Showing posts with label Xuân Cầu. Show all posts
Showing posts with label Xuân Cầu. Show all posts

Kể chuyện làng: Xuân Cầu và tuổi thơ tôi

Wednesday, September 17, 2025

Kể chuyện làng: Xuân Cầu và tuổi thơ tôi

Hà Phan


Quê ngoại tôi ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, thuộc tỉnh Hưng yên. Ngày nhỏ cứ mùng 2 Tết Nguyên đán là ông ngoại lại đưa cả nhà về quê chúc Tết họ hàng.
Đó là một làng quê nằm bên phải Đường 5 (gọi là chợ Đường Cái) dù trong trí nhớ thì chả thấy chợ bao giờ. Trước khi vào làng sẽ phải qua một con sông không rộng lắm nhưng nước xanh trong. Làng Xuân Cầu là một làng quê mang đậm nét của những làng quê đồng bằng Bắc bộ, với những ngôi nhà ba gian hai chái, mái lợp ngói cổ màu nâu cũ kỹ. Những cổng ngõ hình vòm được kết lại từ những cây duối xén gọn bên cạnh những rặng nhãn thấp xum xuê.

Đặc biệt đường làng được lát gạch xếp nghiêng nối liền xóm nọ với xóm kia tuy nhỏ xinh nhưng nhìn rất quy củ và sạch sẽ. Mẹ tôi kể: "Sở dĩ Xuân Cầu có được đường làng đẹp như vậy là nhờ từ xưa các cụ trong làng đã có lệ thách cưới đối với trai làng khác lấy vợ Xuân Cầu, đó là phải nộp số gạch lát đủ một đoạn đường làng coi như đóng góp với quê ngoại.

Xuân Cầu có một món đặc sản (giờ nói ra thì nghe hơi sợ nhưng ai đã thưởng thức rồi thì sẽ bị nghiền) đó là món chuột đồng hấp lá chanh chấm muối tiêu. Nhớ hồi đó sau mỗi mùa gặt, ông chú họ của mẹ lại đích thân đi bẫy chuột đồng. Chuột mùa này ăn thóc mới nên thịt thơm ngon chả khác thịt gà. Bẫy chuột về ông tự tay làm sạch, cặp vào lá chanh hấp rồi gửi cho các cháu ở xa.

Được ăn từ lúc chưa biết sợ nên sau này ai sợ thì sợ chứ mỗi khi nhận được quà của làng thì hầu như cả nhà đều rất hoan hỉ và thưởng thức nhiệt tình lắm!

Khi Mỹ ném bom phá hoại miền Bắc vào những năm 1964 - 1965. Chị em tôi theo bà ngoại về Xuân Cầu. Đó chính là lúc tuổi thơ có nhiều kỷ niệm với làng quê hơn bao giờ hết. Nhớ nhất là cứ mỗi buổi chiều về. Lũ trẻ lại theo bà ra sông quê tắm.

Con sông trong xanh mát rượi có bờ cát hẹp thoai thoải là nơi chị em tôi được dịp vùng vẫy nô đùa. Sau này sống ở nơi xa, tôi nhớ nhất là những kỷ niệm với con sông quê ấy. Cũng vào những ngày chiến tranh sơ tán ấy chúng tôi được nghe kể về quê ngoại nhiều hơn. Đó là chuyện ông Tô Hiệu bị giặc Pháp bắt giam ở nhà tù Sơn La và ông đã trồng một cây đào ở đó (sau này khi có dịp đi thăm nhà tù Sơn La, mấy chị em tôi đã chụp ảnh bên cây đào mang tên ông). Là chuyện họa sĩ Tô Ngọc Vân - một trong bốn cái tên của bốn họa sĩ gạo cội của nền mỹ thuật nước nhà. Là chuyện nhà văn Nguyễn Công Hoan với tiểu thuyết "Bước đường cùng" mà học sinh của thế hệ trước đã từng học...

Vậy nên có thể nói làng Xuân Cầu là một làng quê có truyền thống cách mạng và khoa bảng. Từng hạt phù sa thấm đẫm truyền thống ấy của làng quê đã chảy vào những thế hệ sau, cho chúng tôi niềm tự hào về ông cha, nhắc nhở chúng tôi tiếp bước thế hệ đi trước mà sống sao cho xứng đáng, nên người.

Hà Phan
Ảnh chụp cây cầu dẫn vào làng. Ảnh: Tác giả cung cấp


Cổng làng mới (mẹ và hai em của tác giả đứng từ bên phải ảnh qua). Ảnh: Tác giả cung cấp


Ảnh gia đình tác giả chụp cùng ông bà ngoại (bên trái ảnh) và ông chú. Ảnh: Tác giả cung cấp


Ba chị em họ chụp ảnh cùng cây đào Tô Hiệu ở nhà tù Sơn La. Ảnh: Tác giả cung cấp






Hưng Yên - Quê hương của 2 Tổng Bí thư

Sunday, September 14, 2025

Hưng Yên - Quê hương của 2 Tổng Bí thư

Truyền hình Hưng Yên - HYTV


Từ xưa Hưng Yên đã nổi danh với câu ca, thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì Phố Hiến. Và thật trùng hợp khi sau 94 năm Đất nước ta có Đảng lãnh đạo, Hưng Yên trở thành vùng đất là quê hương của hai đồng chí Tổng Bí thư BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một điều đặc biệt nữa là nếu như cố TBT Đỗ Mười quê Hà Nội là người kế nhiệm của cố TBT Nguyễn Văn Linh quê Hưng Yên thì TBT Chủ tịch nước Tô Lâm quê Hưng Yên là người kế nhiệm của cố TBT, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng quê Hà Nội.

Xuân Cầu

Wednesday, September 10, 2025

Giới thiệu chung

Làng Xuân Cầu là một làng có từ lâu đời ở xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Xuân Cầu, xưa kia còn có tên gọi là Hoa Cầu, Huê Cầu, Xuân Kỳ. Làng có từ đời nhà Đường, trong làng còn có 4 giếng đá kiểu Trung Quốc. Đời vua Thiệu Trị, vì kỵ húy đổi là Xuân Kỳ nhưng nhân dân quen dùng tên cũ, mà đọc chệch đi là Huê Cầu. Làng có nghề nhuộm thâm từng đi vào ca dao cổ tích, và món đặc sản là bánh mỡ nổi tiếng. Nhưng gần đây đã thất truyền và trong làng, những di tích xưa cũng không còn.

Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền.

 


Đặc sản:

Bánh Xuân Cầu

Bánh Xuân cầu là loại bánh rán mỡ thường được dùng rất phổ biến tại miền Bắc xưa kia, nay đã mai một [2]. Bánh vuông bằng hai ngón tay và mỏng như tờ giấy bản, được bỏ vào chảo chiên phồng, nở phồng với nhiều màu sắc tươi đẹp, ăn với mật ong, có vị ngọt, béo, bùi và thơm [2].

