan đã nghe từ Lê Văn Lương (“thái độ mà Nguyễn Công Hoan bộc lộ (về “cây đào Tô Hiệu”) có thể có thông tin tham khảo từ Bí thư Lê Văn Lương chăng?“) cũng chỉ là phỏng đoán. Cả suy diễn lẫn phỏng đoán đều không thể là chứng cứ.
Thứ ba, cho rằng qui cây đào về cho Tô Hiệu là sản phẩm của cái hiện tượng “qui công” cho danh nhân mà nên, cũng không thật thuyết phục. Ở đây, có thể có câu hỏi: hồi ấy, cùng bị giam ở nhà tù Sơn La còn có nhiều vị nữa, có vị còn “bự” hơn cả Tô Hiệu, tại sao người ta không qui công cho các vị kia mà lại nhất thiết qui cho Tô Hiệu? Việc qui công (nếu có?) cho Tô Hiệu vậy là phải có lí do chứ?
Như vậy, khẳng định cây đào Tô Hiệu là huyền thoại chỉ dựa trên những chứng cứ và biện lí thế thôi, thì chưa thể thuyết phục. Tiên sinh có thể nghi ngờ. Nhưng để bác bỏ, thì một người làm khoa học phải cần thêm những chứng lý xác đáng nữa mới được. Nếu không, thì việc xem cây đào Tô Hiệu là huyền thoại chứ không phải sự thật lịch sử cũng chỉ dừng lại như một giả thuyết của tiên sinh thôi.
Thứ hai, ý kiến của Nguyễn Công Hoan cũng không đủ căn cứ. Ông Nguyễn Công Hoan không tận mắt chứng kiến mà chỉ suy ra từ hiện tượng “qui công” và viện gián tiếp qua ý ông Lê Giản. Còn ông Lê Giản lại cũng không đưa ra bằng chứng mà chỉ đưa ra lập luận theo lối suy diễn ("vì người tù nào lại có thì giờ đi trồng đào bao giờ? Vả lại nếu cây đào trồng từ ngày đồng chí Tô Hiệu thì đến năm nay, trải qua hơn hai chục năm, nó còn xanh hay đã cằn cỗi?”). Rồi việc tiên sinh cho rằng có thể Nguyễn Công Hoan đã nghe từ Lê Văn Lương (“thái độ mà Nguyễn Công Hoan bộc lộ (về “cây đào Tô Hiệu”) có thể có thông tin tham khảo từ Bí thư Lê Văn Lương chăng?“) cũng chỉ là phỏng đoán. Cả suy diễn lẫn phỏng đoán đều không thể là chứng cứ.
Thứ ba, cho rằng qui cây đào về cho Tô Hiệu là sản phẩm của cái hiện tượng “qui công” cho danh nhân mà nên, cũng không thật thuyết phục. Ở đây, có thể có câu hỏi: hồi ấy, cùng bị giam ở nhà tù Sơn La còn có nhiều vị nữa, có vị còn “bự” hơn cả Tô Hiệu, tại sao người ta không qui công cho các vị kia mà lại nhất thiết qui cho Tô Hiệu? Việc qui công (nếu có?) cho Tô Hiệu vậy là phải có lí do chứ?
Như vậy, khẳng định cây đào Tô Hiệu là huyền thoại chỉ dựa trên những chứng cứ và biện lí thế thôi, thì chưa thể thuyết phục. Tiên sinh có thể nghi ngờ. Nhưng để bác bỏ, thì một người làm khoa học phải cần thêm những chứng lý xác đáng nữa mới được. Nếu không, thì việc xem cây đào Tô Hiệu là huyền thoại chứ không phải sự thật lịch sử cũng chỉ dừng lại như một giả thuyết của tiên sinh thôi.
Nguồn: Trang mạng của Lê Thiếu Nhơn.
Chìm nổi Hoàng Công Khanh
vào lúc
20:30
_ Vân Long _
Nhà thơ Vân Long gửi đến lethieunhon.com bài viết “Chìm nổi Hoàng Công Khanh” để góp thêm tư liệu về hồi quang của cây đào Tô Hiệu:
“Ít ai biết Hoàng Công Khanh trải qua 5 năm tù chính trị ở Sơn La, từ năm 17 tuổi, không do công tích gì lớn mà chỉ vì anh có mặt trong một cuộc mít tinh. Rồi cũng không do là chính trị phạm nguy hiểm gì mà anh bị vào sà lim cách ly giam chung với đồng chí Tô Hiệu, mà chỉ do anh bị lao phổi sơ phát như Tô Hiệu. Nhờ những ngày tháng ấy, sau này Hoàng Công Khanh có tập ký sự “Hoa nhạn lai hồng” (NXB Văn Học-1992) gần 500 trang in. Trong đó bằng những chứng lý địa hình thay đổi, ngày tháng Tô Hiệu bị giam, không thể có cây nào mọc trên con đường trải đá, lính coi ngục vẫn nện gót giầy đinh đi tuần tra. Giai thọai hình thành do có hai nhà văn tên tuổi đến thăm sà lim Tô Hiệu, thấy cây đào gần sà lim, một ông thốt lên “Có thể cây đào này đồng chí Tô Hiệu đã trồng!”.
