Nguyễn Tài - Một huyền thoại anh hùng (Chanh Nguyen)

Thursday, September 11, 2025

Bài 1: Chân dung người anh hùng

Chanh Nguyen


Hôm rồi, tôi ghé thăm chú Tư Cang anh hùng nhân ngày đầu năm. Trong căn phòng đơn sơ của ngôi nhà nhỏ của chú Tư ở phường 25, quận Bình Thạnh, chú Tư hỏi thăm sức khỏe của tôi rồi chú nói: năm rồi mầy ra được 2c sách "Kể chuyện cụm tình báo H.63 anh hùng" và " Sống để kể lại những anh hùng " thật ý nghĩa, những tư liệu rất quý và trung thực, những cuốn sách kể chuyện hấp dẫn như thế có tác dụng giáo dục truyền thống cách mạng rất tốt cho lớp trẻ. Năm nay cũng tròn 100 năm ngày sinh của anh Sáu Trí (ông Nguyễn Đức Trí, nguyên trưởng phòng tình báo Miền B2) và cũng là giỗ đầu của ảnh, ráng viết cho xong câu chuyện kể về cuộc đời của ảnh để tao coi và hiệu đính cho. Dạ, thưa chú Tư, con đang rất cố gắng để sớm gởi bản thảo cho chú coi đây.
Hai chú cháu tôi ngồi nói chuyện với nhau và chia sẻ những câu chuyện mà các nhà văn viết về chủ đề tình báo, chú bảo: viết tiểu thuyết thì là sáng tác văn học, cái đó là thỏa sức văn chương của nhà văn. Nhưng viết về những người thực, việc thực thì phải viết trung thực và tôn trọng sự thật. Tao còn sống và rất tỉnh táo đây, nhưng có nhà văn viết về những con người của cụm H.63 rất thiếu trách nhiệm, mô tả tao như người rừng ăn lông ở lỗ, những điệp vụ tình báo của Cụm không có thực, thậm chí bịa đặt những điệp vụ đánh cắp tài liệu của địch siêu đẳng tới mức điệp viên huyền thoại Phạm Xuân Ẩn còn phải bó tay thế mà cũng được in và phát hành ra công chúng? Bởi vậy, những cuốn sách của mầy dày công sưu tầm tài liệu và kể chuyện trung thực sẽ luôn có chỗ đứng trong lòng đọc giả. Tôi cám ơn chú Tư đã có những lời động viên và khích lệ những trang viết của tôi. Chú Tư hỏi: năm mới, chưa thấy mầy có bài viết nào kể chuyện hay ho cho thiên hạ đọc nhỉ? Dạ, con có rồi đó. Con đang tính cho đăng những bài viết mới của con còn đang để dành để bổ sung hôm này tái bản cuốn sách "Sống để kể lại những anh hùng " đây. Chú Tư có nhớ ông Nguyễn Tài (tức Tư Trọng), chiến sỹ an ninh xuất sắc bị địch bắt và phải đối mặt với CIA trong hơn bốn năm ở nhà giam của Phủ đặc ủy trung ương tình báo nguỵ quyền tại số 3 bến Bạch đằng không? Trời, nhớ chứ sao không mầy! Ông ấy cũng vất vả để được minh oan sau ngày đất nước thống nhất khi đang ở cương vị lãnh đạo rất cao là thứ trưởng Bộ nội vụ (Bộ công an hôm nay) và nghe như đầu những năm 2000 ổng được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND. Dạ, đúng rồi đó chú Tư! Năm 2002 ổng được phong tặng danh hiệu anh hùng và mất năm 2016, thọ 91 tuổi sau khi được trao tặng huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.
Hôm nay, tôi sẽ kể về người anh hùng này cho các bạn, chưa có nhà văn nào viết về ông ngoài mấy cuốn phim tài liệu của Bộ Công an. Người trong nghề thì nhớ tới ông, nhưng phần đông không được biết tới cuộc đời gian truân, khúc khuỷu của người anh hùng này...