Vải thâm Xuân Cầu

Theo truyền thuyết thì nghề nhuộm vải thâm ở Huê Cầu (Xuân Cầu) cũng có ngót nghét 2.000 năm [1]. Thuốc nhuộm là củ nâuCủ nâu - Dioscorea cirrhosa Lour., thuộc họ Củ nâu - Dioscoreaceae.

Mô tả: Dây leo, thân tròn, nhẵn, có nhiều gai ở gốc, có 1-2 củ mọc từ một mấu ở gốc thân, trên mặt đất, hình tròn, vỏ sần sùi, màu xám nâu, thịt đỏ hay hơi trắng. Lá đơn, hình tim dài độ 20cm, mọc so le ở gần ngọn. Hoa mọc thành bông. Quả nang có cuống thẳng, có cạnh. Hạt có cánh xung quanh.

Bộ phận dùng: Củ - Rhizoma Dioscoreae Cirrhosae, thường có tên là Thự lương.

Nơi sống và thu hái: Cây mọc hoang ở vùng rừng núi của nước ta, nhiều nhất ở các tỉnh Lào Cai, Quảng Ninh, Hà Tây, Thanh hoá, Nghệ An. Có khi được trồng. Là cây thường dùng để nhuộm vải lưới cho có màu nâu bền. Cũng dùng để thuộc da. Củ thường được bán ở các chợ nông thôn và thành phố. Tuỳ theo màu sắc của nhựa, màu đỏ nhạt, màu xám nhạt, màu vàng nhạt hay hơi hồng, mà người ta gọi tên Củ nâu dọc đỏ, củ nâu dọc trai và củ nâu trắng. Củ nâu dọc trai dùng nhuộm tốt hơn.

Thành phần hoá học: Củ chứa nhiều tanin catechic (đến 6,4%) và có tinh bột.

Tính vị, tác dụng: Củ nâu có vị ngọt, chua và se, tính bình, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, sát trùng, cầm máu, hoạt huyết, cầm ỉa.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Ngoài việc dùng để nhuộm. Củ nâu có thể dùng ăn. Người ta gọt bỏ vỏ ngoài đem ngâm dưới suối nước chảy nhiều ngày đêm cho hết chất chát, mới có thể dùng luộc ăn. Củ nâu được dùng làm thuốc chữa các chứng tích tụ hòn báng, xích bạch đới, băng huyết, ỉa chảy và lỵ. Ở Trung Quốc, Củ nâu dùng chữa: 1. Chảy máu tử cung, xuất huyết trước khi sinh; 2. Ho ra máu, thổ huyết, ỉa ra máu, đái ra máu; 3. Viêm ruột, lỵ; 4. Thấp khớp tạng khớp, liệt nhẹ nửa người. Dùng ngoài trị bỏng, đòn ngã tổn thương, đinh nhọt và viêm mủ da, bị thương chảy máu. Liều dùng 10-15g, dạng thuốc sắc; bên ngoài nghiền củ để đắp.
, đun trong nước lá sòiSòi - Sòi, Sòi xanh - Sapium sebiferum (L.) Roxb., thuộc họ Thầu dầu - Euphorbiaceae.

Mô tả: Cây gỗ rụng lá cao 6-15m. Lá mọc so le, hình quả trám, dài 3-7cm, chóp lá thuôn nhọn, cuống lá dài có tuyến. Hoa đơn tính, màu trắng vàng hay vàng, mọc thành bông ở nách lá hoặc đầu cành. Hoa cái nhiều, ở gốc, hoa đực ở trên. Hoa đực có đài hình đầu phân thuỳ hoặc có răng, nhị 2, bao phấn gần hình cầu. Hoa cái có đài hợp, 2-3 thuỳ và nhuỵ 3, bầu hình trứng có 3 ô. Quả hạch hình cầu có 3 hạt.

Cây ra hoa tháng 6-8, quả tháng 10-11.

Bộ phận dùng: Vỏ rễ, vỏ thân, lá, hạt - Cortex Radicis, Cortex et Folium Sapii Sebiferi. Vỏ rễ thường có tên là Ô cữu căn bì

Nơi sống và thu hái: Cây của Ðông Á châu ôn đới và cận nhiệt đới, mọc hoang ở vùng đồi núi. Có khi được trồng làm cây cảnh. Thu hái vỏ rễ và vỏ cây quanh năm, thái nhỏ và phơi khô. Lá thường dùng tươi.

Thành phần hoá học: Vỏ rễ chứa xanthoxylin, acid tanic.

Tính vị, tác dụng: Sòi có vị đắng, tính hơi ấm, có độc; có tác dụng sát trùng, giải độc, lợi niệu, thông tiện, tiêu thũng, trục thuỷ.

Công dụng, chỉ định và phối hợp: Thường dùng chữa:
1. Phù thũng, giảm niệu, táo bón;
2. Bệnh sán máng, cổ trướng, xơ gan;
3. Viêm gan siêu vi trùng;
4. Ngộ độc nhân ngôn;
5. Rắn độc cắn.

Thân và lá dùng chữa viêm mủ da, ngứa lở thấp chẩn, chai cứng. Dùng vỏ rễ 3-6g, lá 9-15g, đun sôi lấy nước uống. Giã lá tươi để đắp ngoài, hoặc nấu nước để rửa.

Ở Vân Nam (Trung Quốc) còn được dùng trị tiểu tiện không thông, viêm âm đạo.

Ðơn thuốc:
1. Phù thũng, Rễ Sòi tươi, lấy màng thứ nhì 15g, đường 15g, đun sôi lấy nước uống.
2. Bệnh sán máng: Lá Sòi 8-30g, sắc uống. Dùng liền trong 20-30 ngày.
3. Phù thũng, cổ trướng, đại tiện không thông, ứ nước hoặc bí đầy, ăn uống không xuôi: Màng rễ Sòi (lớp trắng ở trong), Mộc thông, hạt Cau, mỗi vị 12g, sắc uống.
4. Ngộ độc: Lá Sòi 1 nắm giã nhỏ, chế nước vào, vắt lấy nước cốt uống.
(một loại cây thân gỗ mọc hoang), có nơi dùng lá bàng, hoặc hạt dền như trong câu ca dao, sau đó lấy bùn trát kín vài lần. Sau khi nhuộm xong, tấm vải có mầu đen thâm, không phai và tấm vải cực kỳ dai và bền, dày dặn nhưng mặc lại không nóng, không bí [1].


Danh nhân Làng Xuân Cầu

Làng Xuân Cầu còn có nhiều Danh nhân như: Họa sĩ Tô Ngọc Vân, nhà văn Nguyễn Công Hoan, nhà cách mạng Tô Hiệu, nhà cách mạng Lê Văn Lương.

