Showing posts with label Đặc sản. Show all posts
Showing posts with label Đặc sản. Show all posts

Nghề nhuộm thâm ở Xuân-Cầu

Saturday, January 29, 2022

Nghề nhuộm thâm ở Xuân-Cầu

Một người ở Xuân-Cầu lai cảo
Đăng trong Annam Tạp chí - Số 1 năm 1926

Bánh Xuân Cầu, nay còn đâu! - Bảo Anh

Monday, February 29, 2016
_ Bảo Anh _


(BĐT) - “Ăn chiếc bánh Xuân Cầu rưới mật, cái ngon ngọt có ý triền miên hơn, y như ta được đọc hết bài “Trường hận ca” của Bạch Lạc Thiên mà ta vẫn còn phảng phất thấy đâu đây cái buồn lả lướt của đức vua Đường thương nhớ người đẹp họ Dương”
(Món ngon Hà Nội – Vũ Bằng).

Vừa mê ẩm thực, lại vừa mê thơ Đường, nên từ khi đọc đoạn văn… ngon mê ly ấy, tôi đã quyết tìm hiểu về món bánh này, thứ bánh đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền ở vùng đồng quê Bắc Bộ xưa. Cụ Vũ Ngọc Phan trong cuốn sách “Những năm tháng ấy”, với phong cách học thuật, miêu tả khá ngắn gọn: “Bánh huê Cầu là thứ bánh làm bằng bột nếp, vuông gần bằng ba ngón tay, màu vàng, xanh và đỏ, bỏ vào chảo mỡ đang sôi, bánh nở cong rất đẹp. Bánh huê Cầu do làng Xuân Cầu làm, Xuân Cầu thuộc Văn Giang, trước thuộc Bắc Ninh, nay thuộc Hưng Yên. Nhiều nhà sáng mồng một mới đem rán bánh. Bánh nở nhiều thì năm mới làm ăn thịnh vượng”.

Còn theo các bậc cao niên trong làng Xuân Cầu, thì bánh Xuân Cầu, hay Huê Cầu còn có tên dân dã là bánh mỡ (có lẽ do được rán bằng mỡ). Gia tộc Nguyễn Văn ở làng từng nổi danh khắp xứ nhờ nghề làm bánh này. Sau bao thăng trầm, nay nghề đã mai một, dù cách thức làm bánh dường như không quá phức tạp. Khâu đầu tiên là chiết xuất phẩm màu từ các loại hoa lá lành hiền, phổ biến ở làng quê: hoa hoè cho màu vàng tươi sáng, quả gấc cho màu đỏ thắm, lá gừng cho màu xanh mát mắt và rau dền đỏ đem lại màu hồng hoa đào... Gạo nếp ngâm kỹ, đãi sạch, để ráo rồi đem nhuộm gạo mỗi thứ một màu; đổ vào riêng từng góc chõ.

Đồ chín, đem xôi giã nhuyễn, dùng con lăn cán mỏng, cắt thành từng miếng vuông tròn tùy ý, nhưng chỉ nho nhỏ xinh xinh cỡ hai đầu ngón tay thôi, vì khi rán mỡ, bánh sẽ nở phồng. Bí quyết để bánh nở đều, không bị “nổ” xấu là gia giảm thêm đậu xanh hoặc gạo tẻ ngâm kỹ, đồ cùng xôi nếp. Sau khi được đem phơi khô giòn, cất kỹ chỗ khô ráo.

Trước khi ăn, đem bánh rán trong chảo ngập mỡ. Bánh càng nở tròn đều, màu sắc tươi tắn thì gia chủ càng phấn khởi, tin tưởng vào một năm mới hanh thông thuận lợi đang mở ra trước mắt. Vì thế mà người sành ăn đất Bắc dùng bánh Xuân Cầu vừa là thưởng thức một món ngon quê hương, vừa là muốn xem một quẻ bói vui về năm mới.

Nhưng bánh rán giòn tan rồi cũng chưa được ăn ngay. Trước khi mời khách thưởng thức, gia chủ sẽ đem nước mật nấu với thảo quả tưới đều lên bánh thành những đường chỉ màu nâu đẹp mắt. Chiếc bánh lúc ấy mới đủ vị giòn tan, bùi, béo, ngọt…

Cũng nên nói thêm rằng, quê hương của chiếc bánh Xuân Cầu ý nhị ấy là một làng khoa bảng, với nhiều vị đại khoa thành danh. Xuân Cầu cũng là chiếc nôi sản sinh ra nhiều nhân sĩ, trí thức thời hiện đại. Đó là họa - sĩ - cha Tô Ngọc Vân; họa - sĩ - con Tô Ngọc Thành; nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà cách mạng Tô Hiệu, nhà cách mạng Lê Văn Lương…

Xuân Cầu cũng từng nổi tiếng với nghề nhuộm vải thâm, đã có tự ngàn năm trước. Vải thâm Xuân Cầu được nhuộm bằng củ nâu, đun trong nước lá sòi (một loại cây thân gỗ mọc hoang), có khi dùng lá bàng, hoặc hạt dền; được dận bùn rồi mới giặt, phơi. Tấm vải nhuộm kiểu ấy dai, bền, không phai màu dẫu gội nắng phơi sương cùng người nông dân tần tảo.

Những đặc sản ấy đã thất truyền cùng những người muôn năm cũ, tiếc lắm thay!

Bảo Anh 13/02/2016


Miếng ngon Hà Nội - Phần 5: BÁNH KHOÁI + BÁNH XUÂN CẦU



BÁNH XUÂN CẦU: 3:50

Bánh giầy Gầu

Thursday, July 29, 2010



Loại bánh giày ngon nổi tiếng của làng Gàu (xã Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên).
Trên cơ sở của loại bánh giày truyền thống, người làng Gàu đã sáng tạo ra chiếc bánh giày với hương vị đặc trưng: bánh giày có nhân.
Vỏ bánh được làm từ chính gạo nếp cái hoa vàng trồng trên đất làng Gàu, được vo kỹ và ngâm bằng nước giếng làng Gàu rồi đồ chín đem giã cho thật mịn. Nhân bánh, nếu là nhân ngọt thì được làm bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, thổi chín đánh nhuyễn nắm thành nắm nhỏ trộn với đường, nếu là mặn thì bằng thịt nạc băm nhuyễn xáo chín cùng các loại gia vị.

Mỗi dịp lễ tết đến, bánh giày luôn có mặt trang trọng trên bàn thờ tổ tiên trong những gia đình người dân làng Gàu, thể hiện một nét đẹp văn hóa đáng gìn giữ.



Bánh giầy


Bánh giầy (còn được viết là bánh giày, bánh dầy hay bánh dày) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở. Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn.
Bánh có thể được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch (ngày giổ tổ Vua Hùng).
Cùng với bánh chưng, bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh chưng hình vuông, màu xanh tượng trưng trái Đất, âm. Bánh giầy hình tròn, màu trắng tượng trưng Trời dương, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng.
Bánh chưng âm giành cho Mẹ, bánh giầy dương giành cho Cha. Bánh chưng bánh giầy là thức ăn sang trọng, cao quý nhất để cúng Tổ tiên, thể hiện tấm lòng uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn sinh thành, dưỡng dục to lớn, bao la như trời đất của cha mẹ. Tuy nhiên, GS Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vậtâm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam. [1]
Các dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam, như H'Mong, Dao, Mường cũng có bánh dày; tuy rằng họ không gói bánh chưng. Thay cho bánh chưng, họ gói bánh ú hay bánh tét, loại bánh hình tròn dài, mà theo giải thích của Trần Quốc Vượng là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng phồn thực.

Người Nhật cũng có món bánh tương tự như bánh giầy mà họ gọi là "mochi".

Sự tích
Bánh dày có liên quan đến truyền thuyết Lang Liêu, xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6. Trong đó vị hoàng tử Lang Liêu đã được báo mộng để làm ra chiếc bánh dày hình tròn, tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất, dùng để dâng cho vua cha trong ngày đầu xuân. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về:


Cách làm
Người ta chọn loại gạo nếp ngon, đồ kỹ (có thể đồ hai lượt), rồi giã trong cối tới khi có được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc, thường chỉ nam thanh niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể dùng chút mỡ lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính, nhưng óc lợn hấp chín được sử dụng cho mục đích này nhiều hơn.


Sử dụng và bảo quản
Bánh dày loại phổ biến nhất là loại bánh dày trắng không nhân, nhỏ bằng lòng bàn tay, nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ 2 cái bánh thì thành một cặp. Người mua có thể chọn mua một cái hay cả cặp và thường kẹp ăn chung với giò lụa, giò bò, chả quế, ruốc,...
Trong các địa phương làm bánh giày, thì bánh giày Quán Gánh, bánh giày làng Gàu là nổi tiếng nhất.
Bánh dày Quán Gánh (của làng Thượng Đình, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây - nay đã sáp nhập vào thành phố Hà Nội), từ xưa làm ra đã được bán trong các quán nước ở dọc phố Quán Gánh cách đây đã 400 năm cho khách vãng lai thưởng thức và mua về làm quà biếu người thân hoặc thắp hương tổ tiên trong ngày tuần rằm. Ngày nay, phố Quán Gánh không còn giới hạn trong phạm vi 1 cây số trên đường quốc lộ 1A nữa mà dọc từ hai bên đường từ làng Yên Phú (xã Liên Ninh, huyện Thanh Trì) cho đến thị trấn Thường Tín dài gần 4km, đã có trên 200 quầy đại lý bán đặc sản bánh giày Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm 5 bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong lá chuối tươi.
Các loại bánh của nông thôn miền Bắc Việt Nam kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc lại gạo, hoặc ôi thiu.
Với loại bánh dày của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như cái bánh đa. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than như bánh tổ.




Thơm ngon bánh dầy Gầu


Sở dĩ gọi bánh dầy Gầu, bởi quê tôi trước đây là làng Gầu. Bánh dầy Gầu ngon có tiếng, có mặt ở các lễ hội, đám cưới các tỉnh, thành phố phía Bắc và trong lễ khởi công xây dựng cầu Yên Lệnh bắc qua sông Hồng, thuộc địa bàn tỉnh Hưng Yên.