Ông Nguyễn Tài sinh ngày 11/12/1926 với tên khai sinh là Nguyễn Tài Đông, quê ở Xuân Cầu, huyện Văn Giang (tỉnh Hưng Yên). Ông có các bí danh: Tư Trọng, Tư Duy, Ba Sáng. Ông tham gia cách mạng từ rất sớm khi tuổi đời mới 17, ông là cán bộ tiền khởi nghĩa và được kết nạp vào Đảng năm 1945 khi tuổi đời mới 19. Có lẽ, đây cũng là chuyện hy hữu trong gia đình ông khi bố ông cũng tham gia cách mạng, nhưng lại được kết nạp Đảng sau ông tới... 3 năm, nghĩa là vào năm 1948. Nhưng về độ nổi tiếng thì bố ông đã rất nổi tiếng từ trước năm 1945 khi cách mạng Tháng Tám thành công với tư cách là một nhà văn hiện thực viết truyện ngắn xuất sắc. Phải kể cho bạn đọc nghe về người bố nổi tiếng của ông Nguyễn Tài. Ông ấy là nhà văn, tên ông là Nguyễn Công Hoan, sinh ngày 6/3/1903 tại Xuân Cầu, Văn Giang (tỉnh Hưng Yên). Ông Nguyễn Công Hoan sinh trưởng trong một gia đình quan lại, nho học. Sau cũng bị thất sủng. Từ nhỏ, ông đã được nghe, được đọc nhiều thơ văn trào lộng, châm biếm và đả kích tầng lớp quan lại nên sau này ảnh hưởng tới phong cách văn chương của ông. Ông có 4 người em đều tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Người em là Nguyễn Công Miều khi đi hoạt động cách mạng thì lấy tên là Lê Văn Lương về sau là cán bộ rất cao cấp của Đảng. Ông Lê Văn Lương lên tới chức Bí thư thành ủy thành phố Hà nội, nguyên Ủy viên Bộ Chính Trị, nguyên Bí thư Trung ương Đảng. Người em nữa là Nguyễn Công Bồng, nguyên Phó tổng giám đốc nha công an của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, một người em kế ông Hoan là Nguyễn Công Mỹ, nguyên Tổng giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ của chính phủ Hồ Chí Minh sau cách mạng Tháng Tám và người em út là Nguyễn Công Bông - nguyên bí thư tỉnh ủy Tuyên Quang những năm 1955-1957. Ông Nguyễn Công Hoan có người con trai cả là Nguyễn Tài Khoái, sinh năm 1924, hy sinh năm 1947 khi mới 23 tuổi và đang là tỉnh uỷ viên Tỉnh ủy Nam Định.
Nguyễn Công Hoan yêu thích viết văn từ rất sớm, mãi tới năm 1926 khi sinh đứa con thứ 2 là Nguyễn Tài thì ông mới tốt nghiệp trường cao đẳng sư phạm nhưng ông đã có tác phẩm đầu tay vào năm 17 tuổi, năm 1920 và sau đó được in chính thức vào năm 1923 với tựa đề: Kiếp hồng nhan.
Nguyễn Công Hoan viết rất khoẻ và tên tuổi của ông đã nổi tiếng khắp Việt Nam với những truyện ngắn trào phúng, đả phá chế độ thực dân phong kiến dưới thời Pháp thuộc. Chỉ tính riêng trong gần 20 năm từ khi tốt nghiệp trường cao đẳng sư phạm tới năm 1945, ông đã có gần 200 truyện ngắn rất ấn tượng. Đây là đỉnh cao sáng tác văn học của ông và ông viết bằng chữ quốc ngữ để lan toả trong dân chúng mà chưa có nhà văn nào thời đó làm được. Sau này, khi xét duyệt để trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-Nghệ thuật lần đầu tiên năm 1996, ông đã vinh dự được nhận giải thưởng này với những tác phẩm được sáng tác trước năm 1945. Có thể kể tên một số tác phẩm rất nổi tiếng của ông, rất nhiều truyện ngắn được đưa vào sách giáo khoa giảng dạy ở các nhà trường sau này mà lứa học sinh chúng tôi vẫn nhớ mãi nằm lòng như:
Hai thằng khốn nạn (1930); Người ngựa ngựa người (1931); Thế là mợ nó đi Tây (1932); Tắt lửa lòng (truyện dài, 1933); Kép Tư Bền (1935); Bước đường cùng (1938),...
Với người yêu nghệ thuật cải lương ở Nam Bộ, không ai không biết đến vở cải lương rất nổi tiếng của soạn giả Trần Hữu Trang mang tên Lan và Điệp được sáng tác từ năm 1936. Ngược dòng thời gian để tìm hiểu thì đây chính là cốt truyện dài Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan được soạn giả Trần Hữu Trang chuyển thể rất thành công cho bộ môn cải lương Nam Bộ. Tôi không biết có bao nhiêu đêm diễn vở cải lương này ở Việt Nam từ ngày đầu cho tới nay? Nhưng có lẽ đã có đến hàng trăm ngàn đêm diễn trong gần 90 năm qua và lấy đi không biết bao nhiêu nước mắt của khán giả?
Sau cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Công Hoan giữ chức kiểm duyệt báo chí Bắc bộ, kiêm giám đốc Sở tuyên truyền Bắc bộ. Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp, ông gia nhập Vệ quốc quân và năm 1948 ông được kết nạp vào Đảng. Ông làm chủ nhiệm tờ Quân nhân học báo, làm giám đốc Trường văn hoá quân nhân có tên là trường Lý Thường Kiệt. Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông chuyên tâm vào viết văn. Ông là chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam đầu tiên khoá 1957-1958 và mọi người tôn vinh Ông là bậc thầy về truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại.