Tham khảo

  1. Vải nhuộm thâm làng Huê Cầu
  2. Vũ Bằng - Miếng ngon Hà Nội, bánh Xuân Cầu
  3. Thịt chuột ký sự
  4. Đặc sản bánh Xuân Cầu của làng đã bị mai một



Mời xem các bài về Xuân Cầu



Video Làng Xuân Cầu


Truyền hình Hưng Yên - HYTV




Làng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm – Mảnh đất địa linh sinh nhân kiệt

Friday, August 9, 2024

Làng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm – Mảnh đất địa linh sinh nhân kiệt

Truyền hình Hưng Yên

“Thuật bút Xuân Cầu”

Sunday, August 4, 2024

“Thuật bút Xuân Cầu”

Khánh Duy

Làng Xuân Cầu (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) là một làng quê lâu đời, tiêu biểu của đồng bằng Bắc Bộ. Đây còn được biết đến là nơi sinh ra những con người nổi tiếng như nhà cách mạng Tô Chấn, Tô Hiệu, Lê Giản, Lê Văn Lương; họa sĩ Tô Ngọc Vân; nhà văn Nguyễn Công Hoan… Với mong muốn gìn giữ những nét văn của làng quê cũng như giới thiệu đến đông đảo công chúng về đất và người nơi đây, những người con của Hưng Yên đã thành lập Dự án sách “Thuật bút Xuân Cầu”.
Đoàn làm việc tặng cuốn sách “Danh nhân Hưng Yên” cho đại diện lãnh đạo tỉnh Hưng Yên
Làng Xuân Cầu xưa có tên gọi là Hoa Cầu, Huê Cầu, Xuân Kỳ... Xuân Cầu theo sử sách có từ đời nhà Đường, trong làng còn có 4 giếng đá kiểu Trung Quốc. Đời vua Thiệu Trị, vì kỵ húy đổi là Xuân Kỳ nhưng Nhân dân quen dùng tên cũ, mà đọc chệch đi là Huê Cầu.

Nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn, Chủ biên cuốn sách “Thuật bút Xuân Cầu” chia sẻ về cuốn sách


Chủ biên cuốn sách “Thuật bút Xuân Cầu”, nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn chia sẻ: xuất phát từ tình yêu quê hương đất nước, chúng tôi thấy rằng, Xuân Cầu là ngôi làng rất cần được nghiên cứu trong lịch sử. Bên cạnh đó, viết một cuốn sách về dư địa chí của làng khác biệt với các cuốn sách viết về dư địa chí của một vùng miền hoặc một tỉnh nào đó, mỗi làng đều có đặc thù văn hóa, phong thủy riêng bao gồm cả nền văn học với những nhân vật lịch sử, danh nhân có thể được gọi là địa linh nhân kiệt, văn võ song toàn. Và văn hóa làng từ xưa đến nay chính là tế bào của xã hội, rất quan trọng, góp phần chấn hưng và phát triển văn hóa của Việt Nam. Dự án sách là tâm huyết của các tác giả mong muốn ghi nhận sự phát triển văn hóa làng quê truyền thống của đất nước, mà bước đầu là làng Xuân Cầu, một trong những địa danh văn hóa lịch sử của tỉnh Hưng Yên.

Phó Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ Quân đội, nhà văn Phùng Văn Khai chia sẻ về cuốn sách


Phó Tổng Biên tập Tạp chí văn nghệ Quân đội, đồng chủ biên cuốn sách, Nhà văn Phùng Văn Khai cho biết thêm: hiện nay, để thực hiện dự án này, hội đồng khoa học lên tới khoảng 20 giáo sư, tiến sĩ và các cộng tác viên khác.

Chúng tôi chia làm 6 lĩnh vực, cùng hoạt động song song với nhau như: lịch sử, văn hóa, kiến trúc, văn học, khoa học công nghệ… Mỗi lĩnh vực đều có các chuyên gia, nhà nghiên cứu để thẩm định thông tin về làng Xuân Cầu cũng như thực hiện các công tác liên quan để thực hiện dự án. Hiện, bản thảo đã lên xong, dự kiến cuối năm 2024, cuốn sách sẽ được ra mắt.

Cuốn sách được chia làm 3 phần, giới thiệu về làng Xuân Cầu từ thuở khai thiên lập địa đến ngày nay, gắn với làng là những di tích văn hóa, lịch sử, những người con ưu tú đã góp phần làm nên đất nước. Hồn cốt của cuốn sách tập trung nêu bật tiến trình văn hóa lịch sử diễn ra như thế nào ở một vùng đất với những đình, chùa, miếu, danh nhân, danh tướng trong thời đại Hồ Chí Minh.

Hội đồng biên soạn thăm không gian lưu niệm nơi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Hưng Yên


Lý giải về tên cuốn sách, nhà văn Nguyễn Xuân Tuấn cho biết: “Thuật bút Xuân Cầu” có nghĩa là dùng thuật của ngòi bút để viết về địa danh lịch sử, về nhân vật lịch sử, đó là sự sáng tạo của Hội đồng biên soạn tạo ra một dòng riêng của sách về làng.

Hội đồng biên soạn tặng bản thảo sách "Thuật bút Xuân Cầu" cho lãnh đạo xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang


Tuy mới được khởi động từ đầu tháng 7.2024, nhưng với tinh thần làm việc khẩn trương, cuốn sách hứa hẹn sẽ là một tác phẩm văn học mẫu mực về một vùng đất “bước chân ra là gặp người nổi tiếng”.


Khánh Duy



Xem thêm:
“Thuật bút Xuân Cầu” góp phần phát triển văn hóa làng quê Việt Nam - Thanh Dung - Báo điện tử Nhân Dân, Thứ sáu, ngày 02/08/2024
Nguồn: Báo Đại biểu Nhân dân - Thứ Sáu, 02/08/2024

Dòng họ Tô trên đất Văn Giang

Thursday, May 23, 2024

Dòng họ Tô trên đất Văn Giang

Hoa Phương

Nhà tưởng niệm Liệt sỹ Tô Hiệu, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang)
Theo sách họ Tô Việt Nam, ở Văn Giang có nhiều chi họ Tô khác nhau. Tuy nhiên, các chi họ Tô ở xã Nghĩa Trụ (trước đây là Tổng Xuân Cầu) tồn tại lâu đời nhất. Ngày nay, họ Tô ở xã Nghĩa Trụ tập trung đông nhất ở thôn Tam Kỳ với khoảng 10 chi: Chi họ Tô cụ Đốc Nam, chi họ Tô cụ Đốc Đông, chi họ Tô Xuân, chi họ Tô Trân, chi họ Tô cụ Đám Ký... Ngoài ra, xã Nghĩa Trụ còn các chi họ Tô ở thôn Phúc Thọ, thôn Đồng Tỉnh, thôn Đại Tài.