Buổi chiều, tôi đến nhà ông Ý. Trước bà con làng xóm gọi là ông giáo Ý, bởi ông có hàng chục năm đứng trên bục giảng. Gia đình ông làm bánh dầy ngon có tiếng ở xã Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ông Ý hỏi tôi: “Chú có dự khởi công xây dựng cầu Yên Lệnh không?”. Tôi cười, ông giải thích: Bánh dầy tiếp khách hôm ấy là của gia đình tôi làm đấy. Hồi đó làm hai loại bánh dầy, loại làm quà là bánh ngọt cho vào hộp nhựa; loại ăn “tại trận” là bánh mặn. Cả nhà phải làm suốt đêm để kịp thời gian giao bánh.

Tôi hỏi:

- Mỗi mẻ nấu được bao nhiêu cân xôi?

Ông cười:

- Hơn chục cân thôi, nhiều bê sao được!

Dừng một lát, ông giãi bày: Làm nghề bánh dầy cực nhọc lắm, thức cả đêm để giã, mỏi rời cả tay, cố làm cho kịp giờ để đưa hàng cho khách, nên sức làm bánh dầy mấy mà kiệt. Giờ tôi để các cháu làm. Chú có làm bánh dầy loại ngon, tôi bảo các cháu chọn gạo nếp cái hoa vàng, chọn đỗ tiêu ngon (đỗ xanh hạt nhỏ) để làm.

Tuy nhiên trong câu chuyện, ông vẫn cho rằng, làm nghề bánh dầy kiếm ra tiền. Không có nghề bánh dầy, tiền đâu để mua xe gắn máy, làm nhà khang trang như thế này.

- Bánh dầy Gầu trước đây có vẻ thơm ngon hơn bây giờ?

Ông cười, giải thích:

- Đúng thôi, xuất phát từ hai phía. Phía người mua không chấp nhận giá thành cao, buộc người bán (làm bánh dầy) phải nghĩ ra mọi cách để đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Thế là họ làm bánh dầy bằng gạo nếp pha tẻ, có khi pha cả tấm gạo dẻo để lấy lãi. Ngày nhà tôi làm phải giã bằng tay, làm xong mỏi rã cả người. Chứ bây giờ họ giã bánh dầy bằng máy, gạo nếp lẫn tẻ, ngon sao được.

- Làm bánh dầy mặn với bánh dầy ngọt, bánh nào phức tạp hơn?

- Tất nhiên là bánh dầy mặn phức tạp hơn nhiều. Để có bánh ngon, phải chọn gạo nếp cái hoa vàng, đỗ xanh hạt tiêu, thịt nạc, mắm ngon, cay cà cuống… sao cho hợp khẩu vị. Ngày xưa, thiếu chất béo, làm bánh dầy mặn bằng thịt gáy lợn, mỡ dầy, nay làm mỡ đó, chả ai ăn, phải làm bằng thịt nạc.

Ngày trước, quê tôi chỉ có bốn gia đình làm bánh dầy, đó là nhà cụ Tế ở thôn Hạ, cụ Nhinh, cụ Ngẫu ở thôn Nguyễn, cụ Toàn ở thôn Vàng. Nay do nhu cầu của khách hàng, nhất là vào mùa cưới, những tháng cuối năm, khách thập phương đến đặt hàng nhiều nên cả xã có đến vài chục gia đình làm bánh dầy. Nhà ông Hợi, cậu con trai có ngày làm đến vài tấn bánh dầy, gia đình phải mua xe vận tải loại nhỏ để đi giao hàng.

Ông Ý cho tôi xem bộ đồ nghề làm bánh dầy đã cũ, giảng giải: chày giã bánh dầy phải bịt bằng lá dừa, bôi mỡ nước cho trơn; buồm để giã bánh dầy bằng cói, rộng 80x80cm, hỏng buồm, phải ra phố Hàng Chiếu, Hà Nội mới có để mua.

Được biết, trước đây nhà ông Ý chuyên nấu xôi bằng củi khô, chõ sành, bánh dầy thơm ngon, được khách hàng tín nhiệm. Giờ họ nấu xôi bằng xoong gang, bếp than. Có điều, đi ăn cỗ cưới, rượu vào, ăn bánh dầy cảm thấy được. Cách đây vài năm, mỗi khi Tết đến, UBND xã lại đến nhà ông Ý đặt làm bánh dầy để đi biếu cán bộ tỉnh, cán bộ huyện, mọi người ăn đều khen ngon. “Làm bánh dầy ngon thì lãi ít nhưng tôi vẫn làm để giữ cái tiếng bánh dầy Gầu” - ông Ý nói vậy.

Bánh dầy Gầu có vị thơm ngon đặc biệt, được khách hàng đón nhận từ gần trăm năm nay, nhưng đến nay chưa có thương hiệu trên thị trường. Để bánh dầy Gầu vang xa, bay xa, cần có một chiến lược quảng bá và tất nhiên, khi làm bánh phải chọn gạo nếp, đỗ xanh thật ngon, có như vậy, bánh dầy Gầu mới trở thành thương hiệu, mới được khách hàng xa gần đón nhận.






 ❧ ❀ ❧





Các bài viết sưu tầm trên mạng


  1. Bánh giầy - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
  2. Bánh giày - VietGle.
  3. "Bánh giầy" hay "bánh dầy"? - H.HG., 16/04/2008, Báo điện tử Tuổi Trẻ Online.
  4. Bánh chưng, bánh giầy là... bánh gì ? - Nguyễn Dư, 9/2007, Chim Việt Cành Nam.
  5. Ý nghĩa đích thực của bánh dầy, bánh chưng - Nguyễn Xuân Quang, 11/02/2011, http://bacsinguyenxuanquang.wordpress.com.
  6. Triết lý bánh chưng - bánh dày - Giáo sư Trần Quốc Vượng, danangpt.vnn.vn.
  7. Bánh dầy - Hạ Lam, 29/07/2007, Mùi vị - Ẩm thực Việt Nam.
  8. Bánh dầy giò - Bếp Lọ Lem's Blog, 28/02/2009.

  1. Bánh dày làng Gàu - VietGle.
  2. Bánh dày làng Gàu - Hưng Yên - 03/06/2005, Báo điện tử Tuổi Trẻ Online.
  3. Bánh giầy làng Gàu - món quà dâng vua Tổ - NGUYỄN DỊU, 22/04/2010, Báo điện tử Tuổi Trẻ Online.
  4. Thơm ngon bánh dầy Gầu - VĂN HƯỚNG, 25/09/2008, Báo điện tử QDND VN.
  5. Bánh dày làng Gàu, nét đẹp văn hóa ẩm thực Hưng Yên - 20/01/2011, Vina Booking.



 ❧ ❀ ❧


TOP TOP

Bánh bừa

Monday, July 26, 2010



Bánh bừa
Bánh răng bừa còn được gọi là bánh lá hay Bánh tẻ, là thứ bánh truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc BộThanh Hóa, Việt Nam. Bánh được làm từ bột gạo tẻ, gói ngoài bằng lá dong và được luộc cho chín.
Đây là loại bánh truyền thống để cúng vào ngày rằm, ngày giỗ và Tết Nguyên đán.
Mỗi địa phương có cách làm bánh tẻ riêng, ít nhiều khác nhau. Có thể kể ra một số loại bánh tẻ nổi tiếng như bánh tẻ làng Chờ (Yên Phong, Bắc Ninh), bánh tẻ Phú Nhi (Sơn Tây, Hà Tây), bánh tẻ ở Văn Giang, Hưng Yên (hay còn gọi là bánh răng bừa), bánh lá ở Khoái Châu, Hưng Yên. Ở Mỹ Đức, Hà Tây cũng có bánh tẻ nhưng ít nổi tiếng hơn.

Bánh răng bừa là tên thường gọi ở thôn Bến, xã Phụng Công, huyện Văn Giang, Hưng Yên. Loại bánh này có từ xa xưa. Cái tên xuất xứ là do hình dáng giống cái răng bừa vẫn dùng để bừa ruộng.

Bánh bừa còn nguyên vỏBánh còn nguyên vỏ
Bánh bừa đã bóc vỏ để lộ lớp áo bánh làm từ bột tẻ.Bánh đã bóc vỏ.
Xem:

  1. Bánh bừa
  2. Bánh bừa Phụng Công
  3. Các bài viết sưu tầm trên mạng



Bánh Răng Bừa món ngon dân dã - Truyền hình Hưng Yên - HYTV, 16/11/2020.

Bánh bừa


1. Nguyên liệu
Nguyên liệu để làm bánh tẻ gồm gạo tẻ, thịt lợn vai, mộc nhĩ, lá dong (ở Sơn Tây dùng cả lá chuối). Một số địa phương có thể cho thêm lạc, nấm hương. Bánh được làm từ gạo tám thơm thì sẽ ngon hơn.

2. Cách làm
Mỗi địa phương có cách làm riêng, song đều phải tiến hành xay gạo tẻ theo cách xay ướt thành bột nước loãng.

Ở Hà Tây (cả Sơn Tây và Mỹ Đức) sau khi xay thành bột nước, thêm nước với tỷ lệ 1/1, khuấy đều và ngâm, ngâm bột khoảng thời gian 3-4 ngày vào mùa hè; 4-5 ngày vào mùa đông, thời gian ngâm phải thay nước hàng ngày (gạn bỏ nước cũ, thay bằng nước mới), mỗi lần thay nước phải khuấy đều bột, khi đủ thời gian ngâm, bột được múc ra rồi cho thêm vài thìa cà phê muối, thêm nước khuấy đều sau đó gạn nước (để khử chua). Còn ở các địa phương khác thì không ngâm như vậy, ở Hưng Yên người ta sau khi xay bột thì đem bột cho vào nồi quấy chín 50% rồi lại cho vào máy đánh nhuyễn thêm cho mẻ bột vừa sánh, vừa dẻo lại dai tấm bánh.