Nhưng với Nguyễn Tài, ông lại không thừa hưởng con đường văn chương của cha mà lại nối gót người chú ruột của mình là Nguyễn Công Bồng đi theo nghề công an để rồi sau đó với 90 năm cuộc đời ông đã phải trả giá bằng mạng sống của mình qua 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng với vô vàn gian nguy trong 11 năm sau ngày thống nhất đất nước để giải trình và bảo vệ danh dự của mình trước Đảng, trước nhân dân để trả lại sự thật, sự công bằng của một người chiến sỹ an ninh cộng sản rất trí tuệ và bản lĩnh trong hơn 4 năm bị địch bắt và phải đối mặt với điều tra xét hỏi và tra tấn của CIA.
Ông Nguyễn Tài - cha tôi, anh Nguyễn Trường Thống Nhất con trai ông kể với tôi:
Cha tôi giác ngộ cách mạng sớm lắm, ông theo Việt Minh thoát ly gia đình và gia nhập đoàn thanh niên cứu quốc năm 1944 và năm sau 1945 ông được kết nạp vào Đảng và sau cách mạng Tháng Tám, ông theo ngành an ninh. Ông không viết văn như cha nhưng ông có yếu tố cẩn thận và óc quan sát bẩm sinh rất thích hợp để vào ngành an ninh. Năm 1947 khi mới 21 tuổi, ông đã là trường ty công an Hà Nội rồi là giám đốc Sở công an đặc khu Hà Nội. Sau hiệp định Giơ ne vơ 1954, ông tiếp tục công tác trong ngành an ninh và tháng 9/1958 ông là Cục trường cục bảo vệ chính trị trực thuộc Bộ công an.
Bắt đầu từ năm 1960, chính quyền Ngụy VNCH bắt đầu tung những toán biệt kích gián điệp ra miền Bắc để thu thập tin tức và tổ chức phá hoại trên cơ sở móc nối những người mà tụi nó gài lại không di cư vào miền Nam. Đây thực chất là cuộc chiến chống gián điệp rất gay go. Bộ công an đã phân công ông trực tiếp chỉ huy toàn diện cuộc chiến chống gián điệp và biệt kích. Tài năng của ông đã giúp chúng ta tổ chức có hiệu quả diệt phá hầu hết các toán gián điệp và biệt kích mà chúng tung ra miền Bắc. Ông đã cùng Bộ công an tổ chức nhiều chuyên án phản biệt kích gián điệp trong thời gian dài để lừa địch vào bẫy của ta giăng sẵn để bắt và nhờ thông tin tình báo của chúng ta từ Sài gòn cung cấp ra mà an ninh của ta đã vô hiệu hóa được hoàn toàn các ổ nhóm gián điệp của địch. Tháng 3/1964, lãnh đạo Bộ công an quyết định cử ông vào chiến trường miền Nam để chi viện cho an ninh Trung ương Cục. Những người thay thế ông ở miền Bắc tiếp tục thay ông chỉ huy rất tốt công tác chống gián điệp ở miền Bắc, còn ông là cán bộ cao cấp nhất của Bộ công an được cử vào chiến trường miền Nam. Năm ấy ông vừa tròn 38 tuổi và để lại ở hậu phương người vợ trẻ với 4 người con, 2 trai 2 gái, đứa lớn nhất mới 10 tuổi và thằng con trai út mới lên 5 tuổi còn chưa được vào lớp 1.
Vậy là Nguyễn Tài đã tham gia ban an ninh của Trung ương Cục miền Nam, năm 1965 được phân công làm phó Ban, năm 1966 làm trưởng Ban an ninh khu Sài Gòn - Gia Định, ông là thường vụ thành ủy khu Sài Gòn - Gia Định. Ban an ninh khu Sài Gòn - Gia Định chính là tiền thân của Ban an ninh T4 lẫy lừng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đơn vị được tặng thưởng danh hiệu anh hùng LLVTND. Ban an ninh T4 là tiền thân của Công an Thành phố Hồ Chí Minh sau ngày giải phóng.
Tháng 12/1970 trên đường đi công tác, ông bị địch bắt và phải trải qua bốn năm bốn tháng mười ngày trong phòng giam đặc biệt ở Phủ đặc ủy trung ương tình báo Nguỵ tại số 3 bến Bạch đằng đối mặt với CIA và chỉ được giải thoát vào buổi trưa ngày 30/4/1975 lịch sử.
Năm 1976, ông được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ công an. Thiết tưởng những đóng góp phi thường và lòng dũng cảm của ông trong nhà tù sẽ đưa ông tới danh hiệu anh hùng LLVTND ngay sau đó nhưng tai họa đã ập lên đầu ông.
Anh Nguyễn Trường Thống Nhất kể:
Sáng ngày 28/10/1977, bố tôi nhận được thư hoả tốc của Tiểu ban bảo vệ Trung ương Đảng phải có mặt lúc 14h. Bố tôi đã có mặt đúng giờ đã hẹn, ông Trần Văn Sớm, ủy viên trung ương Đảng, Phó ban kiểm tra kiêm phó tiểu ban Bảo vệ Đảng đã đọc quyết định số: 254/QĐ/NSTW ngày 12/10/1977 của Ban bí thư về việc đình chỉ công tác đối với đồng chí Nguyễn Tài, Thứ trưởng Bộ nội vụ để kiếm điểm một số vấn đề chưa rõ trong thời gian bị địch bắt giam giữ. Đồng chí Nguyễn Tài hàng ngày phải đến trụ sở Ban bảo vệ Đảng để làm việc kiểm điểm.
Vậy, ông Nguyễn Tài đã bị bắt như thế nào, ông đã khai báo những gì và tại sao sau 11 năm ông mới được giải oan để rồi sau đó được phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND vào năm 2002?