Tôi không sao quên được quang cảnh trước mùa kịch 1953 ở Hà Nội, trong một ngôi nhà ở phố Trần Quốc Toản, hàng đêm, anh Băng Sơn và tôi, hai cậu thanh niên không mấy khi vắng mặt khi ban kịch Hoa Quỳnh dàn tập vở “Bến nước Ngũ Bồ” của Hoàng Công Khanh do Phan Tại đạo diễn. Lúc đó giọng nam trung sang sảng của nghệ sĩ Văn Phú thu hút chúng tôi, rồi cái dáng rất nghệ sĩ của đạo diễn Phan Tại chiếc pip thuốc luôn lơ đễnh trên môi ông. Tôi còn nhớ hai nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh quen thuộc với khán giả những năm sau và bây giờ là Dương Quảng và Trịnh Thịnh. Hai ông bước những bước đầu tiên trên sân khấu có lẽ từ vai Đặng Ich và vai lính Tàu trong vở kịch đó? Người khơi nguồn cho toàn bộ hoạt động của vở kịch ấy là Hoàng Công Khanh tôi lại được diện kiến ít nhất. Chỉ nhớ một dáng dấp cao gày. Trên gương mặt khắc khổ, đặc biệt có đôi mắt hau háu “nhìn” như nghe như nuốt từng câu thơ diễn viên ngâm lên, lỡ có diễn viên nào phát âm, nhả chữ sai chệch, ông cau mày đau khổ như chính cơ thể mình đang bị hành hạ.
Thuộc lứa thanh niên tuổi 20 sống trong thành phố địch chiếm đóng, tôi không khỏi gai người khi nghe tiếng ngâm da diết:
Hoàng Công Khanh sinh năm 1922 quê ở thị xã Kiến An, Hải Phòng. Ông có thể cao hứng đọc thuộc hàng trăm câu thơ trong kịch bản, nhưng không nhớ nổi ngày sinh. Qua nhiều cuộc họp mặt những văn nghệ sĩ viết trong Hà Nội tạm chiếm, tôi móc nối lại những hiểu biết về Hoàng Công Khanh: Hoá ra tôi đã thuộc thơ ông ngay từ nhỏ, lại cũng qua một vở kịch thơ khác “Về Hồ” với hai câu chơi chữ rất dễ nhớ:
Sau này được nghe chính tác giả Hoàng Công Khanh kể, tôi mới rõ đêm công diễn vở kịch đó là để chào mừng Quốc Hội khoá đầu tiên 1946. Đêm đó, Bác Hồ cũng xem diễn, có gọi tác giả đến và khen “Chú kêu gọi đoàn kết chống giặc như thế là tốt!” Vở kịch dựng lại không khí giặc Minh lấy danh nghĩa giúp nhà Trần, truy diệt Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương để sang xâm chiếm nước ta. Trước vận nước chông chênh, những người ngu trung với triều Trần dần thức tỉnh, tập hợp dưới lá cờ chống giặc ngoại xâm.
Những người trẻ làm nên lịch sử, tôi đọc câu đó ở đâu, thật đúng với giai đoạn đầu của cuộc Cách Mạng. Vị nghị sĩ quốc hội trẻ măng 22 tuổi Nguyễn Đình Thi vừa được bầu lúc đó hẳn cũng đang chăm chú theo dõi với cả những giác quan của người làm nghệ thuật: vở kịch thơ của một tác giả vô danh cùng lứa tuổi ông mà được công diễn trong dịp long trọng này, nếu ta nhớ những vị tiền bối của làng kịch thơ trước đó: Yến Lan và Nguyễn Bính viết chung “Bóng giai nhân”, Trần Tử Anh có “Nửa đêm truyền hịch” và “Thế chiến quốc”, Thao Thao có “Ải Bắc”, “Quán biên thùy”, Phạm Huy Thông có “Anh Nga”, Vũ Hoàng Chương có “Vân Muội”, “Kinh Kha sang Tần”…
Vở "Về Hồ" những ngày đầu cách mạng hầu như được diễn khắp Trung Nam Bắc. Nhưng ít ai biết tác giả vừa trải qua 5 năm tù chính trị ở Sơn La, từ năm 17 tuổi, không do công tích gì lớn mà chỉ vì anh có mặt trong một cuộc mít tinh. Rồi cũng không do là chính trị phạm nguy hiểm gì mà anh bị vào sà lim cách ly giam chung với đồng chí Tô Hiệu, mà chỉ do anh bị lao phổi sơ phát như Tô Hiệu. Nhờ những ngày tháng ấy, sau này Hoàng Công Khanh có tập ký sự "Hoa nhạn lai hồng" (NXB Văn Học-1992) gần 500 trang in. Trong đó bằng những chứng lý địa hình thay đổi, ngày tháng Tô Hiệu bị giam, không thể có cây nào mọc trên con đường trải đá, lính coi ngục vẫn nện gót giầy đinh đi tuần tra. Giai thọai hình thành do có hai nhà văn tên tuổi đến thăm sà lim Tô Hiệu, thấy cây đào gần sà lim, một ông thốt lên “Có thể cây đào này đồng chí Tô Hiệu đã trồng!”. Rồi in báo in sách “tam sao thất bản”, cây đào trở thành vật chứng của tinh thần lạc quan cách mạng của người cộng sản. Hoàng Công Khanh đã gửi tặng tỉnh uỷ Sơn La cuốn sách. Ít lâu sau, ông nhận được công văn của Tỉnh uỷ Sơn La, ông kể tôi nghe nội dung sự xác nhận của Tỉnh ủy về những điều tác giả đã sống, đã viết không có gì sai. Nhưng khi một giai thoại phù hợp với lòng dân đã được lưu truyền thì chả cần phải giải thiêng làm gì. Tôi nghĩ: Điều này hẳn cũng tương tự như cành đào lãng mạn của Nguyễn Huệ gửi về kinh cho công chúa Ngọc Hân đâu chỉ là sáng tạo riêng của Trúc Đường (theo lời kể Trần Lê Văn) trong kịch bản!