Sau đó, thứ bột nước này phải được đun lên để cho đặc lại và có độ dính như keo. Ở thôn quê người ta xay bột bằng cối đá, bột nước được đun nhỏ lửa, vừa đun vừa phải liên tục khuấy đảo bằng cả hai tay cho bột mềm, mịn, tránh vón cục và đặc biệt là bột không được chín hoặc khê, công đoạn này người ta gọi là "giáo bột". Khâu giáo bột cực kỳ quan trọng trong quá trình làm bánh, bánh có ngon hay không là nhờ vào chất lượng bột được giáo, và mỗi vùng lại có những bí quyết khác nhau để giáo bột, do đó mùi vị bánh cũng khác nhau giữa các vùng.

Sau khi bột đã được, tiếp đến là công đoạn làm nhân bánh. Thịt lợn được băm nhỏ cùng với hành khô. Mộc nhĩ (nấm hương) cũng được thái chỉ, ướp gia vi trộn đều với nhau rồi đem xào chín dùng để làm nhân bánh. Cũng có thể cho thêm lạc để mùi vị bánh bùi hơn.

Tiếp theo, người ta lấy một lượng vừa phải (tùy theo từng vùng) thứ bột cô đặc đó đặt lên một hoặc hai tờ lá dong công đoạn này gọi là "ra bột". Lấy hỗn hợp thịt đặt lên lớp bột và ấn sâu xuống để bột phủ lên thịt. Sau đó, cuốn lá ngoài bánh, thường là theo hình thuôn dài.


Tại Sơn Tây người ta dùng cả lá chuối để gói bánh nên bánh có màu nâu của lá chuối, các vùng còn lại chỉ dùng lá dong gói bánh nên bánh có màu xanh. Thường bánh chỉ nhỉnh hơn hai ngón tay (ở Mỹ Đức và Văn Giang), nhưng bánh tẻ ở Sơn Tây lại dài đến 30 cm và khá lớn, bánh tẻ ở làng Chờ thì nhỏ hơn bánh tẻ Sơn Tây một chút.

Bánh được buộc vừa phải không chặt quá bằng lạt xé nhỏ. Ở vùng Mỹ Đức, Hà Tây, người ta kẹp một đầu sợi lạt vào trong lá gói bánh phía một đầu của bánh rồi cuốn lạt chặt vòng quanh bánh xuống tới đầu còn lại. Trước đây, khi vùng bãi ven sông Hồng tại Hưng Yên còn trồng nhiều cây đay, cây chuối thì người ta còn buộc bánh bằng sợi đay hay dây chuối khô tước nhỏ. Nhưng nay ở Văn Giang họ buộc bằng dây ny-lon cho nhanh và tiện. Còn các vùng khác vẫn giữ nguyên cách buộc bánh bằng lạt.

Công đoạn cuối cùng của làm bánh tẻ là luộc bánh. Nước sạch đun đến sôi thì cho bánh vào luộc tiếp ở độ sôi vừa phải trong vòng 20 phút thì bánh sẽ chín.

Ỏ một số vùng khác người ta không luộc bánh mà hấp bánh tới chín, xếp bánh vào một cái chõ, xếp đều và tạo khe hở cho hơi nóng luồn qua được rồi đem đun sôi, hơi nóng của nước sôi sẽ làm chín bánh.


3. Thưởng thức
Bánh tẻ chấm với nước mắm rắc hạt tiêu xay hoặc chấm với tương. Ở một số nơi thực khách còn dùng thêm món chả gà và một ít dầu cà cuống cho vào nước mắm để tăng thêm hương vị của món bánh.

Ngày trước, chỉ vào dịp ngày rằm, ngày giỗ và Tết Nguyên đán người ta mới làm bánh tẻ để cúng. Ngày nay, có vùng làm bánh tẻ bán quanh năm. Cũng có vùng chỉ làm nếu được người ta đến đặt làm.


  • Cận cảnh nghề làm bánh răng bừa ở Văn Giang - 26/3/3012, Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên.





  •  ❧ ❀ ❧



    Bánh bừa Phụng Công



    Video: Đặc sản bánh cuốn, bánh răng bừa ở Văn Giang
    Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên

    Người dân làng Bến, Phụng Công từ bao đời nay đã quen với nghề làm bánh tẻ. Hầu hết những người dân làm nghề nông ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ ai cũng biết làm loại bánh này, nhưng để làm được những chiếc bánh ngon tuyệt thì chỉ có ở Phụng Công. Và bánh răng bừa là đặc sản ẩm thực của làng quê Văn Giang.

    Bánh tẻ hay bánh răng bừa - tên bánh nghe thật dân dã. Tên bánh gắn liền với nền văn minh nông nghiệp lúa nước của ông cha ta. Hình dáng chiếc bánh nhỏ nhắn y như cái răng bừa vậy. Từ lâu nay, bánh tẻ đã trở thành thương hiệu nổi tiếng của người Phụng Công, mang đậm hương vị mộc mạc của làng quê Việt Nam.


    Loại bánh… trăm tuổi

    Đến đầu ngõ, chỉ cần hỏi thăm đến gia đình nào làm bánh tẻ ngon nhất, từ người già đến trẻ nhỏ đều sẽ dẫn bạn đến nhà Túc - Nguyệt. Bước chân vào sân gạch, trước mắt chúng tôi là cả một cơ man lá dong đang được hong trên dây, nào gạo, nào bánh… nhiều vô kể.

    Bánh tẻ Phụng Công là loại bánh ngon nổi tiếng từ trong ra ngoài làng. Với hơn 10 lao động làm bánh thoăn thoắt, những chiếc bánh xinh xắn đều tăm tắp hình răng bừa đầy dần lên trông thật hấp dẫn.

    Khi hỏi ông chủ làm bánh, bí quyết làm bánh có từ bao giờ, ai truyền lại cho ông? Ông cũng không nhớ nghề làm bánh của làng có từ khi nào. Khi lên 7 tuổi ông đã biết làm, cha ông cũng vậy, hết thế hệ này đến thế hệ khác. Nghề làm bánh tẻ được lưu truyền từ đời này sang đời khác, thời các cụ kỵ ông cũng không biết nó có tự bao giờ. Và cái tên “bánh răng bừa” cũng ngần ấy tuổi.

    Bánh tẻ được làm từ gạo tẻ, hình dáng chiếc bánh giống như chiếc răng bừa của người nông dân dùng để bừa đất ruộng gieo trồng lúa. Và cái tên bánh răng bừa đã được người dân Phụng Công gọi với bao niềm tự hào.

    Vào các dịp lễ, Tết những nhà làm bánh chuyên nghiệp phục vụ suốt 24 tiếng, không có thời gian nghỉ, người có nhu cầu mua bánh răng bừa phải đặt mua từ hôm trước. Có hàng chục người làm bánh, mỗi người làm một công đoạn. Nhà ông ai cũng có thể làm bánh, trẻ nhỏ thì cắt cọng lá dong, buộc bánh; thanh niên thì dáo bột, phụ nữ gói bánh.

    Ngày nhiều nhất nhà ông gói tới 7.000 chiếc bánh, khoảng 25 – 30 kg gạo. Ông Túc tâm sự: “Người dân ở làng tuy chưa giàu về nghề này song cũng đủ sống. Điều quan trọng hơn đó là việc duy trì và gìn giữ món ăn ẩm thực của cha ông để lại. Tôi tin rằng, bánh răng bừa sẽ được truyền tụng từ đời này sang đời khác và nó sẽ không hề bị mai một hay mất đi hương vị đặc sắc của làng quê Việt Nam”.

    Bánh là sự kết tinh từ những sản phẩm của đồng quê. Bánh răng bừa được làm từ gạo tẻ, thịt lợn, hành khô, mộc nhĩ và gói bằng lá dong. Lá dong làm bánh phải là loại lá dong ta, xanh mướt, có như vậy cùi bánh mới xanh trong. Lá được cắt cọng, rửa sạch, sau đó mang hong trên dây phơi cho ráo nước và lá tái mềm qua ánh nắng mặt trời.

    Gạo là chất liệu quan trọng làm nên thương hiệu bánh tẻ Phụng Công. Gạo phải là loại tẻ thơm, phơi già nắng, để khi làm bánh phải thơm, dẻo. Trước khi làm bánh, phải ngâm gạo với nước mưa tinh khiết trong khoảng 3 giờ cho gạo mềm ra, sau đó vớt lên rá để ráo nước, mang xay kèm với nước vôi trong và muối phụ gia phốt pha (thay hàn the).

    Công đoạn dáo bột là quan trọng nhất. Người dáo bột phải là người có đôi tay khỏe mạnh, dẻo dai nhưng cũng phải thật khéo léo. Bởi đôi tay ấy phải đủ mạnh, đủ khéo để dùng được chiếc đũa cả bằng tre thật to quấy nồi bột, sao cho bột đạt được độ sánh, dẻo, thơm mà không bị vón hòn, bị bén nồi hay mất đi màu trắng trong của bột gạo mà vẫn không bị chín bột. Bếp đun bột luôn giữ lửa to, để khi bột dáo lên vừa dẻo lại vừa nước, vị vừa đậm, không quá nát. Nếu đun kỹ, bột sẽ rắn, chín trước khi gói và luộc thì bánh sẽ mất ngon. Sau khi dáo bột xong, lấy bột ra từng chiếc mâm nhôm để bay hơi chút xíu rồi bắt tay vào gói bánh.

    Nhân bánh được làm bằng thịt lợn, nhưng phải là thịt nạc vai. Thịt được thái nhỏ hình con chì đều nhau. Mộc nhĩ ngâm nở to, cắt gốc, thái nhỏ. Hành củ được chọn làm nhân bánh là những củ hành mẩy, chắc… cộng với loại hạt tiêu sọ. Tất cả được trộn lẫn với nhau, thêm chút nước mắm thơm lừng, bột ngọt để dậy mùi, mang đun lên chín tới. Nồi nhân bánh thật hấp dẫn với mùi béo ngậy của thịt lợn, mùi thơm thơm, cay cay của hạt tiêu quyện với mùi hành phi mỡ thơm phức… khiến ai cũng muốn hắt hơi và muốn thưởng thức ngay một chiếc bánh nóng hổi.