Các bạn sẽ theo dõi ở các bài tiếp theo.
(còn tiếp).





Bài 2: TRỞ VÀO CHIẾN TRƯỜNG MIỀN NAM VÀ SA VÀO TAY GIẶC

Chanh Nguyen


1- Lật giở những trang lịch sử trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước oai hùng của dân tộc, tôi đọc được sự chi viện sức người, sức của của đồng bào miền Bắc cho chiến trường miền Nam hết sức to lớn. Tháng 10/1961 Trung Ương Cục Miền Nam được thành lập thay cho Xứ ủy Nam Kỳ do đồng chí Nguyễn Văn Linh( Mười Cúc ) làm bí thư. Đoàn cán bộ đầu tiên chi viện cho chiến trường miền Nam chủ yếu là bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc sau hiệp định Giơ ne vơ 1954 nay trở về trong đoàn Phương Đông 1 do ông Trần Văn Quang( sau này là Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ) làm trưởng đoàn. Chú Tư Cang kể cho tôi, hồi đó tao có danh sách đi trong đoàn này vào chiến trường Nam Bộ tháng 5/1961. Nhưng 1 ngày trước giờ lên đường, Cục 2 ( tình báo ) cho xe lên xin giữ tao lại để học bổ túc nghiệp vụ tình báo trong 6 tháng thành thử phải đi sau theo đoàn Phương Đông 2 cuối năm ấy nên đầu tháng 4/1962 tao mới vô tới chiến trường sau hơn 100 ngày đi bộ vượt Trường Sơn. Đoàn Phương Đông 1 vào tới nơi khoảng tháng 8/1961 và ông Trần Văn Quang tham gia Trung Ương Cục, phụ trách việc quân sự. Sau hơn 2 năm, chúng ta đã đưa được người và chuyển được nhiều vũ khí vào chiến trường để thành lập các đơn vị quân giải phóng tham gia chiến đấu từng bước đánh bại cuộc chiến tranh đặc biệt của Mỹ ở miền Nam, với chiến thắng Ấp Bắc đầu năm 1963 làm phá sản chiến thuật trực trăng vận và thiết xa vận của quân đội VNCH. Năm 1963 là năm hết sức quan trọng để chúng ta tiến tới đánh bại được chế độ Mỹ-Diệm trên chiến trường. Ngày 1/11/1963, các tướng lĩnh VNCH đã làm đảo chính và giết chết anh em Diệm, Nhu. Chính trường miền Nam trong thời gian này bất ổn, đảo chính liên tục, chính quyền VNCH bên bờ vực sụp đổ trước sự lớn mạnh của quân giải phóng. Cơ hội giành thắng lợi cho cách mạng miền Nam đã tới, sự chi viện từ miền Bắc cho chiến trường miền Nam đang trở nên cấp thiết. Trong năm 1963, theo chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, tướng Trần Văn Trà đã được cử trở lại chiến trường miền Nam làm tư lệnh Quân giải phóng sau khi được sự đồng ý của Bộ Chính Trị. Cuối năm 1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh cũng được Bộ Chính Trị cử vô chiến trường miền Nam để lãnh đạo Trung Ương Cục với sứ mệnh đánh đòn quyết định để giành thắng lợi. Đây chính là kế hoạch X được soạn thảo công phu để tổng tiến công và nổi dậy của nhân dân toàn miền Nam lật đổ chế độ bù nhìn và tay sai VNCH. Sở dĩ tôi nhắc tới bối cảnh chiến trường miền Nam trong năm 1963 là để nói đến việc Bộ Công an đầu năm 1964 đã cử ông Nguyễn Tài vào chi viện cho chiến