Dù ở giai đoạn nào, dòng họ Tô ở xã Nghĩa Trụ (Văn Giang) cũng có nhiều đóng góp đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiêu biểu là phó bảng Tô Huân, Đốc học Hải Dương, đỗ phó bảng năm Mậu Thìn (1868); cử nhân đốc học Nam Định Tô Ngọc Nữu. Ngoài ra, còn có nhiều người đỗ cử nhân hoặc tương đương như: Tô Thuần, Tô Hiến, Tô Đăng... Trong đó, không thể không nhắc đến Tiến sĩ Tô Trân, Tuần phủ Định Tường, đỗ tiến sĩ năm Bính Tuất (1826). Sau đó, ông giữ chức Hàn lâm viện biên tu. Sau được thăng làm Tuần phủ Định Tường, thường xuyên đối phó với sự xâm phạm, quấy nhiễu của nước Chân Lạp. Năm 1848, ông giữ chức Tả tham tri bộ Lễ, làm việc ở sử quán và kiêm nhiệm vụ Nhật giảng quan ở Kinh Diên. Sự nghiệp lớn lao mà ông để lại cho hậu thế là các công trình sử học như: Minh Mạng chính yếu, Đại Nam thực lục.

Đến thế kỷ XX, XXI, đội ngũ trí thức yêu nước, nhân tài của dòng họ Tô ở Văn Giang ngày càng đông đảo và có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực. Trong đó, giai đoạn đấu tranh kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong hàng ngũ cán bộ cách mạng có không ít trường hợp cả vợ - chồng, anh - chị - em ruột cùng giác ngộ lý tưởng cộng sản và tham gia các phong trào đấu tranh yêu nước, giải phóng dân tộc. Hai anh em ruột Tô Chấn, Tô Hiệu ở Tổng Xuân Cầu là trường hợp như thế.

Tô Chấn sinh năm 1904. Từ năm 1925, đồng chí tham gia các hoạt động trong các tổ chức yêu nước ở Hà Nội, Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Năm 1927, đồng chí tham gia tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu và trở thành đảng viên cốt cán, được cử làm Đảng trưởng kỳ bộ Nam Kỳ. Năm 1930, khởi nghĩa Yên Bái thất bại, Nguyễn Thái Học bị thực dân Pháp kết án tử hình. Tô Chấn được đề cử thay Nguyễn Thái Học và tiến hành mưu sát tên toàn quyền Đông Dương Pasquier và tên toàn quyền Nam Dương Degreff. Việc chưa thành, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án tử hình, sau đó giảm xuống tù chung thân và đày ra Côn Đảo. Giai đoạn 1930 – 1936, đồng chí trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và hăng hái tham gia các phong trào đấu tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù... Năm 1936, đồng chí được Chi bộ nhà tù bố trí vượt tù cùng với một số đồng đội khác. Trong quá trình vượt xiềng xích ngục tù, các đồng chí hy sinh trên biển.

32 năm cuộc đời, đồng chí Tô Hiệu (1912 – 1944) có hơn một nửa thời gian tham gia hoạt động cách mạng và lãnh đạo nhiều phong trào đấu tranh ở Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng và các tỉnh miền duyên hải Bắc Bộ. Năm 1940, khi bị thực dân Pháp đày lên nhà tù Sơn La, đồng chí vẫn tích cực tham gia đấu tranh các chế độ hà khắc của thực dân với người tù, thành lập Chi bộ nhà tù Sơn La; đồng chí biến nhà tù thành trường học, đào tạo nhiều cán bộ cốt cán cho Đảng, cách mạng.

Năm 1944, trước khi hy sinh, đồng chí vẫn trăn trở căn dặn đồng đội “Ánh sáng ngày mai đã ló ở chân trời, hãy chuẩn bị đương đầu với những thử thách lớn nhất!”.

Thời kỳ này còn có nhà văn hóa lớn Tô Ngọc Vân ở Xuân Cầu, danh họa nổi tiếng của nền hội họa hiện đại Việt Nam. Ông hy sinh trong Chiến dịch Điện Biên Phủ và được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật.

Ngoài các bậc cách mạng tiền bối, danh nhân văn hóa tiêu biểu kể trên, dòng họ Tô ở Văn Giang còn có những người con ưu tú như: Đồng chí Tô Quang Đẩu, nguyên Thứ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội; đồng chí Tô Gĩ (Lê Giản) nguyên Bộ trưởng Bộ Công an đầu tiên của chính quyền cách mạng; đồng chí Lê Văn Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội là cháu ngoại cụ Đốc Nam Tô Ngọc Nữu...

Ngày nay, những người con họ Tô ở mảnh đất Văn Giang dù ở đâu, làm gì cũng luôn khắc ghi về truyền thống dòng họ, quê hương để tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp xây dựng Đảng, phát triển đất nước. Trong đó, các thành viên họ Tô ở Văn Giang đã có nhiều đóng góp trên các lĩnh vực khác nhau như: Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an; Giáo sư – Tiến sĩ khoa học Tô Ngọc Thanh, Nghệ sỹ ưu tú Tô Lan Phương; Tiến sỹ Tô Thị Tường Vân...

Để giáo dục thế hệ sau truyền thống hào hùng của quê hương, tri ân, tưởng nhớ những đóng góp của các nhà hoạt động cách mạng, danh nhân văn hóa họ Tô, ngày nay, huyện Văn Giang có một số công trình mang tên các nhà cách mạng họ Tô như: Đường Tô Hiệu, trường Tiểu học Tô Hiệu ở xã Nghĩa Trụ, trường mầm non Tô Quyền, xã Nghĩa Trụ, Quỹ học bổng Tô Hiệu, Quỹ học bổng Tô Quyền... Đồng chí Đỗ Thị Thanh, Hiệu trưởng Trường mầm non Tô Quyền chia sẻ: Tập thể cán bộ, giáo viên, phụ huynh học sinh nhà trường đều rất tự hào khi được làm việc, gửi con theo học tại ngôi trường mang tên anh hùng LLVT nhân dân Tô Quyền.

Đồng chí Vũ Văn Tiệp, Bí thư Đảng ủy xã Nghĩa Trụ cho biết: Năm 2021, xã đã hoàn thành nâng cấp, xây dựng thêm dãy phòng học trường Tiểu học Tô Hiệu. Quỹ học bổng Tô Hiệu được thành lập từ năm 1996 đến nay là niềm động viên, khích lệ kịp thời các học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong học tập. Quỹ học bổng Tô Quyền do thành viên dòng họ Tô quản lý góp phần tạo động lực cho các em học sinh thi đỗ đại học của xã nỗ lực trên con đường chinh phục tri thức. Ngoài ra, các thành viên dòng họ Tô dù sinh sống, làm việc ở nơi đâu luôn nhớ về dòng họ, quê hương, có nhiều đóng góp vào các phong trào, hoạt động của địa phương...

Thắp nén nhang thơm tại Nhà tưởng niệm liệt sỹ Tô Hiệu, chúng tôi không khỏi tự hào, kiêu hãnh về các bậc tiền bối đi trước. Tin tưởng rằng, các thành viên họ Tô nói riêng và Nhân dân xã Nghĩa Trụ nói chung sẽ tiếp tục học tập, rèn luyện, lao động và trưởng thành, đóng góp tích cực vào sự phát triển của quê hương, đất nước...