Hoàng Công Khanh đã kịp thời cùng với đoàn tù tự giải phóng khỏi ngục Sơn La (theo tổ đồng chí Hoàng Tùng). Rồi tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Kiến An Hải Phòng (cùng các đ/c Lê Quang Đạo, Hoàng Hữu Nhân). Nhiệm vụ đầu tiên của ông là phụ trách văn hoá cứu quốc, Công giáo cứu quốc Hải Phòng, Ủy viên Thông tin Tuyên truyền trong Uỷ Ban nhân dân Cách Mạng Hải Phòng. (theo sơ yếu lý lịch HCK).
Mấy năm hoạt động đầu kháng chiến (1947-1950) là những năm ông sống thoải mái nhất. Ông làm trưởng đoàn kịch Thông tin tuyên truyền liên tỉnh Hải- Kiến, sau là của Liên khu 3, tổng thư ký Hội Văn hoá LK 3, chủ bút tuần báo Sóng Mới (chi hội Văn Nghệ LK3), rồi phóng viên báo Cứu Quốc của đồng chí Xuân Thủy. Thời gian này, ông có tập truyện ngắn Trên bến Búng được giải thưởng địch vận của Liên khu, có thơ in rải rác trên các báo Văn Nghệ, Cứu Quốc, Quân Du kích, Quân Bạch Đằng, in chung tập thơ với Lê Đại Thanh, Trần Lê Văn, Yên Thao, Lan Sơn. Có tập thơ in riêng Hà Nội không ngủ (1948), vở kịch 5 màn Ở chung một nhà do Lộng Chương đạo diễn và đóng vai chính, thu hút khá nhiều bạn bè nhà văn lên sàn diễn: Trần Lê Văn cũng đóng một vai, nữ sĩ Tuyết Khanh vợ nhà thơ Hoàng Cầm cũng sắm vai (đồng thời, cũng là nhân vật trong câu thơ tôi thuộc: Khanh của Hoàng ơi lửa bốn phương - Sầu lên ngùn ngụt ý tha phương nhưng Hoàng đây là Vũ Hoàng Chương chứ không phải Hoàng Cầm!).
Thuộc lứa thanh niên tuổi 20 sống trong thành phố địch chiếm đóng, tôi không khỏi gai người khi nghe tiếng ngâm da diết:
Nơi đây tay gối làm daoTrong hoàn cảnh ấy, viết những câu thơ ấy là rất bạo! Rồi những câu thơ cảm khái hợp với cái “sầu vũ trụ” và cái “gu” của anh tiểu tư sản như chúng tôi:
Ngủ trong tủi cực nuốt vào hờn căm
Mộng đời trắng cả hai tayTâm trạng Thị Trinh mong ngóng người tình tráng sĩ cũng là tâm trạng trông ngóng “phía bên kia” của một số phụ nữ Hà Nội lúc ấy:
Sầu lên vi vút ngàn mày tràng giang
Gió lùa lạnh ngắt áo xiêmHẳn là tác giả về Hà Nội trong hoàn cảnh bất đắc dĩ nên ông mượn lời nhân vật nói hộ:
Ngày đơn quán lẻ vô duyên lạ thường
Thời chưa lại, cờ thiêng còn đợi gióSau này tôi mới biết Hoàng Công Khanh lúc ấy đang hoạt động trí thức vận nội thành cùng với Bùi Xuân Phái, Sỹ Tiến, Thy Thy Tống Ngọc (Thy Ngọc) và Hoài Việt do Nguyễn Bắc phụ trách.
Phiêu dạt bờ trăng lênh đênh bến cỏ
Hoàng Công Khanh sinh năm 1922 quê ở thị xã Kiến An, Hải Phòng. Ông có thể cao hứng đọc thuộc hàng trăm câu thơ trong kịch bản, nhưng không nhớ nổi ngày sinh. Qua nhiều cuộc họp mặt những văn nghệ sĩ viết trong Hà Nội tạm chiếm, tôi móc nối lại những hiểu biết về Hoàng Công Khanh: Hoá ra tôi đã thuộc thơ ông ngay từ nhỏ, lại cũng qua một vở kịch thơ khác “Về Hồ” với hai câu chơi chữ rất dễ nhớ:
Chàng về Hồ, thiếp cũng về HồĐêm đó là lần đầu tiên tôi được vào ngồi xem đàng hoàng ở Nhà Hát Lớn (sau những ngấp nghé lén xem bên cánh gà đôi buổi dàn tập những vở kịch khác) trong chuỗi ngày chộn rộn hào hứng sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn là nơi sinh hoạt thường dành cho tầng lớp trên com-lê cà vạt, áo dài màu với phấn son thơm nức. Tôi được một anh ở đoàn Hướng đạo cho đi cùng, lúc đó tôi là một chú bé 12 tuổi. Giọng nữ cao ngâm lên mấy lần câu thơ trên, như một điệp khúc của vở kịch, cũng là lần đầu tôi được xem kịch thơ nên nó gây ấn tượng với tôi sâu đậm lắm!