    Khi bột, nhân đã sẵn sàng, công đoạn làm bánh được bắt đầu. Quá trình lấy bột vào lá đòi hỏi người lấy cũng phải khéo léo, lấy làm sao cho bánh phải đều không to quá cũng không nhỏ quá. Người Phụng Công cũng rất công bằng ngay cả trong việc chia từng thìa bột, tạo thành những chiếc bánh trăm cái đều cả trăm. Người làm nhân cũng vậy, khi cho nhân vào bột, phải khum khéo bột lại ôm lấy nhân không để nhân lộ ra ngoài. Người bắt lá cũng đòi hỏi khéo léo sao cho hai đầu bánh nhỏ, ở giữa thân bánh hơi cong hình giống chiếc răng bừa.

    Những ai từng thưởng thức bánh răng bừa đều thừa nhận, loại bánh này tuy rất dễ làm nhưng không ở đâu bánh có thể ngon bằng chính người dân ở đất Phụng Công làm. Chỉ bánh Phụng Công mới có được hương vị đậm đà, thơm ngon ấy, như người Phụng Công thường đùa đó là kỹ thuật “3D” – giòn – dẻo – dai. Các làng lân cận đều có thể làm loại bánh này, song để bánh đạt được kỹ thuật “3D” thì quả là khó. Có lẽ vì thế mà họ chỉ làm ăn chơi chứ mỗi khi muốn mang bánh răng bừa đi biếu là họ lại tìm đến Phụng Công.

    Công đoạn luộc bánh cũng rất quan trọng, đòi hỏi phải chuyên nghiệp đổ nước làm sao cho lá bánh không bị vàng, khi bánh chín vớt ra rổ lá bánh vẫn xanh mướt, không rách, cùi bánh có màu trắng xanh, lá bóc phải róc vỏ… là cả một kỹ xảo của người làm bánh.


    Bánh tẻ Phụng Công giờ nổi tiếng không chỉ trong tỉnh mà còn lan tới Hà Nội, Thái Bình, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Tây, Sài Gòn… Trong những dịp cưới xin, giỗ chạp… bánh tẻ trở thành một trong những món bánh khai vị không thể thiếu của người dân, để dâng lên tổ tiên trong những ngày rằm, ngày lễ. Và là món quà quê đầy ý nghĩa của những người xa xứ - món quà dân dã nhưng đậm tình người.







     ❧ ❀ ❧





    Các bài viết sưu tầm trên mạng


    1. Bánh tẻ - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    2. Bánh răng bừa - , 21/3/2005, VnExpress.
    3. Bánh răng bừa - Thanh Hoàng, 15/06/2007, Báo điện tử Dân trí.
    4. Bánh răng bừa Phụng Công - DU LỊCH NON NƯỚC VIỆT NAM - VTL TRAVEL.
    5. Bánh răng bừa Phụng Công vượt lũy tre làng - Nguyễn Hòa, 2/3/2010, Trang tin điện tử Báo Đối ngoại Vietnam Economic News.
    6. Bánh răng bừa Phụng Công - Thoa Nguyễn, 26/3/2010, Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online.
    7. Bánh răng bừa - Loại bánh trăm tuổi - PaRô, 20/01/2010, C4E-HCM.
    8. Giòn, dai… hương vị bánh quê - Lệ Thủy, 07/09/2010, Báo Lao Động.
    9. Bánh răng bừa xuất ngoại - Ngọc Mai, 28/02/2009, Báo điện tử Tuổi Trẻ Online.
    10. Bánh răng bừa Phụng Công “tìm đường” xuất ngoại - Thanh Huyền, 5/2/2010, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.

    1. Người đưa đặc sản quê lên phố - Đoan Trang, 17/06/2007, Báo điện tử An ninh Thủ đô.
    2. Gắn thương hiệu cho quà quê - Đông Hà, 23/09/2007, Báo điện tử Quân đội nhân dân.
    3. Tặng các mẹ công thức làm bánh răng bừa (bánh tẻ) - Đông Hà, 15/04/2007, Diễn đàn WEB TRẺ THƠ.
    4. Đại lý phân phối Bánh tẻ Phụng Công - http://amthuc.com.vn.
    5. Quà quê lên mạng - PHI LONG, 21/02/2007, Báo điện tử Tuổi Trẻ Online.
    6. Bánh tẻ, hương vị tết quê - L.A(sưu tầm), 12/02/2010, Báo Công an Thành Phố Hồ Chí Minh.
    7. Làng cây cảnh Phụng Công - Đức Hoà, 10/08/2005, Báo điện tử Dân trí.
    8. Bánh tẻ làng Chờ - Nghiêm Thường, 30/01/2008, Sinh Viên Kinh Bắc.
    9. Bánh tẻ Phú Nhi - Nghìn năm Thăng Long/Vietnam+.
    10. Đặc sản bánh răng bừa - Xuân Lập - Thọ Xuân - dstc http://dstc.org.vn.


    TOP TOP

    Nhãn lồng



    Nhãn
    (danh pháp khoa học: Dimocarpus longan)
    (chữ Hán: 龙眼/龍眼; âm Quảng Đông long-ngan; âm Hán Việt: "long nhãn"; nghĩa là "mắt rồng" vì hạt có màu đen bóng)
    là loài cây nhiệt đới lâu năm thuộc họ Bồ hòn (Sapindaceae), có nguồn gốc miền nam Trung Quốc.
    Loài này còn được gọi là quế viên (桂圆) trong tiếng Trung,  
    lengkeng trong tiếng Indonesia,  
    mata kucing trong tiếng Mã Lai.

    Nhãn lồng trong tiếng Việt có thể là:
     

    Chùm nhãnChùm nhãn


    Một quả nhãn bóc vỏ, lộ cùi và hạtMột quả nhãn bóc vỏ, lộ cùi và hạt
    Xem:

    1. Nhãn lồng Hưng Yên
    2. Làng nghề Nhãn lồng
    3. Các bài viết sưu tầm trên mạng





    Nhãn lồng Hưng Yên


    Một giống nhãn (Dimocarpus longan), có nguồn gốc từ tỉnh Hưng Yên. Cây nhãn tổ hiện vẫn còn ở xã Hồng Nam.
    Có rất nhiều cách giải thích về nguồn gốc của từ "nhãn lồng".
    Ngày xưa để tránh chim, dơi và các loại côn trùng phá hoại, người trồng nhãn đan những chiếc lồng bằng tre bao bọc chùm nhãn;
    Hay tương truyền rằng, để kịp mang sản vật lên dâng vua cho kịp giờ, người dân đã phải quất ngựa lồng nên để phi thật nhanh;
    hay do dụng cụ tiến vua là chiếc lồng - nhãn được đặt trong chiếc lồng, phần cuống dấu phía trong, quả hướng ra ngoài trông rất đẹp.
    Có cách giải thích khoa học hơn, do nhãn Hưng Yên có cùi rất dày và các múi được xếp lồng lên nhau, bóc từng lớp một để ăn, vì thế nên gọi nhãn lồng.

    Nhãn Hưng Yên có quả to, vỏ gai và dày, vàng sậm. Cùi nhãn dày và khô, mọng nước, hạt nhỏ. Vị thơm ngọt như đường phèn. Đáy quả có hai dẻ cùi lồng xếp rất khít (khác hẳn nhãn khác).
    Giống nhãn ở đất này có nhiều loại, dựa vào màu sắc, mùi vị... mà được bà con đặt các loại tên khác nhau, nào là nhãn nước, nhãn cùi, nhãn gỗ, nhãn hoa nhài, nhãn cùi dừa, nhãn trắng, nhãn đường phèn, nhãn hành... Nhưng chỉ có nhãn đường phèn, tức nhãn lồng, nay lai tạo thành nhãn Hương Chi là ngon nhất. Loại nhãn này quả to, các lớp cùi xếp lồng vào nhau, mọng nước, ngọt đậm...






    Nhãn lồng phố Hiến - Hưng Yên

    "Dù đi buôn Bắc, bán Đông,
    Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên"
    (Ca dao)

    Mỗi khi nhắc đến Hưng Yên, nhiều người hẳn liên tưởng ngay đến loại nhãn lồng mang nét đặc trưng của vùng đất này. Gọi “nhãn lồng Hưng Yên” là gọi chung, kỳ thực nhãn huyện Tiên Lữ mới là ngon nhất và vượt lên tất cả là nhãn lồng Phố Hiến.

    Nhãn lồng Hưng Yên là một đặc sản qúy, có quả lớn gần bằng quả vải thiều, căng tròn, ngọt lịm nhưng đặc biệt hạt chỉ nhỏ bằng hạt bắp. Trong thời quân chủ, đây là loại nhãn tiến vua, các nhà có cây nhãn ngon đều bị ghi sổ theo dõi nghiêm ngặt. Để bảo vệ an toàn bản thân, người ta đã phải đan những chiếc lồng bằng tre rất công phu, vừa kín vừa nhẹ để bao những chùm nhãn tránh sự phá hoại của bầy dơi – cái tên “nhãn lồng” đặc hiệu được bắt nguồn từ đó.

    Ngoài các vùng trồng nhãn truyền thống ven đê như Đằng Châu, Xích Đằng đến cửa sông Luộc, ngày nay địa bàn trồng nhãn đã được mở rộng khắp tỉnh Hưng Yên, từ Khoái Châu đến Tiên Lữ, Kim Động… đâu đâu cũng thấy bóng cây nhãn nhưng vùng địa linh của giống cây đặc sản này vẫn là thành phố Hưng Yên với Phố Hiến sầm uất một thời vang bóng. Tùy vào màu sắc hay mùi vị mà người ta phân thành nhiều loại nhãn khác nhau, từ nhãn nước sấy khô làm long nhãn, nhãn đường phèn, nhãn tiêu phèn có nước ngọt thấm từ đầu lưỡi đến chân răng, nhãn lồng lớn quả cùi dày dùng để tiếp khách hay làm quà biếu, đến nhãn cùi dừa, nhãn gỗ, nhãn hành, nhãn trắng, nhãn hoa nhài…
    Ngày nay ở những nơi có nhiều cây nhãn cổ thụ, người ta đã cấy ghép thành công giống nhãn mới mang tên Hương Chi, đặc điểm của giống nhãn này là quả lớn bằng quả chôm chôm ở miền Nam, cùi dày có nhiều lớp xếp lồng vào nhau và mọng nước, chỉ cần cắn nhẹ đã ngập chân răng và tứa ra một loại dịch ngọt đậm rất hấp dẫn.