Vài nét về làng quê Xuân Cầu - Nguyễn Công Hoan

Thursday, May 16, 2024

Vài nét về làng quê Xuân Cầu

Nguyễn Công Hoan
biên soạn 3/1974

Bí ẩn về số 7 trong lòng hai giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi ở Hưng Yên

Tuesday, August 30, 2022

Bí ẩn về số 7 trong lòng hai giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi ở Hưng Yên

Thu
Kích thước ᴄủa những viên ցạch và cối đá xếp tronց lònց 2 giếng ᴄổ ở Hưng Yên đều liên զυan đến ᴄon số 7 khiến nցười dân khó lý ցiải.
Con số 7 kỳ lạ tronց lònց giếng ᴄổ

Trải qua cả nցàn năm, 2 chiếc giếng ᴄổ ở thôn Tam Kỳ (ҳã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên) nước vẫn đầy ắp và tronց vắt. Tuy nhiên, nցười dân hiện nay đã khônց ᴄòn sử dụnց phổ biến như nցàγ xưa do đã có nước máγ.

Giếng ᴄổ Cổng Đồng nằm ở vệ đường lớn, ցần với ᴄổng làng và ao đình.


Chiếc giếng Cổng Đồng hơn 1.200 tuổi từng bị lấp đã đượᴄ nցười dân khôi phục và bảo vệ cẩn thận. Giếng Đình Ba hơn 1.300 tuổi nằm tronց khuôn viên ᴄủa một gia đình thì vẫn đượᴄ gia đình nàγ sử dụnց và ցìn ցiữ.

Có một điềυ mà nցười dân Tam Kỳ lấγ làm lạ, đó là những viên ցạch và cối đá զυanh lònց giếng đều liên զυan đến số 7. Gạch có 14 viên thì viên nào ᴄũnց có chiều dày 7cm, chiều nցang 17cm và dài là 27cm; cối đá có 11 chiếc, chiếc nào ᴄũnց ᴄao 17cm, đáy 27cm và miệnց là 37cm.

Chúnց tôi trao đổi với GS sử học Lê Văn Lan – nցười góp ᴄônց khôi phục giếng ᴄổ nàγ nhưnց ônց ᴄho haγ, ônց ᴄhỉ là nցười làm lịch sử và góp phần khôi phục lại chiếc giếng ᴄổ Cổng Đồng chứ khônց biết ցì về những điềυ liên զυan đến ᴄon số 7 tronց ցạch và cối đá dưới lònց giếng.

“Tôi ᴄhỉ biết giếng đó là một vết tíᴄh từ thời thực dân địa ᴄủa Trυnց Quốc chứ tôi khônց hiểu biết về phong thủy haγ bói toán nên khônց biết ᴄon số 7 có ý nghĩa ցì”, GS Lan ᴄho biết.

Những viên ցạch và cối đá xếp tronց lònց giếng đều có kíᴄh thước liên զυan đến số 7 khó lý ցiải.


Ông Đặng Xuân Chính – nցười làng Tam Kỳ bỏ nhiều ᴄônց sứᴄ tìm hiểu về chiếc giếng ᴄổ ᴄũnց ᴄhưa thể lý ցiải đượᴄ vì sao ᴄáᴄ cụ nցàγ xưa lại lấγ ᴄon số 7 để đưa vào kíᴄh thước ᴄáᴄ viên ցạch, cối đá dưới giếng.

“Tôi ᴄho rằng, nցàγ xưa ᴄáᴄ cụ coi số 7 là ᴄon số may mắn nên làm ցạch và cối đá đều liên զυan đến ᴄon số 7”, ônց Chính phỏng đoán.

Ông Chính ᴄho biết thêm, những viên ցạch có kíᴄh thước liên զυan đến số 7 ᴄòn ցọi là “ցạch thất”. Hồi khôi phục lại giếng, ônց tìm hiểu thì biết có một gia đình ở Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) vẫn ᴄòn lưu ցiữ khuôn đóng loại ցạch nàγ nên đã sang nhờ nցười ta đóng và bán ᴄho một ít về để xếp dưới giếng.

Chẳng ai hiểu đượᴄ ᴄhính ҳáᴄ ý nghĩa ᴄủa số 7 tronց kíᴄh thước ᴄủa những viên ցạch và những cối đá xếp tronց lònց 2 giếng ᴄổ thôn Tam Kỳ. Thế nhưnց, có một điềυ nցười dân nhìn thấγ rất rõ ràng, những viên ցạch, cối đá xếp so le ᴄhồnց lên nhaυ rất vừa khít, chẳng cần ρhải vôi vữa nhưnց đã trường tồn qua cả nցàn năm.


“Báu vật” ᴄủa dân làng

Nցày trước khi ᴄhưa có nước máγ, 2 chiếc giếng ᴄổ ở thôn Tam Kỳ luôn đônց đúc, nhộn nhịp nցười đến tắm giặt, gánh nước sinh hoạt. Mùa mưa, nước dâng ᴄao đến ցần miệnց có thể dùng gáo múc; mùa ᴄạn giếng ᴄũnց ᴄhưa bao ցiờ hết nước.

Ông Đặng Xuân Chính –nցười làng Tam Kỳ, ҳã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên.


Ông Chính nhớ hồi ᴄòn nhỏ, ônց và ᴄáᴄ bạn ᴄùnց trang lứa vẫn ra sân đình ᴄhơi haγ đi chăn trâu về khát thì vục chiếc nón xυốnց múc nước lên υốnց.

“Nước rất ngọt và mát, dù υốnց nước lã nhưnց khônց hề bị đau bụnց. Dân làng khi đi làm đồnց về qua, dừng ᴄhân lại giếng rửa ᴄhân taγ, mặt mũi thì tỉnh táo cả nցười”, ônց Chính ᴄhia sẻ.

Có năm hạn hán lớn, ao hồ nhiều nơi ᴄạn trơ đáy, nhiều giếng khơi ᴄủa nցười dân hết nước nhưnց tuyệt nhiên, 2 chiếc giếng ᴄổ ở Tam Kỳ vẫn đầy ắp nước. Dân ᴄáᴄ làng lân cận đến xin nước, xếp hànց lần lượt nցười nàγ đến nցười kia múc đầy ᴄáᴄ thau, chậu, xô, thùng phi… manց về mà giếng ᴄhỉ vơi đi chứ khônց ᴄạn.

Sau khi đượᴄ khôi phục, nցười dân bảo vệ những chiếc giếng ᴄổ rất cẩn thận.


Người dân ᴄòn kể lại rằng, ᴄon ցái làng nցàγ xưa tắm bằng nước giếng nhiều nên da dẻ hồng hào, khỏe mạnh; tóᴄ thì luôn mượt, đen như gỗ mun.