Chàng về Hồ Hán thiếp về hồ Tây
Sau này được nghe chính tác giả Hoàng Công Khanh kể, tôi mới rõ đêm công diễn vở kịch đó là để chào mừng Quốc Hội khoá đầu tiên 1946. Đêm đó, Bác Hồ cũng xem diễn, có gọi tác giả đến và khen “Chú kêu gọi đoàn kết chống giặc như thế là tốt!” Vở kịch dựng lại không khí giặc Minh lấy danh nghĩa giúp nhà Trần, truy diệt Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương để sang xâm chiếm nước ta. Trước vận nước chông chênh, những người ngu trung với triều Trần dần thức tỉnh, tập hợp dưới lá cờ chống giặc ngoại xâm.
Những người trẻ làm nên lịch sử, tôi đọc câu đó ở đâu, thật đúng với giai đoạn đầu của cuộc Cách Mạng. Vị nghị sĩ quốc hội trẻ măng 22 tuổi Nguyễn Đình Thi vừa được bầu lúc đó hẳn cũng đang chăm chú theo dõi với cả những giác quan của người làm nghệ thuật: vở kịch thơ của một tác giả vô danh cùng lứa tuổi ông mà được công diễn trong dịp long trọng này, nếu ta nhớ những vị tiền bối của làng kịch thơ trước đó: Yến Lan và Nguyễn Bính viết chung “Bóng giai nhân”, Trần Tử Anh có “Nửa đêm truyền hịch” và “Thế chiến quốc”, Thao Thao có “Ải Bắc”, “Quán biên thùy”, Phạm Huy Thông có “Anh Nga”, Vũ Hoàng Chương có “Vân Muội”, “Kinh Kha sang Tần”…
Vở "Về Hồ" những ngày đầu cách mạng hầu như được diễn khắp Trung Nam Bắc. Nhưng ít ai biết tác giả vừa trải qua 5 năm tù chính trị ở Sơn La, từ năm 17 tuổi, không do công tích gì lớn mà chỉ vì anh có mặt trong một cuộc mít tinh. Rồi cũng không do là chính trị phạm nguy hiểm gì mà anh bị vào sà lim cách ly giam chung với đồng chí Tô Hiệu, mà chỉ do anh bị lao phổi sơ phát như Tô Hiệu. Nhờ những ngày tháng ấy, sau này Hoàng Công Khanh có tập ký sự "Hoa nhạn lai hồng" (NXB Văn Học-1992) gần 500 trang in. Trong đó bằng những chứng lý địa hình thay đổi, ngày tháng Tô Hiệu bị giam, không thể có cây nào mọc trên con đường trải đá, lính coi ngục vẫn nện gót giầy đinh đi tuần tra. Giai thọai hình thành do có hai nhà văn tên tuổi đến thăm sà lim Tô Hiệu, thấy cây đào gần sà lim, một ông thốt lên “Có thể cây đào này đồng chí Tô Hiệu đã trồng!”. Rồi in báo in sách “tam sao thất bản”, cây đào trở thành vật chứng của tinh thần lạc quan cách mạng của người cộng sản. Hoàng Công Khanh đã gửi tặng tỉnh uỷ Sơn La cuốn sách. Ít lâu sau, ông nhận được công văn của Tỉnh uỷ Sơn La, ông kể tôi nghe nội dung sự xác nhận của Tỉnh ủy về những điều tác giả đã sống, đã viết không có gì sai. Nhưng khi một giai thoại phù hợp với lòng dân đã được lưu truyền thì chả cần phải giải thiêng làm gì. Tôi nghĩ: Điều này hẳn cũng tương tự như cành đào lãng mạn của Nguyễn Huệ gửi về kinh cho công chúa Ngọc Hân đâu chỉ là sáng tạo riêng của Trúc Đường (theo lời kể Trần Lê Văn) trong kịch bản!
Hoàng Công Khanh đã kịp thời cùng với đoàn tù tự giải phóng khỏi ngục Sơn La (theo tổ đồng chí Hoàng Tùng). Rồi tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Kiến An Hải Phòng (cùng các đ/c Lê Quang Đạo, Hoàng Hữu Nhân). Nhiệm vụ đầu tiên của ông là phụ trách văn hoá cứu quốc, Công giáo cứu quốc Hải Phòng, Ủy viên Thông tin Tuyên truyền trong Uỷ Ban nhân dân Cách Mạng Hải Phòng. (theo sơ yếu lý lịch HCK).