    Có dịp ghé thăm các vườn nhãn, du khách sẽ rất ngạc nhiên khi khác với những gốc nhãn truyền thống cao hơn nóc nhà với thân to đến 1 – 2 vòng tay, những cây nhãn thời hiện đại trông chẳng khác mấy với những cây cảnh dạng bonsai. Theo sự hướng dẫn của Sở Khoa học Công nghệ và Trung tâm khuyến nông Tỉnh, các gia đình đã thay thế nhãn trồng hạt bằng trồng cành hoặc ghép mắt và thường trồng thành cụm 5 – 7 cành cách nhau chừng 30 – 40cm, sau đó mới bẩm, tỉa chọn những cây tốt để tạo tán cho mỗi cụm, nhờ vậy cây phát triển mạnh, cho năng suất cao và cũng dễ dàng trong thu hoạch. Các “phù thủy” tại xứ nhãn lồng ngày nay còn biết phù phép để cho ra các loại nhãn ngọt, nhạt theo ý muốn, đặc biệt họ có thể kéo dài vụ nhãn từ một tháng ra thành bốn tháng (từ tháng Năm đến tháng Tám âm lịch), trở thành nhãn trái vụ vừa bán được giá vừa tránh được sự o ép của thương lái khi mùa nhãn chín rộ.

    Đến Hưng Yên vào mùa thu hoạch (từ giữa tháng Sáu đến giữa tháng Bảy âm lịch), có dịp ghé thăm những vườn nhãn Hồng Châu, Hồng Nam, Lam Sơn… nổi tiếng, du khách sẽ rất thích thú được đi dưới những rặng nhãn bạt ngàn và trĩu nặng những quả no tròn. Sẽ càng lý thú hơn khi được thưởng thức tại chỗ hương vị ngọt ngào của loại đặc sản một thời cung tiến…

    Mai Kim Thành, http://www.aseantraveller.net






    2. Lịch sử
    Các cụ già thường kể chuyện sự tích cây nhãn lồng.
    Xưa lắm, có cậu bé nhà nghèo bắt được quả trứng rồng, sau nở thành rồng con. Rồng với người làm bạn, quấn quýt suốt ngày. Gặp năm hạn hán, rồng bay đi xa hút nước mang về tưới tắm cho làng. Có tên trọc phú ghen ghét, đòi cậu bé phải giao nộp, không được hắn bèn ám hại. Trước khi ra đi, rồng đã cho cậu bé một con mắt dặn là chon vườn nhà. Năm đó lại hạn hán, bỗng từ dưới đất mọc lên một cây chi chít quả to tròn như con mắt rồng, mọng nước và mát lành, mọi người ăn xong đã thoát khỏi cơn đói và khát. Từ đó ai cũng trồng nhãn, cây nhãn là cây không thể thiếu trong vườn nhà.

    Hưng Yên trông nhãn từ thuở khai hoang mở đất, song để tạo được thương hiệu nổi tiếng như ngày nay đã phải trải qua bao nhọc nhằn. Mảnh đất này đã được mở mang từ thời vua Hùng thứ 18 và gắn với câu chuyện Tiên Dung, Chử Đồng Tử.
    Nhãn lồng phố Hiến được biết tới chính thức từ khoảng thế kỷ 16 là thứ nhãn quý tiến vua. Hiện nay vẫn còn khá nhiều cây nhãn cổ thụ trong đó có một cây nhãn tổ đã bốn trăm năm tuổi được trồng ở trong Chùa Hiến. Cây này đã trở thành bảo tang sống về giống nhãn lồng được Lê Quý Đôn ghi vào sách Phủ biên tạp lục năm 1776.
    Nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng mô tả:
    “Mỗi lần bỏ vào miệng thì tận trong răng lưỡi đã nảy ra vị thơm tựa như nước thánh trời cho”.

    Cây nhãn tổ - tương truyền cùng tuổi với phố Hiến - trồng trước Đình, Chùa Hiến, ven đường và đã được dựng bia ghi danh là cây nhãn cổ và ngon nhất xứ nhãn lồng. Cây đã được công nhận theo quyết định số 232 ngày 10/10/1992 của Trung ương hội làm vườn Việt Nam. Quả của cây nhãn tổ trước được dùng để tiến vua. Cùi dày, vỏ mỏng, hạt nhỏ như hạt đậu, thơm mát như lắng đọng vị ngọt phù sa châu thổ. Năm 1968, một trận bão lớn quật trốc gốc cây nhãn tổ. May mắn thay còn nhánh con vươn lên, phát triển tốt cao chừng 3 m. Có năm, cây cho 3 - 4 tạ quả, nhưng có năm chỉ cho lộc vài chục cân. "Giống nhãn nó thế, năm trước sai gãy cành, năm sau thì lại lèo tèo" bà vãi bảo. Nhiều cây nhãn của Hưng Yên được chiết cành hoặc ươm hạt từ cây nhãn tổ này.

    Cây nhãn tổCây nhãn tổ


    Ca dao có câu “Tháng sáu buôn nhãn bán trăm”.

    Hỡi cô cắt cỏ bên sông
    Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây.


    Sưu tầm

     ❧ ❀ ❧




    Làng nghề


    Nhãn lồng Hưng Yên quả to tròn, vỏ có màu vàng nâu nhạt, cùi dày, ráo nước. Bóc một lớp vỏ mỏng láng, để lộ lớp cùi nhãn dày trắng ngà. Đưa vào miệng nếm thử có vị ngọt thơm, giòn dai. Bên trong là hạt nhỏ màu đen nháy. Mùi hương cũng rất đặc trưng, đó không phải là một mùi thơm nức mũi mà nhẹ nhàng, tinh khiết, dịu mát.

    Nhãn cống hiến cho đời từ thân, lá, cành đến hoa và quả.
    Gỗ nhãn rắn chắc, đỏ hồng, có thể làm được rất nhiều vật dụng. Thân nhãn đốt đượm, có thể dùng sắc thuốc bắc tốt vì không độc hại tỏa ra mùi thơm hấp dẫn.
    Hoa nhãn nở đúng vào mùa xuân, hoa bé tí xíu kết chùm trắng ngà trên những tán lá dày xanh thẫm, tỏa hương dịu nhẹ. (Các vườn nhãn thu hút rất nhiều ong mật nên ngoài nghề trồng nhãn lấy quả, Hưng Yên còn đẩy mạnh nghề nuôi ong lấy mật ong hoa nhãn thơm nức).
    Khi kết trái, quả sai chi chit, mỗi chùm có hàng chục đến cả trăm quả. Nhãn thường chín vào cuối tháng sáu âm lịch, cùi trong như hổ phách, hạt nhỏ, nước ngọt và thơm.

    Từ sản phẩm nhãn tươi, có thể chế biến thành rất nhiều món ngon, bổ, phổ biến nhất là món chè nhãn lồng hoa sen và long nhãn.
    Long nhãn là vị thuốc bổ âm, điều trị thần kinh suy nhược, ngâm với rượu uống mỗi ngày sẽ ăn ngon ngủ ngon, tính tình điềm đạm.
    Còn chè nhãn có vị ngọt thanh tao, giúp giảm mệt mỏi, đặc biệt là trong những ngày hè nóng bức.

    Nhãn lồng được chia làm hai loại.
    Có loại nhãn nước nhiều mật thấm từ đầu lưỡi đến tận chân răng rồi lan khắp cơ thể.
    Loại nhãn cùi dừa bóc vỏ vẫn thấy khô rang nhưng cắn thấy giòn sần sật, ngọt lự.

    Nhãn lồng không chỉ là món quà giải khát mùa hè mà còn là vị thuốc bổ dưỡng xuất hiện nhiều trong các bài thuốc Đông y. Để sử dụng nhãn làm thuốc phải qua chế biến thành long. Nhãn có tính nhiệt, ăn nhiều gây nóng tuy nhiên chính điều này khi kết hợp với nhiều vị thuốc lại rất bổ dưỡng cung cấp nhiều năng lượng cho cơ thể. Y học cổ truyền coi long nhãn như vị thuốc có tác dụng bồi bổ cơ thể, dưỡng huyết an thần, chữa suy nhược thần kinh và mệt mỏi…




     ❧ ❀ ❧




    Các bài viết sưu tầm trên mạng


    1. Nhãn - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    2. Nhãn lồng - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    3. Nhãn lồng Phố Hiến - Cổng thông tin điện tử tỉnh Hưng Yên.
    4. Nhãn lồng Phố Hiến - Chu Mạnh Cường, 14/07/2010, Tin Tức Online.
    5. Nhãn lồng Phố Hiến - Đình Tuấn, 27/11/2006, Báo ảnh Đất Mũi Online.
    6. Đi tìm nhãn lồng chính hiệu - Phan Nam, 13/04/2004, Báo Diễn Đàn Doanh Nghiệp điện tử.
    7. Giới Thiệu Nhãn Lồng Hưng Yên - Diễn đàn Nhãn lồng Hưng Yên.
    8. Kỹ thuật trồng nhãn lồng - Diễn đàn Nhãn lồng Hưng Yên.
    9. Giới thiệu 3 giống nhãn chín muộn - 5/4/2007, Rau Hoa Quả Việt Nam.
    10. Nghiên cứu phát triển thương hiệu Nhãn lồng Hưng Yên - Luận văn Thạc sĩ, Thư viện luận văn.
    11. Nhãn lồng - Báo điện tử Cây thuốc quý.
    12. Chè hạt sen nhãn lồng - món ngon không thể chối từ - Lê Hương Giang, 28/07/2011, Báo điện tử Đất Việt.
    13. “Phù thủy” trồng nhãn lồng Hưng Yên - Káp Long - Hồng Minh, 21/08/2010, Báo điện tử Thanh Niên Online.