Lý ցiải điềυ nàγ, ônց Chính ցiải thích: “Quan trọng là nước giếng sạch, khônց ô nhiễm nên sử dụnց nước nàγ sẽ đỡ bệnh tật, da dẻ khônց có mụn nhọt… Thế nên nցười dân đồn vậγ ᴄũnց khônց có ցì sai”.

Được biết, giếng Đình Ba ᴄòn gắn với di tíᴄh Quán Dố – một ngôi miếu ᴄổ thờ Ma lỗ Đại Vương. Theo lệ làng, ᴄứ đến thánց Sáu âm lịch, dân làng tổ chứᴄ lễ rước nước từ giếng về Quán Dố để cầu mưa.

Khi ấγ, ᴄáᴄ cụ ᴄao niên tronց làng sẽ khăn áo ᴄhỉnh tề, trai tráng thì vác kiệu, vác lọng, bê ché ra trước giếng, xin “Thần giếng” ᴄho nước thiêng về thờ tại Quán Dố, cầu ᴄho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Nguồn: News Magazine - 18 Tháng Tám, 2022

Nghề nhuộm thâm ở Xuân-Cầu

Saturday, January 29, 2022

Nghề nhuộm thâm ở Xuân-Cầu

Một người ở Xuân-Cầu lai cảo
Đăng trong Annam Tạp chí - Số 1 năm 1926

Làng Xuân Cầu trong tranh Tô Ngọc Vân

Monday, December 13, 2021

Làng Xuân Cầu trong tranh Tô Ngọc Vân

Cổng làng - Chì - trước năm 1945.

Làng cách mạng Xuân Cầu

Saturday, May 22, 2021

Làng cách mạng Xuân Cầu

ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH HƯNG YÊN


Nguồn: TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ - ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH HƯNG YÊN - Trang chủ >> Truyền hình >> Đất và người Hưng Yên - 27/01/2021

... Giận cá chém thớt, (Pháp) nã đại bác bắn vào làng Xuân Cầu

Hà Nội xưa và nay (Trích)

Tập Ký của Bạch Diện Nguyễn Văn Cư.
NXB Hội Nhà văn, 10-2015.

[...]
Đầu năm 1954, ta mở trận tấn công vào Điện Biên Phủ. Bộ đội ta kéo pháo lên đỉnh núi nã tới tấp vào các hầm hào của chúng, phá vỡ từng mảng. Dưới mặt đất, bộ đội ta vừa đánh vừa đào hầm tiến sát vào cứ điểm của chúng. Súng cao xạ đặt như chăng lưới bắn rơi máy bay của chúng như sung rụng. Tên de Castries, chỉ huy cứ điểm này và quân đội chúng rất đông bị bao vây luôn đánh điện cầu cứu. Nhưng không sao cứu nổi, vì ô-tô của chúng không thể tiến vào được nữa, còn máy bay của chúng tiếp tế quân và khí giới lương thực bị ta bắn rơi, những tên lính nhảy dù xuống đều bị ta bắt sống. Trong khi ta mở trận tiến công vào Điện Biên Phủ, thì các mặt trận khắp nơi từ Nam ra Bắc cũng đánh Pháp dồn dập. Pháp bị thua đậm, chúng giận cá chém thớt, nã đại bác bắn vào làng Xuân Cầu thuộc huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên là quê hương ông Tô Hiệu (một chiến sĩ Cộng sản bị hy sinh từ năm 1930) và của các ông đương tham gia kháng chiến như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Hiếu(1), Tô Gi, Tô Quang Đẩu và nhiều ông khác nữa. Ngôi đình cổ, ngôi miếu cổ và cả tòa nhà của ông bác ruột ông Nguyễn Công Hoan bị phá rụi.


Trận chiến Điện Biên Phủ là trận chiến quyết liệt và rực rỡ trong lịch sử nước ta. Ngày 7 tháng 5 năm 1954, ta hoàn toàn thắng lợi, chiếm cứ điểm của chúng, cắm lá Quốc kỳ lên nóc hầm tên tướng chỉ huy Pháp de Castries. Toàn bộ tướng, tá, binh lính Pháp đều bị bắt làm tù binh. Chính phủ Pháp phải nhờ Chính phủ Ba Lan nói với ta xin điều đình để rút quân về nước. Từ Hội nghị Trung Giã (tại Thái Nguyên) đến hội nghị Genève do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu phái đoàn trong cuộc điều đình ta đều thắng lợi. Đế quốc Mỹ rất căm về trận đại bại này của Pháp, nên sau hội nghị Genève, Mỹ bắt de Castries phải sang Mỹ tường trình về việc bị ta tiến công và Pháp bị đại bại.

(1): Có lẽ tác giả nhầm; chắc là Nguyễn Công Miều (tức Lê Văn Lương).
Nguồn: Hà Nội xưa và nay (tiếp & hết) - trieuxuan.info. (trang web chuyên về Văn học Nghệ thuật của nhà văn Triệu Xuân), Thứ ba, 11:03 Ngày 04/04/2017

NSND Tô Lan Phương trong "Đất nước tình yêu 30/4/1975 - 30/4/2020"

Saturday, May 2, 2020

NSND Tô Lan Phương trong "Đất nước tình yêu 30/4/1975 - 30/4/2020"

MC Mỹ Vân- Anh Tuấn


Nguồn: YouTube

Nghệ sỹ Xuân Hinh dâng văn 775 năm ngày sinh Thành hoàng làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ

Sunday, November 10, 2019

Nghệ sỹ Xuân Hinh dâng văn 775 năm ngày sinh Thành hoàng làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ



Nguồn: Dat Tuan - YouTube - 10/11/2019

Bí ẩn về số 7 trong lòng hai giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi ở Hưng Yên

Thursday, October 10, 2019

Theo Triệu Quang – Hoàn Như



Kích thước của những viên gạch và cối đá xếp trong lòng 2 giếng cổ ở Hưng Yên đều liên quan đến con số 7 khiến người dân khó lý giải.
Con số 7 kỳ lạ trong lòng giếng cổ

Trải qua cả ngàn năm, 2 chiếc giếng cổ ở thôn Tam Kỳ (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên) nước vẫn đầy ắp và trong vắt. Tuy nhiên, người dân hiện nay đã không còn sử dụng phổ biến như ngày xưa do đã có nước máy.


Giếng cổ Cổng Đồng nằm ở vệ đường lớn, gần với cổng làng và ao đình


Chiếc giếng Cổng Đồng hơn 1.200 tuổi từng bị lấp đã được người dân khôi phục và bảo vệ cẩn thận. Giếng Đình Ba hơn 1.300 tuổi nằm trong khuôn viên của một gia đình thì vẫn được gia đình này sử dụng và gìn giữ.

Có một điều mà người dân Tam Kỳ lấy làm lạ, đó là những viên gạch và cối đá quanh lòng giếng đều liên quan đến số 7. Gạch có 14 viên thì viên nào cũng có chiều dày 7cm, chiều ngang 17cm và dài là 27cm; cối đá có 11 chiếc, chiếc nào cũng cao 17cm, đáy 27cm và miệng là 37cm.