Mấy năm hoạt động đầu kháng chiến (1947-1950) là những năm ông sống thoải mái nhất. Ông làm trưởng đoàn kịch Thông tin tuyên truyền liên tỉnh Hải- Kiến, sau là của Liên khu 3, tổng thư ký Hội Văn hoá LK 3, chủ bút tuần báo Sóng Mới (chi hội Văn Nghệ LK3), rồi phóng viên báo Cứu Quốc của đồng chí Xuân Thủy. Thời gian này, ông có tập truyện ngắn Trên bến Búng được giải thưởng địch vận của Liên khu, có thơ in rải rác trên các báo Văn Nghệ, Cứu Quốc, Quân Du kích, Quân Bạch Đằng, in chung tập thơ với Lê Đại Thanh, Trần Lê Văn, Yên Thao, Lan Sơn. Có tập thơ in riêng Hà Nội không ngủ (1948), vở kịch 5 màn Ở chung một nhà do Lộng Chương đạo diễn và đóng vai chính, thu hút khá nhiều bạn bè nhà văn lên sàn diễn: Trần Lê Văn cũng đóng một vai, nữ sĩ Tuyết Khanh vợ nhà thơ Hoàng Cầm cũng sắm vai (đồng thời, cũng là nhân vật trong câu thơ tôi thuộc: Khanh của Hoàng ơi lửa bốn phương - Sầu lên ngùn ngụt ý tha phương nhưng Hoàng đây là Vũ Hoàng Chương chứ không phải Hoàng Cầm!).
Sau khi ông tham gia đoàn đại biểu Văn Nghệ LK 3 và 4 lên Việt Bắc dự Đại hội Văn Nghệ toàn quốc về đến Thanh Hoá, bệnh lao tái phát, được tổ chức cho phép về Hà Nội chữa bệnh rồi tìm bắt liên lạc với cơ sở nội thành làm công tác trí thức vận trong hậu địch.
Tôi ngỡ hoạt động nội thành của ông chủ yếu là bí mật (hồi còn ít tuổi, tôi không nhìn thấy hết những hoạt động báo chí công khai của Thành ủy Hà Nội (giai đoạn 1950-1954) trong lòng địch, chỉ cảm thấy tờ Dân Ý có khuynh hướng cảm tình với kháng chiến) hoá ra ông được phân công làm chủ bút báo Dân Ý với nhiệm vụ chống văn hoá đồi trụy. Báo hoạt động được một thời gian, rồi sở Mật thám liên bang gọi ông lên đe dọa, rồi đóng cửa báo Dân Ý. Ngay sau đó, Thành uỷ cho ra đời tờ Niềm Vui (nhật báo công khai) tiếp nối nhiệm vụ của Dân Ý mà Hoàng Công Khanh lại là biên tập viên chủ chốt (đồng chí Nguyễn Bắc, người lãnh đạo các hoạt động văn hoá nội thành Hà Nội còn giữ được toàn bộ báo Dân Ý và một số tờ Niềm Vui để đưa vào Tổng tập lịch sử báo chí Việt Nam). Đó là nhiệm vụ của ông với tổ chức, còn với chúng tôi, những bạn văn đàn em của ông coi giai đoạn này của ông là “giai đoạn tiểu thuyết”, bởi có đến 6 cuốn tiểu thuyết của ông được xuất bản trong 4 năm: Mối tình đầu, Yêu chỉ một lần, Mẹ tôi sớm biệt một chiều thu (NXB Kuy Sơn 1951,1952,1953) Trại Tân Bồi, Bạn đường, Éo le (các NXB Vỡ đất, Chân lý, Thống nhất 1953,1954).
Theo các nhà văn đi kháng chiến về, ông là một cây bút “thường thường bậc trung”, bởi khi đó ông đã ra cuốn tiểu thuyết nào đâu! Nhất là vở kịch thơ Bến nước Ngũ Bồ mà chúng tôi đánh giá cao về giá trị văn học (cả về nội tâm và tính cách nhân vật) về sự công diễn phổ biến ở khá nhiều nơi có cộng đồng người Việt sinh sống, vì nội dung yêu nước được thể hiện bằng lời thơ đẹp, trong sáng, cảm khái thu hút được sự đồng thuận của nhiều tầng lớp khán giả. Có thể xem như đến sau năm 1950, ông mới viết văn như một nhà văn chuyên nghiệp.
Sau 1954 là “giai đoạn làm báo” của ông, ông làm chủ bút báo Nói Thật, viết bài cộng tác với báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính và các báo khác. Chính ở giai đoạn này, ông đã bị tai nạn nghề nghiệp do dịch một tản văn của Lỗ Tấn với nội dung nghi vấn phụ họa Nhân văn Giai phẩm…
Trong mấy năm đầu thập kỷ 70, tôi hay gặp Hoàng Công Khanh, ăn mặc giản dị, nếu không muốn nói là lam lũ với gánh đồ nghề thợ mộc trên vai. Mời được ông một tách cà phê, tôi dấu tiếng thở dài qua làn khói thuốc “Chả lẽ thế là kết thúc một đời viết kịch, viết văn, làm thơ của Hoàng Công Khanh chăng?” Còn ông, đôi mắt đau đáu “nhìn” từng câu thơ của mình năm nào, nay đã trở nên lơ đãng nhìn thiên hạ…