    1. LONG NHÃN Chữa các chứng do tư lự quá độ, buồn bực không ngủ hay quên. - GS-TS. ĐỖ TẤT LỢI, Trang YKHOANET - Y KHOA VIỆT NAM.
    2. Thuốc tốt từ quả nhãn - Bác sĩ chuyên khoa II Nguyễn Hồng Siêm, 12/08/2011, Trang Thực phẩm thuốc.
    3. Nhãn lồng Hưng Yên có sang được Mỹ? - Phong Lan, 31/03/2009, VnEconomy (Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam).
    4. Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ: Cơ hội lớn cho nhãn lồng Hưng Yên - Ninh Tuân, 24/11/2008, Báo điện tử Kinh tế nông thôn.
    5. Nhãn lồng Hưng Yên thất sủng - Xuân Ngọc, 06/09/2011, VnExpress.
    6. Nhãn lồng ghi điểm giữa rừng Tam Đảo - Đồng Văn Thưởng, 27/09/2011, Báo Nông nghiệp Việt Nam.
    7. Triển vọng nhãn lồng Hưng yên - Lê Hương Giang, 07/03/2007, Trang tin điện tử Rau Hoa Quả Việt Nam.
    8. Làm gì để nhãn lồng Hưng Yên "vượt rào" ra khỏi thị trường phía Bắc? - Lê Hương Giang, 23/08/2011, Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên.
    9. Một yến nhãn, mới được cân thịt lợn - Lê Bền, 24/08/2011, Trang thông tin điện tử Hội Nông dân Việt Nam.

    1. Longan Production in Asia - Prof. Wong Kai Choo, Universiti Putra Malaysia, FAO Regional Office for Asia and the Pacific.
    2. Longan - Dimocarpus longan Lour - Morton, J. 1987. Longan. p. 259–262. In: Fruits of warm climates. Julia F. Morton, Miami, FL.
    3. Dimocarpus longan (Sapindaceae) - Montoso Gardens.
    4. Longan - Dimocarpus longana - Trade Winds Fruit.

    TOP TOP

    Tương Bần



    Tương Bần hay tương làng Bần, tương Bần Yên Nhân là tên gọi một loại tương được sản xuất tại thôn Bần Yên Nhân - trước kia thuộc xã Văn Phú, huyện Mỹ Hào, hiện đã được nâng lên thành Thị trấn Bần Yên Nhân - Mỹ Hào, Hưng Yên, Việt Nam. Đây được đánh giá là một trong những loại tương ngon của Việt Nam. Đặc trưng cho vùng Đồng bằng Bắc Bộ.



    Tương Bần đậm đà vị quê - Truyền hình Hưng Yên - HYTV, 17/5/2021.

    Tương Bần


    1. Lịch sử

    Tương Bần có từ khoảng cuối thế kỷ 19, khi đó nó còn được dùng để tiến vua. Hiện giờ nó đã trở thành một trong những món ăn đặc sản của Việt Nam.

    ... hỏi ngọn ngành ai là tổ nghề, ai là người đầu tiên đem nghề này về làng thì người làng không ai còn nhớ. Các cụ già làng cho biết rằng, vào đầu thế kỷ XX, làng Bần thuần nông, nghèo lắm, nhà nào vào mùa hoa mướp cũng làm một vài chum tương dùng làm nước chấm trong sinh hoạt ăn uống của gia đình. Sau đó, nhờ có đường quốc lộ số 5 chạy cạnh làng Bần, một số người làng ra bám mặt đường, mở cửa hàng, hình thành phố Bần vào những năm 35 - 40 của thế kỷ trước. Ở làng Bần lúc bấy giờ có cụ bà Thân Thị Lựu khéo tay làm tương. Cụ mạnh dạn làm tương và đưa sản phẩm ra bán ở quán lấy tên hiệu là Cự Lẫm. Ai ngờ cái quán tương đầu tiên ở cạnh đường số 5 ấy lại là một sự mở màn cho việc đưa tương làng Bần hội nhập với thị trường cả nước.


    Sau nhà sản xuất hiệu Cự Lẫm có thêm nhà sản xuất tương hiệu Dân Sinh.

    Khách thập phương qua lại mua tương về ăn thấy ngon và lời đồn, tiếng thơm vang đến Hà Nội. Thế rồi thương hiệu tương Cự Lẫm bỗng chốc nổi tiếng khắp vùng và sản phẩm tương Cự Lẫm được Hà Nội ưa chuộng, cạnh tranh với tương Cự Đà (Hà Đông) nằm kề Hà Nội.
    Kế thừa truyền thống nghề tương của cha ông, người làng Bần luôn bảo nhau giữ gìn chữ tín. Và họ đã không làm phụ lòng khách mến mộ sản phẩm tương của làng cho đến tận ngày nay.

    Những năm gần đây do quá trình đô thị hóa và những thông tin về an toàn thực phẩm, khiến nghề làm tương của làng mai một dần. Hiện chỉ một số gia đình còn truyền thống làm tương tại nhà, thay vào đó, tương được làm theo công nghệ hiện đại, bán trên khắp cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài.

    2. Chế biến

    2.1 Chọn Nguyên liệu
    Nguyên liệu để làm tương cơ bản chỉ có đỗ tương (đậu nành), gạo nếp, muối, nước. Cách làm tương Bần cũng không khác gì các nơi khác. Thế nhưng, sở dĩ tương Bần ngon nổi tiếng bởi mỗi một công đoạn trong quá trình làm tương đều được chăm chút tỉ mỉ. Ngay từ khâu chọn nguyên liệu đã được người làm tương chú trọng.

    Gạo nếp: Xưa kia dân làng thường chọn gạo nếp cái ré hoặc nếp cái hoa vàng (loại nếp khi hạt chín có ra thêm nhành hoa màu vàng), được trồng ở trong vùng. Ngày nay nếp ré, nếp cái hoa vàng đã thoái hóa, người làm tương chọn loại gạo nếp sẵn có ở các chợ quê. Nếp phải đều hạt, không lẫn gạo tẻ, không xát trắng quá. Xưa kia gạo nếp giã dập 600 chày là được. Khi nấu không vo kỹ mà chỉ xát nhẹ để gạo giữ được lớp vỏ cám bên ngoài góp phần làm tương ngọt thêm.
    Đỗ tương (đậu nành): Loại đỗ tương quê, còn gọi là đỗ tương ré trồng nhiều ở đất bãi ven sông, hạt nhỏ, tròn có màu vàng xen lẫn màu mận chín, vỏ mỏng, cùi dày, rang chín ăn bùi và thơm béo.
    Muối: Lựa muối hạt trắng tinh, đem về nhà để một thời gian cho chảy nước chát mới mang ra dùng.
    Đặc biệt nước ngâm đỗ phải là nước mưa, nước giếng đá thật trong, thật sạch, tuyệt đối không dùng nước máy. Làng Bần có một cái giếng duy nhất dùng để lấy nước làm tương, không được dùng vào việc tắm, rửa khác.
    Thứ dùng để lên men là mốc Aspergillus Oryzae.




    Dụng cụ làm tương gồm:
    Cối xay đá để xay vỡ vụn hạt đỗ tương sau khi đã rang chín;
    Nồi đồng và chõ để thổi xôi;
    Chảo gang để rang đỗ, là chảo lớn đường kính đến 100cm, thành chảo cao để đỗ không bắn ra ngoài;
    Nong, nia để tãi cơm và ủ mốc;
    Vải màn để đắp cơm;
    Chum sành để ngả tương. Ở làng Bần có các loại chum 30lít, 50 lít, 80 lít, to nhất là 100lít. Chum bằng đất sét nặng mới chịu được nước mặn và phơi giữa nắng hè không bị nứt vỡ. Loại chum này được sản xuất ở lò gốm thuộc tỉnh Thái Bình và chum ở làng Thổ Hà (Bắc Ninh);
    Chậu: chậu nhôm, chậu sành, chậu nhựa dùng để đãi gạo, đỗ và lọc nước muối;
    Quấy tương, còn gọi là trang tương: dụng cụ bằng gỗ cán dài, có lưỡi gỗ hình bán nguyệt dài 15cm, rộng 6 đến 8 cm cắm ở đầu cán dùng để quấy tương trong chum. Dụng cụ quấy tương phải bằng gỗ mới chịu được mặn, không nứt vỡ. Quấy tương còn là công cụ đảo đỗ tương khi cho đỗ vào chảo rang.
    2.2 Làm tương
    Các công đoạn làm tương:

    2.2.1 Làm mốc:

    Ngâm gạo:
    Chọn gạo nếp tốt, đều hạt, không lẫn tẻ, cho vào chậu nước khoảng 6 giờ thì vớt ra,

    Đồ xôi:
    đợi nước sôi mới cho gạo vào chõ để đồ thành xôi mốc, có thể đồ xôi bằng xoong nhôm lớn, đường kính miệng 60cm, đáy nồi để giá nhôm 3 chân có lỗ thủng tròn, trên đặt vỉ đan bằng nan tre, lại đặt 2 sợi dây thừng gấp đôi trên mặt vỉ để khi xôi chín thì kéo xôi ra (kể từ khi hơi nước sôi ở nồi thông lên miệng chõ gạo chừng 25 - 30 phút thì được xôi chín tới). Đồ xôi chín nát quá, tương sẽ bị đen. Xôi sống thì tương bị chua.

    Ủ mốc:
    Xôi nếp đang lên mốc vàngXôi nếp đang lên mốc vàng
    Xôi chín tới mang dỡ tơi ra nia, dày khoảng 2-3cm. Nếu làm mốc vào mùa nóng, tãi xôi đến lúc nguội hẳn thì phủ vải màn kín lên mặt cơm xôi. Làm mốc vào mùa lạnh, tãi xôi khi còn âm ấm tay thì phủ vải lên cơm xôi và cho xếp nia lên giá đặt nia mốc.
    Phủ vải màn làm mốc là một sáng tạo của người làng Bần. Trước kia họ ủ mốc bằng cành lá nhãn hoặc lá mướp (giữ độ nóng ẩm, nhưng phải để ý không cho nước hấp hơi). Hơi nước ở cơm xôi bốc lên ngưng thành hạt và nhỏ xuống. Chỗ nào bị nước nhỏ, xôi nát, mốc bị đen ảnh hưởng đến chất lượng của tương. Phủ vải màn hơi mốc thoát ngay, không bị đọng giọt nước nên mốc lên đều hơn.