trường. Ông Nguyễn Tài khi đó là cán bộ cao cấp nhất của Bộ Công an được gửi đi. Để giải thích cho việc này, chúng ta lần giở lại những trang sử ghi chép sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường. Đoàn cán bộ công an đầu tiên chi viện cho chiến trường miền Nam gồm 233 người đã lên đường ngày 21/2/1962, sau đó Bộ Công an lại tiếp tục gửi đi thêm vào tháng 7/1962 một đoàn cán bộ an ninh nữa gồm 160 người chi viện cho chiến trường miền Nam. Đây là những cán bộ an ninh ưu tú đầu tiên được chi viện, họ là những cán bộ được gửi tới các căn cứ khác nhau để tổ chức công tác an ninh bảo vệ trên chiến trường. Theo tài liệu của Ban an ninh T4( Ban bảo vệ an ninh khu Sài gòn-Gia định ), trong số các cán bộ an ninh chi viện này, Ban an ninh T4 đã được nhận 5 đồng chí: Nguyễn Minh Đạm( Hai Trang ), Trương Công Quỳnh( Năm Mai ), Tám Phong, Bảy Thông, Lê Nguyên Cam( Ba Long ).
Ngày 21/3/1964, ông Nguyễn Tài đã chia tay đồng đội và vợ con để vào chiến trường Nam Bộ chi viện cho Ban an ninh Trung Ương Cục trên con tàu 0 số chở cán bộ và vũ khí. Cũng xin nhắc lại, sau khi đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào làm Bí thư Trung Ương Cục, phạm vi quản lý và chỉ đạo của Trung Ương Cục đã thu hẹp lại ở khu vực B2 ( tức từ khu 6 trở vào trong này ), còn từ khu 5 trở ra tới vĩ tuyến 17 sẽ do Trung ương ở Hà nội trực tiếp chỉ đạo, ông Võ Chí Công là Bí thư khu 5. Anh Thống Nhất con trai ông Nguyễn Tài có kể với tôi: bố anh là cán bộ cao cấp an ninh được cử đi vào chiến trường B2 không phải đơn giản chỉ có ý kiến của Bộ Công an mà còn phải xin phép và được sự đồng ý của Bác Hồ và Bộ Chính Trị. Cử một cán bộ an ninh cấp cao vào chi viện cho chiến trường phải căn cứ vào tình hình thực tế hết sức cần thiết.
Tôi xin kể cho các bạn kế hoạch X để giải phóng miền Nam lúc bấy giờ của chúng ta vào năm 1964-1965 để đánh bại quân đội VNCH vì sao lại không thực hiện được?. Trước nguy cơ thất bại về quân sự và sự phá sản chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ tại miền Nam Việt Nam, chúng ta đã chuẩn bị cho cuộc tổng tấn công vì nhận định người Mỹ sẽ không can thiệp để cứu chế độ VNCH nữa. Với sự xuất sắc của mình, điệp viên Phạm Xuân Ẩn của Cụm tình báo chiến lược H.63 đã có những báo cáo phân tích tình báo gửi cho Tổng hành dinh rằng, người Mỹ sẽ trực tiếp đổ quân vào tham chiến với Quân giải phóng để cứu nguy cho chế độ bù nhìn VNCH. Ý kiến này là trái với nhận định của chúng ta trên chiến trường. Và sự thật đã diễn ra như vậy, chiến tranh đã leo thang ra cả miền Bắc bằng máy bay Mỹ đánh phá và Mỹ đổ quân vào tham chiến ở miền Nam cùng với hơn mấy chục vạn quân của các nước chư hầu như Úc, Nam Triều Tiên, Phi-líp-pin, Thái lan, Tân Tây Lan. Chính vì vậy, kế hoạch X đã không được thực hiện.