Nhưng không! Sức sống của một cây bút đã từng sung sức như vậy dễ đâu nửa đường đứt gánh! Năm 1975, trong không khí hào hứng thống nhất đất nước, ông cầm lại bút, khởi thảo kịch thơ Vua Đen (Mai Hắc Đế) với chủ đề lấy dân làm gốc dài tới 7.150 câu thơ (1975-1978). Đến giai đoạn đổi mới văn học, cơ chế thoáng xuất bản đã làm ông già Hoàng Công khanh hồi xuân. Mang tặng tôi cuốn sách mới xuất bản, mắt ông sáng lên khi thông báo những tin vui về vở kịch Bến nước Ngũ Bồ, vì nó mà tôi biết ông 40 năm trước. Mặc cho tác giả của nó “379” thế nào (đó là tên tập thơ mới nhất của ông, ngụ ý: ba chìm, bẩy nổi, chín lênh đênh), Bến nước Ngũ Bồ vẫn phiêu du đậu vào bao bến bờ xa lạ: Khi tôi xem vở đó ở Hà Nội thì Ban kịch miền Trung do Mai Lân đạo diễn cũng cho công diễn ở Huế. Đầu năm 1954, Bích Thuận đạo diễn và đóng vai Thị Trinh ở Sài Gòn. Đầu 1955 Bùi Khoát tổ chức Liên hiệp sinh viên Việt Nam ở Paris dàn dựng. Rồi Dương Ngọc Châu dựng ở Ý, Đỗ thế Phiệt dựng ở Bỉ. Năm 1991, nó được công diễn ở Bolsa (California) nơi tập trung đông đảo người Việt. Nhờ nhuận bút bằng đô la gửi về mà tác giả xuất bản được tập kịch tôi đang cầm trên tay. Cung phi Điểm Bích viết xong năm 1989 cũng là một thành công đáng nể của ông. Tình huống kịch xuất hiện từ nội tâm mỗi nhân vật. Lộng giả thành chân, từ yêu giả khi được trao nhiệm vụ, Điểm Bích đi đến yêu thật, một tình yêu khao khát trong sáng làm tăng sức mạnh quyến rũ của người cung phi tài sắc. Một cảnh đậm màu sắc huyền thoại: các đồng nam đồng nữ trên bức chạm cũng xuống tham gia với Điểm Bích mở cuộc “tiến công tổng lực” vào vị thiền sư trẻ, cùng với khúc hát huê tình mời trầu tình tứ, điệu chầu văn mê đắm đong đưa, điệu múa tôn giáo phồn thực của đồng nam đồng nữ. Cuộc đấu tranh giữa thiền và tục đẩy lên đến mức ma quái…
Mấy năm cuối đời, ông nặng tai, trò chuyện cùng ông rất vất vả, có lẽ vì vậy ông càng sống cô đơn hơn. Ngấp nghé tuổi 90, ông nghe đã đủ, nay là lúc thanh thản nhìn lại, vẫn cặp mắt đau đáu ấy: cuộc đời Ba Bẩy Chín của mình. Cho nên phút ra đi của ông là phút thanh thản nhất: Thày em đi dạo về tắm rửa ăn sáng xong đang ngồi đọc báo thì…
(Kính sợ một lầm lụi Hoàng Công Khanh, ghi chép của Xuân Ba, Tiền Phong cuối tuần số 18 (7/5/2010) ).
Tái bút 1: Ngày 13 tháng 5/2010, tôi nhận được tin nhắn qua mạng của nhà báo, nhà văn Trần Chiến (con ông Trần Huy Liệu), có cung cấp thêm chi tiết: “ông Trần Huy liệu làm tập Thơ văn yêu nước và Cách mạng đưa vào bài thơ ký tên ĐXK (Đoàn Xuân Kiểu), ông Trường Chinh hỏi ai đấy, mà nhiều người cứ tưởng của tôi, cứ khen hay. Ông Liệu chỉ cười, vì lúc ấy ông Khanh đang nằm trong “tù ta”. Ông cụ hồn nhiên lắm. Tù Sơn La họp, họ không mời vì ông không phải CS, cụ cứ đứng bên ngoài ngó vào bẽn lẽn. Còn đoạn ở chung cellule isolée ( phòng biệt giam) với Tô Hiệu là vì cùng bị lao. Hồi ký về tù Sơn La của cụ nói thật không có cây đào làm Tỉnh và nhiều người lúng túng lắm.” Tôi chắc chỉ viết một lần về nhà thơ họ Hoàng này, nên xin bổ xung cho đầy đủ về tính cách, nhân thân một con người, một nhà văn Hải Phòng mà tôi quý mến.
(Bài này đã đăng trên báo điện tử Hoinhavanvietnam.vn, sau lễ tang HCK đầu tháng 5 / 2010, không có đọan tái bút).
Tái bút 2: Nếu các bạn tin Cây đào Tô Hiệu là một huyền sử đẹp nhằm tôn vinh danh nhân như cây đào của hoàng đế Quang Trung cho quân phóng ngựa trạm đem về Phú Xuân tặng Ngọc Hân công chúa (sáng tạo trong kịch thơ của Trúc Đường), nay lại có thêm bằng chứng từ tư liệu do nhà văn Trần Chiến cung cấp (từ tư liệu của thân phụ nhà văn: nhà sử học Trần Huy Liệu (chung phòng biệt giam) thì tôi xin góp một câu: Nếu cuộc đời Tô Hiệu là một khu rừng nguyên sinh quý hiếm thì cây đào huyền thoại Tô Hiệu chỉ là một biểu trưng cho khu rừng ấy. Các nhà văn, nhà viết kịch cứ việc xử dụng.. Nhưng con em ta đã ở một tầm dân trí khác, cái gì của lịch sử xin trả cho lịch sử, chuyện gì có thể “giải thiêng” xin mạnh dạn giải thiêng! Sòng phẳng như vậy, chỉ có ích, không mất lòng tin của thế hệ sau. Tôi nhớ đến bài thơ Dặm về của Nguyễn Đình Tiên, suốt trên 40 năm được giới nghệ thuật cả nước coi là của nhà thơ Quang Dũng, từ khi được chứng minh không phải của Quang Dũng, thì sự nghiệp thơ ông có vì vậy mà suy suyển gì đâu! Quang Dũng càng được chứng tỏ là trung thực, kiên quyết gạt bài đó ra khỏi bản thảo Mây đầu ô (Đi tìm xuất xứ một bài thơ, Văn Nghệ số 37, 16/9/1989, Bóng mây qua đỉnh Việt, Văn Nghệ số 51, 17/12/2011).