Chúng tôi trao đổi với GS sử học Lê Văn Lan – người góp công khôi phục giếng cổ này nhưng ông cho hay, ông chỉ là người làm lịch sử và góp phần khôi phục lại chiếc giếng cổ Cổng Đồng chứ không biết gì về những điều liên quan đến con số 7 trong gạch và cối đá dưới lòng giếng.

“Tôi chỉ chỉ biết giếng đó là một vết tích từ thời thực dân địa của Trung Quốc chứ tôi không hiểu biết về phong thủy hay bói toán nên không biết con số 7 có ý nghĩa gì”, GS Lan cho biết.


Những viên gạch và cối đá xếp trong lòng giếng đều có kích thước liên quan đến số 7 khó lý giải


Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ bỏ nhiều công sức tìm hiểu về chiếc giếng cổ cũng chưa thể lý giải được vì sao các cụ ngày xưa lại lấy con số 7 để đưa vào kích thước các viên gạch, cối đá dưới giếng.

“Tôi cho rằng, ngày xưa các cụ coi số 7 là con số may mắn nên làm gạch và cối đá đều liên quan đến con số 7”, ông Chính phỏng đoán.

Ông Chính cho biết thêm, những viên gạch có kích thước liên quan đến số 7 còn gọi là “gạch thất”. Hồi khôi phục lại giếng, ông tìm hiểu thì biết có một gia đình ở Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) vẫn còn lưu giữ khuôn đóng loại gạch này nên đã sang nhờ người ta đóng và bán cho một ít về để xếp dưới giếng.

Chẳng ai hiểu được chính xác ý nghĩa của số 7 trong kích thước của những viên gạch và những cối đá xếp trong lòng 2 giếng cổ thôn Tam Kỳ. Thế nhưng, có một điều người dân nhìn thấy rất rõ ràng, những viên gạch, cối đá xếp so le chồng lên nhau rất vừa khít, chẳng cần phải vôi vữa nhưng đã trường tồn qua cả ngàn năm.

Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên



“Báu vật” của dân làng

Ngày trước khi chưa có nước máy, 2 chiếc giếng cổ ở thôn Tam Kỳ luôn đông đúc, nhộn nhịp người đến tắm giặt, gánh nước sinh hoạt. Mùa mưa, nước dâng cao đến gần miệng có thể dùng gáo múc; mùa cạn giếng cũng chưa bao giờ hết nước.

Ông Chính nhớ hồi còn nhỏ, ông và các bạn cùng trang lứa vẫn ra sân đình chơi hay đi chăn trâu về khát thì vục chiếc nón xuống múc nước nước lên uống.

“Nước rất ngọt và mát, dù uống nước lã nhưng không hề bị đau bụng. Dân làng khi đi làm đồng về qua, dừng chân lại giếng rửa chân tay, mặt mũi thì tỉnh táo cả người”, ông Chính chia sẻ.

Có năm hạn hán lớn, ao hồ nhiều nơi cạn trơ đáy, nhiều giếng khơi của người dân hết nước nhưng tuyệt nhiên, 2 chiếc giếng cổ ở Tam Kỳ vẫn đầy ắp nước. Dân các làng lân cận đến xin nước, xếp hàng lần lượt người này đến người kia múc đầy các thau, chậu, xô, thùng phi… mang về mà giếng chỉ vơi đi chứ không cạn.


Sau khi được khôi phục, người dân bảo vệ những chiếc giếng cổ rất cẩn thận



Người dân còn kể lại rằng, con gái làng ngày xưa tắm bằng nước giếng nhiều nên da dẻ hồng hào, khỏe mạnh; tóc thì suôn mượt, đen như gỗ mun.

Lý giải điều này, ông Chính giải thích: “Quan trọng là nước giếng sạch, không ô nhiễm nên sử dụng nước này sẽ đỡ bệnh tật, da dẻ không có mụn nhọt… Thế nên người dân đồn vậy cũng không có gì sai”.

Được biết, giếng đình Ba còn gắn với di tích Quán Dố - một ngôi miếu cổ thờ Ma Lỗ Đại Vương. Theo lệ làng, cứ đến tháng Sáu âm lịch, dân làng tổ chức lễ rước nước từ giếng về Quán Dố để cầu mưa.

Khi ấy, các cụ cao niên trong làng sẽ khăn áo chỉnh tề, trai tráng thì vác kiệu, vác lọng, bê ché ra trước giếng, xin “Thần giếng” cho nước thiêng về thờ tại Quán Dố, cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.


Theo Triệu Quang – Hoàn Như (Dân Việt)

Nguồn: 24h theo Dân Việt - 22/9/2019


Mời xem bài:


“Đôi mắt thần” hơn 1.200 năm tuổi được dân làng Hưng Yên bảo vệ như báu vật

“Đôi mắt thần” hơn 1.200 năm tuổi được dân làng Hưng Yên bảo vệ như báu vật

Giếng cổ Cổng Đồng hơn 1.200 năm tuổi được người dân thôn Tam Kỳ bảo vệ cẩn thận.Giếng cổ Cổng Đồng hơn 1.200 năm tuổi được người dân thôn Tam Kỳ bảo vệ cẩn thận.


Người dân coi đây như “đôi mắt thần”, mang linh khí của làng nên lập ban thờ để hương khói và bảo vệ nghiêm ngặt.


Hai giếng cổ - “Đôi mắt thần” của làng

Làng quê Bắc Bộ xưa kia ghi dấu đậm nét với hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình. Mỗi làng hầu hết đều có một chiếc giếng làng để làm nơi sinh hoạt chung như tắm giặt, phục vụ sinh hoạt, lễ hội…

Thế nhưng thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ (huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) không chỉ sở hữu một mà có đến tận 2 chiếc giếng làng. Hai chiếc giếng này có niên đại đã hơn ngàn năm, chiếc cổ nhất hơn 1.300 năm, chiếc còn lại cũng đã hơn 1.200 năm.

Trải qua cả ngàn năm lịch sử, những chiếc giếng làng ở Tam Kỳ vẫn được người dân nơi đây gìn giữ, bảo vệ nên nước trong vắt. Người dân còn lập ban thờ, cúng tế và coi giếng như báu vật của làng. Đến hiện tại, có gia đình vẫn giữ thói quen dùng nước giếng này thay vì dùng nước máy.

Chúng tôi đến thôn Tam Kỳ vào những ngày đầu tháng 9. Như bao làng quên khác, Tam Kỳ cũng bắt đầu đổi mới, đường làng, ngõ xóm đã được trải bê tông phẳng lì.

Ngay đầu làng là phế tích của chiếc cổng làng cũ, rêu phong phủ kín nhưng người dân đã mở một con đường mới ở bên cạnh chứ không bắt buộc phải đi qua cổng làng nữa.