    Xoa mốc:
    Ủ hai ngày đêm thì cơm xôi xuất hiện nấm mốc tơ trắng, cậy mốc ra đảo cho mốc rời từng hạt và tãi đều ra nia, phủ vải màn ủ tiếp. Trời nóng ủ thoáng. Gặp trời lạnh phủ thêm bao tải để giữ nhiệt.



    Giai đoạn này gọi là xoa mốc. Sau xoa mốc, tùy vào nhiệt độ nóng hay lạnh (dân gian gọi là tùy theo chiều trời) đến 3 hoặc 4 ngày sau nấm mốc phát triển, ta mở vải ra xem thấy mốc lên đều, ngả màu hoa cau, hoặc hoa thiên lý thì hạ nia dùng nậy mốc (hay gọi là xẻng nậy mốc) bậy, lấy mốc ra bóp nhỏ trộn đều chuẩn bị muối mốc. Mốc hỏng có màu đen, màu đỏ nếu ép cho vào ngả tương, chất lượng tương sẽ kém. Xoa mốc là việc vất vả nhất trong các công đoạn làm tương. Mùa nắng nóng, mốc lên nhanh, khô cứng, bụi mốc dày, mỗi lần xoa đảo bụi bay khắp nhà làm nhiệt độ trong phòng tăng lên.

    Trước cảnh xoa mốc, đảo mốc bằng tay vất vả và năng suất không cao trong công nghệ làm tương cổ truyền, năm 2001, anh Lê Đình Đạt đã sáng tạo ra máy đảo mốc. Máy là một bộ phận khung sắt hình chữ nhật cài thêm các răng sắt gắn vào trục của mô tơ điện. Khi mô tơ điện chạy, khung sắt và răng sắt đánh tơi mốc ra. Đơn giản là vậy nhưng anh Đạt phải mày mò thử nghiệm trên 1 năm mới có một khung sắt chuẩn để khi mô tơ quay khung sắt không làm nát mốc, không đẩy mốc ra ngoài khuôn và không làm mốc bị dồn vào một chỗ dẫn tới kẹt cứng khung sắt. Từ khi có máy đánh mốc, năng suất xoa mốc mỗi giờ bằng 4 người làm thủ công, giải phóng một phần sức lao động ở khâu nặng nhọc nhất của công nghệ làm tương cổ truyền.
    Năm 1997, Trung tâm ứng dụng và tiến bộ khoa học, Sở khoa học công nghệ và môi trường tỉnh Hải Dương đã thực hiện dự án ứng dụng công nghệ mốc trung gian vào sản xuất để nâng cao chất lượng đặc sản tương Bần, ứng dụng ở 11 hộ nông dân đạt kết quả tốt. Khi ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mốc trung gian thì thời gian lên mốc nhanh từ 2-3 ngày so với sản xuất theo công nghệ cổ truyền. Mùa đông sử dụng mốc trung gian thì mốc lên nhanh, đều, đẹp cho chất lượng tương khá tốt.

    (Làm mốc cũng có thời như con gái có thì, tốt nhất vẫn là vào tháng tư tháng 5, độ nóng ẩm của thời tiết đủ để cho hoa mốc lên nhanh. Nên vào thời điểm này, người ta có thể làm mốc dự trữ, cất gói cẩn thận để lúc nào cần ngả tương là mọi thứ đã sẵn sàng!)
    2.2.2 Ngâm đỗ:

    Đồng thời với thổi cơm xôi là cho đỗ tương vào chảo rang. Rang đỗ phải nhỏ lửa, quấy đều, đỗ chín vừa tầm, vỏ ngoài vẫn giữ được màu trắng nhưng cùi đỗ thì chín vàng, tỏa mùi thơm.
    Nếu đỗ rang già quá thì cùi đen, màu tương sẽ bị đen. Nếu rang non quá thì cùi trắng, tương dễ bị thối.
    Rang đỗ xong thì cho vào cối đá xay nát đỗ ra,
    ngày hôm sau cho vào chum sành, đổ nước vào ngâm.

    So với công nghệ làm tương cổ truyền, hiện nay việc rang đỗ và xay đỗ đã được cải tiến. Ngày xưa rang đỗ bằng chảo gang, mỗi mẻ 5 ca (khoảng 7,5kg), người rang phải đảo liên tục trong thời gian một giờ. Ngày nay, do cải tiến kỹ thuật rang đỗ bằng kiểu lò bánh mì, mỗi lần cho vào lò 4 đến 5 khay, rang được khoảng trên dưới 30kg đỗ trong vòng một giờ. Cách rang này đảm bảo đỗ chín đều và năng suất lao động tăng 4 đến 5 lần so với rang thủ công. Xay đỗ được cơ khí hóa, nếu như trước đó nhà sản xuất tương phải dùng cối đá để xay (thường là quay bằng tay), mỗi giờ chỉ xay được từ 1-5kg, thì ngày nay nhờ việc xay bằng máy (mô tơ điện) năng suất xay đỗ tăng từ 10 đến 15 lần.



    Loại máy xay này giống như máy xay bột trẻ em, hầu như nhà nào cũng sử dụng. Để sản xuất 1 lít nước tương cần có 0,2kg đỗ.

    Nước là yếu tố quan trọng góp phần vào chất lượng của tương làng Bần. Người làng Bần sử dụng nước mưa đã được tích trữ vài tháng và nguồn nước ngầm ở làng, trong như nước mưa và không có mùi vị, để làm tương. Xưa dân làng lấy nước ở giếng Đanh. Bây giờ bà con làm giếng khoan bơm tay, nước từ giếng khoan lấy lên vẫn trong và không có mùi vị nhưng được lọc qua bể cát để khử tạp chất.
    Chum nước đỗ tương phải để chỗ râm mát, nhiệt độ vừa phải, không để nóng quá nước tương mau ngả mùi thiu. Ở làng Bần có câu "Cha thiu mẹ thối", nghĩa là xôi mốc phải hơi thiu, nước đỗ phải hơi thối thì làm tương mới ngon.

    (Có tài liệu viết: ngâm nước đúng 7 ngày 7 đêm, không ít hơn hoặc nhiều hơn, nếu không thì hạt sẽ bị chua (ít hơn 7 ngày) hoặc úng (nhiều hơn 7 ngày). Trong thời gian ngâm, thông thường hạt đỗ tương phải 3 lần nổi 3 lần chìm thì mới bảo đảm lúc thành tương, hạt đỗ nát ngấu. Nước ngâm đỗ có váng bọt được vớt bỏ ra ngoài).
    2.2.3 Muối mốc (ủ mật):

    Mốc ủ 7 ngày ngả màu hoa cau, hoa thiên lý thì mang ra bóp nhỏ, vẩy nước tương trong (nước ngâm đỗ chưa có muối) trộn đều khi nào mốc nắm cơm chim đặt cạnh mà không dính vào nhau là được.
    Bốc mốc trộn nước tương cho vào thúng ủ kín 3 đến 4 ngày tùy vào thời tiết nóng hay lạnh để cho mốc ra nước mật.
    2.2.4 Lọc nước muối:

    Muối trắng tinh cho vào chậu đổ nước mưa hay nước ngầm vào quấy đều để đất cát lắng xuống đáy, váng nổi lên mặt nước và lọc nước muối trong ra một chậu khác.
    2.2.5 Ngả tương:

    Cho nước muối vào chum trước,
    tiếp là nước tương cùng bột đậu,
    sau cùng cho mốc đã được muối vào chum
    và cho quấy tương vào đánh tan mốc hoà với tương đỗ, nước muối.

    Vị đặc trưng của tương phụ thuộc khâu chọn tỷ lệ các thành phần.
    Công thức chế biến cho 1 lít tương được mỗi chủ sản xuất gia giảm đỗ, gạo và muối khác nhau. Mỗi gia đình có một “bí kíp” khác nhau và chỉ được truyền lại cho các thế hệ sau trong gia đình.

    Chủ sản xuất tương ở làng Bần với thương hiệu Triệu Sơn có công thức như sau: 1 lít tương bao gồm 4 lạng gạo, 2 lạng đỗ, 1,4 đến 1,6 lạng muối.

    Một công thức khác: 30kg gạo nếp, 15kg đỗ tương, 15-16kg muối, trong 100 lít nước. Muối cho mặn quá thì tương mất vị ngọt, cho nhạt tương dễ chua, không để được lâu.
    2.2.6 Đánh tương:

    Ngả tương xong buổi sáng mở nắp chum dùng quấy tương đánh đều từ dưới lên và phơi nắng cho đến tối thì úp nắp chum, sáng hôm sau lại làm thế. Tránh quấy khi nước tương đang bị nắng nóng sẽ dễ làm chua tương.
    Đánh mốc liên tục khoảng một tháng để cho bay hết hơi mốc, cái tương chìm xuống, nước cốt tương nổi lên là được.
    Tương phơi nắng 3 tháng cho ngấu mới lấy ra ăn, khi đó từ 100 lít tương chỉ còn 80 lít.
    Thời gian làm tương ở làng Bần từ tháng 3 âm lịch đến tháng 10 âm lịch. Tương ngon nhất là làm vào tháng 6 âm lịch. Dân gian có câu Tháng sáu máu rồng.

    Đánh giá chất lượng của tương Bần, trước hết nhìn vào màu tương.
    Tương đạt chuẩn màu vàng sẫm như mật ong, hoặc màu cánh gián.
    Tương rót ra sánh đặc không có mùi ngái, dậy lên mùi thơm.
    Nếm tương có cảm giác bùi béo, đậm, ngọt mặn là tương tốt, để được lâu.