Tôi ngỡ hoạt động nội thành của ông chủ yếu là bí mật (hồi còn ít tuổi, tôi không nhìn thấy hết những hoạt động báo chí công khai của Thành ủy Hà Nội (giai đoạn 1950-1954) trong lòng địch, chỉ cảm thấy tờ Dân Ý có khuynh hướng cảm tình với kháng chiến) hoá ra ông được phân công làm chủ bút báo Dân Ý với nhiệm vụ chống văn hoá đồi trụy. Báo hoạt động được một thời gian, rồi sở Mật thám liên bang gọi ông lên đe dọa, rồi đóng cửa báo Dân Ý. Ngay sau đó, Thành uỷ cho ra đời tờ Niềm Vui (nhật báo công khai) tiếp nối nhiệm vụ của Dân Ý mà Hoàng Công Khanh lại là biên tập viên chủ chốt (đồng chí Nguyễn Bắc, người lãnh đạo các hoạt động văn hoá nội thành Hà Nội còn giữ được toàn bộ báo Dân Ý và một số tờ Niềm Vui để đưa vào Tổng tập lịch sử báo chí Việt Nam). Đó là nhiệm vụ của ông với tổ chức, còn với chúng tôi, những bạn văn đàn em của ông coi giai đoạn này của ông là “giai đoạn tiểu thuyết”, bởi có đến 6 cuốn tiểu thuyết của ông được xuất bản trong 4 năm: Mối tình đầu, Yêu chỉ một lần, Mẹ tôi sớm biệt một chiều thu (NXB Kuy Sơn 1951,1952,1953) Trại Tân Bồi, Bạn đường, Éo le (các NXB Vỡ đất, Chân lý, Thống nhất 1953,1954).
Theo các nhà văn đi kháng chiến về, ông là một cây bút “thường thường bậc trung”, bởi khi đó ông đã ra cuốn tiểu thuyết nào đâu! Nhất là vở kịch thơ Bến nước Ngũ Bồ mà chúng tôi đánh giá cao về giá trị văn học (cả về nội tâm và tính cách nhân vật) về sự công diễn phổ biến ở khá nhiều nơi có cộng đồng người Việt sinh sống, vì nội dung yêu nước được thể hiện bằng lời thơ đẹp, trong sáng, cảm khái thu hút được sự đồng thuận của nhiều tầng lớp khán giả. Có thể xem như đến sau năm 1950, ông mới viết văn như một nhà văn chuyên nghiệp.
Sau 1954 là “giai đoạn làm báo” của ông, ông làm chủ bút báo Nói Thật, viết bài cộng tác với báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính và các báo khác. Chính ở giai đoạn này, ông đã bị tai nạn nghề nghiệp do dịch một tản văn của Lỗ Tấn với nội dung nghi vấn phụ họa Nhân văn Giai phẩm…
Trong mấy năm đầu thập kỷ 70, tôi hay gặp Hoàng Công Khanh, ăn mặc giản dị, nếu không muốn nói là lam lũ với gánh đồ nghề thợ mộc trên vai. Mời được ông một tách cà phê, tôi dấu tiếng thở dài qua làn khói thuốc “Chả lẽ thế là kết thúc một đời viết kịch, viết văn, làm thơ của Hoàng Công Khanh chăng?” Còn ông, đôi mắt đau đáu “nhìn” từng câu thơ của mình năm nào, nay đã trở nên lơ đãng nhìn thiên hạ…
Nhưng không! Sức sống của một cây bút đã từng sung sức như vậy dễ đâu nửa đường đứt gánh! Năm 1975, trong không khí hào hứng thống nhất đất nước, ông cầm lại bút, khởi thảo kịch thơ Vua Đen (Mai Hắc Đế) với chủ đề lấy dân làm gốc dài tới 7.150 câu thơ (1975-1978). Đến giai đoạn đổi mới văn học, cơ chế thoáng xuất bản đã làm ông già Hoàng Công khanh hồi xuân. Mang tặng tôi cuốn sách mới xuất bản, mắt ông sáng lên khi thông báo những tin vui về vở kịch Bến nước Ngũ Bồ, vì nó mà tôi biết ông 40 năm trước. Mặc cho tác giả của nó “379” thế nào (đó là tên tập thơ mới nhất của ông, ngụ ý: ba chìm, bẩy nổi, chín lênh đênh), Bến nước Ngũ Bồ vẫn phiêu du đậu vào bao bến bờ xa lạ: Khi tôi xem vở đó ở Hà Nội thì Ban kịch miền Trung do Mai Lân đạo diễn cũng cho công diễn ở Huế. Đầu năm 1954, Bích Thuận đạo diễn và đóng vai Thị Trinh ở Sài Gòn. Đầu 1955 Bùi Khoát tổ chức Liên hiệp sinh viên Việt Nam ở Paris dàn dựng. Rồi Dương Ngọc Châu dựng ở Ý, Đỗ thế Phiệt dựng ở Bỉ. Năm 1991, nó được công diễn ở Bolsa (California) nơi tập trung đông đảo