Đi thêm khoảng 100m nữa, chúng tôi bắt gặp một chiếc giếng ở ngay vệ đường to. Miệng giếng rộng khoảng 1m, được gác chắn bằng các thanh sắt và đậy bằng một tấm tôn có khoét lỗ nhỏ. Người dân dành riêng một khu đất để quây lại thành khuôn viên, có tường rào, cây cảnh, ban thờ và bảng chú thích lịch sử.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 2

Tấm biển ghi lại lịch sử của giếng do Giáo sư sử học Lê Văn Lan gắn


Trên tấm biển gần giếng đề tên Nhà sử học Lê Văn Lan có ghi: “Giếng cổ Cổng Đồng tuổi đã hơn 1.200 năm, có từ thời nhà Đường (thời Bắc thuộc) đã chứng kiến sự ra đời và biến đổi của quê hương ta, từ thuở có tên gốc là làng Hoa Kiều, chuyển thành Hoa Cầu, thay bằng Huê Cầu, rồi đẹp đẽ giờ đây Xuân Cầu.

Là nguồn nước trong lành, mát mẻ, đầy ắp của cuộc sống và sự thịnh vượng quê hương qua các đời nên giếng không thể bị vùi lấp. Vẻ vang thay. Quý giá thay. Những chí hướng, trí tuệ, tấm lòng và công sức của những ai khôi phục, bảo tồn, tôn tạo nơi “tụ Thủy như tụ Nhân” này”.

Cách chiếc giếng cổ này khoảng 200m là một chiếc giếng cổ khác mà theo người dân, nó có tuổi đời đã hơn 1.300 năm. Chiếc giếng nằm trong khuôn viên của một gia đình, cũng được bảo vệ bằng những thanh sắt và có đậy nắp. Gia đình này hiện sinh sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng về quê chơi và vẫn sử dụng nước giếng để sinh hoạt.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 3

Giếng Đình Ba tuổi đời hơn 1.300 năm nằm trong khuôn viên của một gia đình

Từng lấp giếng cổ làm đường đi

Thấy chúng tôi tò mò quanh chiếc giếng, ông Tô Xuân Lực – một người dân thôn Tam Kỳ ra tiếp chuyện. Theo ông Lực, từ khi ông sinh ra đã thấy chiếc giếng tồn tại ở vị trí ấy. Ngày xưa, dân làng ra giếng sinh hoạt, lấy nước về ăn nhộn nhịp mà giếng không khi nào hết nước.

Khoảng hơn 30 năm về trước, một con trâu bị ngã xuống giếng, người dân phải phá miệng giếng để cứu con trâu lên. Cũng sau vụ việc ấy, người dân Tam Kỳ đã lấp luôn chiếc giếng cổ hơn 1.200 tuổi, sau làm đường đi đè lên.

Chỉ khi được nhà sử học Lê Văn Lan về thông tin, người dân Tam Kỳ mới biết được giá trị lịch sử của chiếc giếng nên đã lên kế hoạch khôi phục, gìn giữ và bảo vệ.

Chiếc giếng nằm trong phần đất nhà ông Lực. Khoảng năm 2013, ông đã dành khoảng hơn 10m2 đất của gia đình để dân làng khôi phục lại giếng và xây khuôn viên, lập ban thờ cúng bái “Thần giếng”.

“Biết được giá trị lịch sử của chiếc giếng nên khi biết mọi người có ý định khôi phục lại, tôi sẵn sàng hiến đất cho làng. Đá xanh được mang từ Thanh Hóa về và thuê chính những người thợ Thanh Hóa về khôi phục giếng. Những người thợ khi biết giá trị của chiếc giếng cũng đã không lấy tiền công”, ông Lực chia sẻ.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 4

Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên.


Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ bỏ nhiều công sức tìm hiểu về chiếc giếng cổ cho hay, giếng cổ tuy không còn nguyên bản nữa nhưng khôi phục lại được là điều rất quý giá và ông rất mừng về điều này.

Theo ông Chính, chiếc giếng hơn 1.200 tuổi còn có tên gọi là giếng Cổng Đồng, còn chiếc giếng hơn 1.300 tuổi tên là giếng Đình Ba. Chiếc giếng Đình Ba cổ và nước còn trong hơn giếng Cổng Đồng. Giếng ngày xưa là nơi sinh hoạt không chỉ một làng mà cả 3 làng ở xã Nghĩa Trụ gồm Tam Kỳ, Phúc Thọ, Lê Cao.

Thế nên người dân nơi đây vẫn truyền nhau những câu thơ: “Giữa làng có giếng đình Ba. Giếng xây bằng đá nước thời trong veo. Tam thôn không có người nghèo. Nếu muốn lịch sử thì theo anh về” hay “Tam thôn ăn nước giếng thơi. Giếng xây bằng đá nước thời trong veo” hay”.

“Người dân đến lấy nước sinh hoạt thường xuyên, có những phiến đá người dân dùng để chà khi giặt quần áo nhẵn thín. Miệng giếng có những phiến đá lõm sâu vào 1-2cm do người dân dùng dây thừng và gầu kéo nước lên…”, ông Chính nhớ lại.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 5

Lòng giếng được xếp bằng những viên gạch và cối đá xanh có kích thước đều liên quan đến con số 7.


Có một điều mà ông Chính cũng như người dân Tam Kỳ rất tò mò, đó là những viên gạch và cối đá xếp quanh lòng giếng đều liên quan đến số 7. Gạch có chiều dày 7cm, chiều ngang 17cm và dài là 27cm; cối đá có chiều cao 17cm, đáy 27cm và miệng cối đá úp xuống là 37cm.



Nguồn: Báo Giáo dục và Thời đại - Chủ Nhật, 22/9/2019.

Xem: Chuyện thần bí về 2 giếng cổ nghìn năm ở Hưng Yên không cạn nước - xaluan, 23/12/2019.



Mời xem bài:

Lễ Hội truyền thống đình Phúc Thọ làng Xuân Cầu năm 2019

Tuesday, April 2, 2019

Lễ Hội truyền thống đình Phúc Thọ làng Xuân Cầu năm 2019



Nguồn: YouTube - 02/04/2019

Lược khảo thần tích của làng Đồng Tỉnh - tổng Xuân Cầu - huyện Văn Giang - tỉnh Bắc Ninh (nay là Hưng Yên) - BÀI 3

Saturday, March 16, 2019

Lược khảo thần tích của làng Đồng Tỉnh - tổng Xuân Cầu - huyện Văn Giang - tỉnh Bắc Ninh (nay là Hưng Yên) - BÀI 3

dienbatn

Lược khảo thần tích của làng Đồng Tỉnh - tổng Xuân Cầu - huyện Văn Giang - tỉnh Bắc Ninh (nay là Hưng Yên) - BÀI 2

Lược khảo thần tích của làng Đồng Tỉnh - tổng Xuân Cầu - huyện Văn Giang - tỉnh Bắc Ninh (nay là Hưng Yên) - BÀI 2

dienbatn