    2.3 Bảo quản tương:

    Tương đạt chuẩn để lưu từ năm này sang năm khác, cho nên việc bảo quản tương đặt ra nghiêm ngặt.
    Sau thời kỳ đánh tương từ 2 đến 3 tháng, cái tương đã chìm hết thì đậy nắp tương kín miệng, quanh nắp trát bổi gồm bùn trộn với rơm khô cho kín miệng để một năm sau mới lấy ra ăn. Mùa xuân múc tương xong phải lau sạch và bôi ớt quanh miệng chum, phủ một lần vải trước lúc úp nắp để chống các loại bọ tìm kẽ nứt đẻ trứng sinh giòi bọ trong tương. Mùa hè phải thận trọng múc tương khi trời có mưa. Tương rất kỵ nước mưa, sơ suất vài giọt mưa rơi vào là làm thối chum tương ngay ít ngày sau đó. Chớ có nhúng ngón tay có mồ hôi vào vại tương dễ làm thay đổi chất lượng của tương.
    2.4 Đóng gói:

    Ngày xưa các hộ sản xuất cho tương vào chum nhỏ hay thùng gỗ ghép quẩy tương đi bán rong ở các chợ hoặc rao bán ở các làng. Ai mua thì đong tương vào chai thủy tinh để bán.

    Ngày nay tương Bần được đóng vào chai nhựa loại 1 lít, 2 lít, 3 lít hoặc cho vào can nhựa 5 lít, 10 lít.

    Mỗi cơ sở sản xuất đặt ra một thương hiệu, in nhãn quảng cáo chất lượng tương, địa chỉ sản xuất, số điện thoại liên hệ và dán vào chai tương, can tương. Nút tương cũng được gắn kín bằng đai nilông bảo vệ.

    3. Vấn đề vệ sinh thực phẩm

    Vì tương bần được làm theo cách truyền thống (ủ trong chum) và dùng mốc để ủ nên có các nhà khoa học lo ngại vì trong thành phần của tương có tận hai loại nấm trong thành phần của mốc dùng làm tương là Aspergillus Oryzae và Aspergillus Flavur, với Aspergillus Oryzae là nấm tốt men cao trong khi Aspergillus Flavur lại sinh ra độc tố Aflatoxin


    (có thể gây tổn thương hệ thần kinh trung ương, tim, phổi, và sinh ra một số chất độc hại khác). Vấn đề vệ sinh ở đây là phải phải tách riêng và loại bỏ nấm Aspergillus Flavur.
    Đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chính thức về vấn đề này.
    4. Trong văn hóa Việt Nam

    Tương Bần đã đi vào câu ca dao nổi tiếng:
    Anh đi anh nhớ quê nhà
    Nhớ canh rau muốn nhớ cà dầm tương

    Cốm Vòng gạo tám Mễ Trì
    Tương Bần, húng Láng còn gì ngon hơn

    Dưa La, cà Láng
    Nem Báng, tương Bần

    Hoặc câu thành ngữ
    Nát như tương Bần


    Thơ mới
    “Anh đi trăm quán ngàn cầu
    Hải vị cũng thuộc, sơn hào cũng quen
    Mà sao anh vẫn cứ thèm
    Đĩa rau muống luộc, lại thêm tương Bần”.

    Rau muống phải có tương bần
    làm thơ thì phải có vần mới hay

    “Tái dê chấm với tương bần
    Ăn vào nó cứ tần mần như dê
    Đêm về vợ lạy tỉ tê
    Tối mai ta lại Tái dê tương bần”

    5. Các món ăn với tương Bần

    Rau luộc, đậu phụ, bánh đúc (Bánh đúc chấm tương Bần)
    Cà muối dầm tương
    Cá, tép kho tương (Cá chép kho tương bần)
    Bò, dê tái tương gừng
    Tương BầnTương Bần
    Tương BầnTương Bần
    Tương BầnTương Bần





    Làng nghề tương Bần



    Video: Tương Bần
    Trang thông tin điện tử Đài Phát thanh & Truyền hình Hưng Yên

    Đi từ Hà Nội theo quốc lộ 5 khoảng 25 km là đến thị trấn Bần Yên nhân (trước đây là một thôn của xã Văn Phú) huyện Mỹ Hào.
    Phố Bần nho nhỏ, nay đã là thị trấn Bần Yên Nhân sầm uất, được bao quanh bởi các khu công nghiệp lớn, hiện đại. Nhưng tương vẫn là một trong những đặc sản nổi tiếng của vùng đất này.
    Làng nghề tương Bần có khoảng 300 lao động làm nghề, thu nhập bình quân 300.000 - 350.000 đồng/tháng (2008). Nhờ có máy móc xay nghiền nên làm tương giờ không vất vả như xưa. Tuy không tốn nhiều lao động song sản xuất tương cũng tạo thêm việc làm cho tới cả trăm người bán. Đi qua phố Bần người ta thấy cả phố bán tương, nhà nào làm thì nhà nấy bán. Nhà có mặt đường thì tiện, nhà không có mặt đường thì thuê chỗ bán hàng, ai cũng cố giành cho được một cửa hàng khang trang bề thế để trưng bày quảng cáo cho hiệu của mình. Sản xuất tương ở làng Bần hầu hết là các hộ gia đình, có hộ do được truyền nghề từ đời trước, có hộ mới vào nghề dăm bảy năm nay khi thấy làm tương phát đạt. Tuỳ theo uy tín, chất lượng mà có hộ làm ăn quy mô lớn, có tới ba trăm chum đại sức chứa tới 40.000 lít liên tục quay vòng.

    Tương Bần trong cơ chế thị trường

    Phải đến những năm đầu của thập kỷ chín mươi, khi đất nước ta mở cửa phát triển kinh tế thị trường thì tương Bần mới thực sự có chỗ đứng. Xu hướng chuộng dùng ẩm thực dân tộc trong đó có món tương và lợi thế làng Bần nằm bên quốc lộ số 5 đã tạo môi trường thuận lợi cho phát triển nghề làm tương truyền thống theo hướng sản xuất hàng hóa.

    Tính đến tháng 5-2003, làng Bần đã có tới 31 cơ sở hộ gia đình đầu tư sản xuất tương bán ra thị trường. Trải dài dọc quốc lộ 5 khoảng 2km thuộc thị trấn Bần có tới hơn 200 đại lý bán buôn và bán lẻ.
    Từ năm 1994 đến nay, mỗi năm làng Bần Yên Nhân tiêu thụ trên 3000 tấn gạo nếp, trên 1000 tấn đậu tương để chế biến tương, thu lãi khoảng 1,5 tỉ đồng từ nghề làm tương, giải quyết công ăn việc làm cho hàng nghìn lao động và dịch vụ nghề tương.
    Năm 2004, ... Riêng nghề truyền thống sản xuất Tương Bần có 25 hộ tham gia, hằng năm xuất ra thị trường gần hai triệu lít tương, tạo giá trị thu nhập gần 10 tỷ đồng.

    Tương Bần đã được xuất sang các nước Đức, Nga, Tiệp Khắc, Pháp, Hàn Quốc, Mỹ… và có mặt ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Năm 2002 xuất sang Mỹ 1 vạn lít. Những nước khác như Đức, Pháp, Séc, Nga… mỗi năm cũng nhập đến hàng ngàn lít tương Bần.

    Giá 1 lít tương nhà sản xuất tính với các đại lý là 3.500 - 4000đ,
    các đại lý bán cho người tiêu dùng từ 5000 đến 6000đ.
    Tương đặt vào loại ngon giá 7000đ đến 8000đ/lít.

    Cơ sở sản xuất tương có tiếng ở làng là Triệu Sơn, Hường Đạt, Minh Quất (tên mới là Đức Vinh), Nguyễn Thị Liên, Liên Vinh, Thiên Sơn, Nguyễn Văn Chính...






     ❧ ❀ ❧




    Các bài viết sưu tầm trên mạng


    1. Tương Bần - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
    2. Nghề Làm Tương ở Làng Bần - Nguyễn Hữu Thức, 27/12/2006, Mùi vị - Ẩm thực Việt nam
    3. Tương Bần - Cẩm Tuyết, 27/12/2006, Mùi vị - Ẩm thực Việt nam
    4. Làng nghề Tương Bần - Báo điện tử Hưng Yên, 23/5/2005
    5. Tương bần Mỹ Hào - Cuộc Sống Việt
    6. Tương Bần - Vietgle - Tri thức việt
    7. Tương làng Bần - Đoàn Xuân, 20/11/2010, Giác Ngộ Online.
    8. Một lần về làng “bần” Yên Nhân - Thế Duyệt, 30/10/2009, Báo Người Lao Động Điện tử.
    9. Tương Bần - AmThuc365.vn., 16/02/2011.
    10. Tương bần làm thủ công - Trần Việt Đức, 06/06/2007, Báo điện tử sài gòn tiếp thị media.
    11. Thương nhớ… tương Bần - iCook.vn.
    12. “Ai Zô”... cho tương bần - Tân Linh, 30/10/2009, Web-site: www.thethaovanhoa.vn.
    13. TƯƠNG BẮC (TƯƠNG BẦN) - phivan, 12/10/2007, Diễn Đàn Phật Pháp Online.
    14. Đổi thay ở làng nghề truyền thống chế biến tương bần - Ths - Nguyễn Hải Tiến, Website Hội Nông dân tỉnh Hưng Yên.

    1. Nghề làm tương - Đỗ Đức, 27/7/2007, Trung tâm Văn hóa Việt Nam tại Pháp (CCV).
    2. Tương làm theo lối truyền thống: Ngon miệng, rủi ro cao! - Mỹ Hằng, 10/10/2005, Tiền Phong Online.
    3. Sản xuất tương bần theo công nghệ mới - Mạnh Đồng, 09/09/2009, BÁO ĐẤT VIỆT.
    4. Công nghệ lên men truyền thống - Tương - CBHD Nguyễn Thúy Hương, Google Docs.
    5. Thực phẩm chức năng--Natto - Hồng Lê Thọ, 17/06/2008, Vietsciences.
    6. Tương Ta, Tương Tàu và Tương Nhật (Miso) - Dược Sĩ Trần Việt Hưng, 08/09/2010, Thư Viện Toàn Cầu.
    7. TÁC DỤNG CHỮA BỆNH CỦA ĐẬU NÀNH (ĐỖ TƯƠNG) - GS. Từ Giấy, http://www.ducquanam.com.
    8. Nghiên cứu bảo tồn và phát triển làng nghề tương Bần huyện Mỹ Hào - Hưng Yên - Đề cương luận văn tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế (2008-2009), Google docs.


     ❧ ❀ ❧



    TOP TOP