người Việt. Nhờ nhuận bút bằng đô la gửi về mà tác giả xuất bản được tập kịch tôi đang cầm trên tay. Cung phi Điểm Bích viết xong năm 1989 cũng là một thành công đáng nể của ông. Tình huống kịch xuất hiện từ nội tâm mỗi nhân vật. Lộng giả thành chân, từ yêu giả khi được trao nhiệm vụ, Điểm Bích đi đến yêu thật, một tình yêu khao khát trong sáng làm tăng sức mạnh quyến rũ của người cung phi tài sắc. Một cảnh đậm màu sắc huyền thoại: các đồng nam đồng nữ trên bức chạm cũng xuống tham gia với Điểm Bích mở cuộc “tiến công tổng lực” vào vị thiền sư trẻ, cùng với khúc hát huê tình mời trầu tình tứ, điệu chầu văn mê đắm đong đưa, điệu múa tôn giáo phồn thực của đồng nam đồng nữ. Cuộc đấu tranh giữa thiền và tục đẩy lên đến mức ma quái…
Mấy năm cuối đời, ông nặng tai, trò chuyện cùng ông rất vất vả, có lẽ vì vậy ông càng sống cô đơn hơn. Ngấp nghé tuổi 90, ông nghe đã đủ, nay là lúc thanh thản nhìn lại, vẫn cặp mắt đau đáu ấy: cuộc đời Ba Bẩy Chín của mình. Cho nên phút ra đi của ông là phút thanh thản nhất: Thày em đi dạo về tắm rửa ăn sáng xong đang ngồi đọc báo thì…
(Kính sợ một lầm lụi Hoàng Công Khanh, ghi chép của Xuân Ba, Tiền Phong cuối tuần số 18 (7/5/2010) ).
Tái bút 1: Ngày 13 tháng 5/2010, tôi nhận được tin nhắn qua mạng của nhà báo, nhà văn Trần Chiến (con ông Trần Huy Liệu), có cung cấp thêm chi tiết: “ông Trần Huy liệu làm tập Thơ văn yêu nước và Cách mạng đưa vào bài thơ ký tên ĐXK (Đoàn Xuân Kiểu), ông Trường Chinh hỏi ai đấy, mà nhiều người cứ tưởng của tôi, cứ khen hay. Ông Liệu chỉ cười, vì lúc ấy ông Khanh đang nằm trong “tù ta”. Ông cụ hồn nhiên lắm. Tù Sơn La họp, họ không mời vì ông không phải CS, cụ cứ đứng bên ngoài ngó vào bẽn lẽn. Còn đoạn ở chung cellule isolée ( phòng biệt giam) với Tô Hiệu là vì cùng bị lao. Hồi ký về tù Sơn La của cụ nói thật không có cây đào làm Tỉnh và nhiều người lúng túng lắm.” Tôi chắc chỉ viết một lần về nhà thơ họ Hoàng này, nên xin bổ xung cho đầy đủ về tính cách, nhân thân một con người, một nhà văn Hải Phòng mà tôi quý mến.
(Bài này đã đăng trên báo điện tử Hoinhavanvietnam.vn, sau lễ tang HCK đầu tháng 5 / 2010, không có đọan tái bút).
Tái bút 2: Nếu các bạn tin Cây đào Tô Hiệu là một huyền sử đẹp nhằm tôn vinh danh nhân như cây đào của hoàng đế Quang Trung cho quân phóng ngựa trạm đem về Phú Xuân tặng Ngọc Hân công chúa (sáng tạo trong kịch thơ của Trúc Đường), nay lại có thêm bằng chứng từ tư liệu do nhà văn Trần Chiến cung cấp (từ tư liệu của thân phụ nhà văn: nhà sử học Trần Huy Liệu (chung phòng biệt giam) thì tôi xin góp một câu: Nếu cuộc đời Tô Hiệu là một khu rừng nguyên sinh quý hiếm thì cây đào huyền thoại Tô Hiệu chỉ là một biểu trưng cho khu rừng ấy. Các nhà văn, nhà viết kịch cứ việc xử dụng.. Nhưng con em ta đã ở một tầm dân trí khác, cái gì của lịch sử xin trả cho lịch sử, chuyện gì có thể “giải thiêng” xin mạnh dạn giải thiêng! Sòng phẳng như vậy, chỉ có ích, không mất lòng tin của thế hệ sau. Tôi nhớ đến bài thơ Dặm về của Nguyễn Đình Tiên, suốt trên 40 năm được giới nghệ thuật cả nước coi là của nhà thơ Quang Dũng, từ khi được chứng minh không phải của Quang Dũng, thì sự nghiệp thơ ông có vì vậy mà suy suyển gì đâu! Quang Dũng càng được chứng tỏ là trung thực, kiên quyết gạt bài đó ra khỏi bản thảo Mây đầu ô (Đi tìm xuất xứ một bài thơ, Văn Nghệ số 37, 16/9/1989, Bóng mây qua đỉnh Việt, Văn Nghệ số 51, 17/12/2011).
8/3/2012
❧ ❀ ❧
Nguồn: Trang mạng của Lê Thiếu Nhơn.
Subscribe to:
Posts (Atom)