2- Vào tới nơi trót lọt mà không gặp trở ngại, ông Nguyễn Tài đã gửi điện ra ngoài Bộ báo cáo công việc để Bộ tiếp tục gửi người vào chiến trường theo ngả này.
Ông Nguyễn Tài được bổ sung vào Ban an ninh Trung Ương Cục ( R ). Năm 1965, ông Nguyễn Tài ngoài chức danh ủy viên Ban an ninh Trung Ương Cục, ông được phân công làm Phó ban an ninh T4 rồi sang năm 1966 ông được bổ nhiệm làm Trưởng ban an ninh T4, ủy viên Thường vụ Khu ủy Sài gòn-Gia định. Ban an ninh T4 được thành lập đầu tiên vào ngày 19/3/1961 do ông Huỳnh Văn Bánh( Năm Tấn ) làm trưởng Ban. Dưới sự lãnh đạo của ông Nguyễn Tài, Ban an ninh T4 đã được tổ chức rất bài bản và đóng góp rất lớn cho cách mạng miền Nam. Đơn cử, Ban an ninh T4 đã thành lập các khối ( bộ phận trực thuộc ) như sau: Văn phòng ( B1 ), Tiểu ban bảo vệ chính trị ( B2 ), Tiểu ban điệp báo ( B3 ), Chấp pháp và trại giam ( B4 ), Trinh sát vũ trang và an ninh vũ trang ( Tiểu đoàn Vinh Quang ).

Trong suốt hơn 4 năm ở vai trò Trưởng ban an ninh T4 cho tới lúc bị địch băt, ông Nguyễn Tài cùng đồng đội bảo vệ an toàn cho cấp ủy, tổ chức chống càn, tham gia trong Trận tổng tiến công Mậu Thân 1968, làm tốt công tác điệp báo và cài cắm được nhiều cán bộ vào trong bộ máy của địch để cung cấp thông tin tình báo, Ban an ninh T4 đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến và vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng LLVTND thì trong đó, đóng góp của người lãnh đạo Nguyễn Tài là to lớn.
Ngày 23/12/1970, ông Nguyễn Tài bị địch bắt khi đang trên đường về họp thường vụ khu ủy Sài gòn-Gia định. Đối với người chỉ huy lão luyện như ông, việc bị bắt đúng là sự cố hy hữu. Nghe ông tâm sự trong hồi ký của mình, tôi rất khâm phục bản lĩnh của ông.

3- Sau trận Mậu Thân 1968, Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định phải dời về đứng chân ở Mỏ Cày ( Bến Tre ). Sang năm 1970 bọn Nguỵ tập trung bình định cấp tốc tỉnh Bến Tre , trọng điểm là huyện Mỏ Cày. Giữa năm 1970, sau cuộc họp của Thành ủy Sài Gòn ở Mỏ Cày Bắc thì các ông Võ Văn Kiệt, Trần Bạch Đằng, Mai Chí Thọ cùng với khối Văn phòng đã phải rời khỏi Bến Tre. Ông Nguyễn Tài khi ấy vẫn ở lại vùng này cùng với Ban an ninh Thành để giải quyết nốt một số việc được phân công. Khoảng giữa tháng 12/1970 ông Nguyễn Tài nhận được thư hoả tốc của ông Mai Chí Thọ, triệu tập đi họp Thường vụ Khu uỷ vào chiều ngày 23/12/1970 tại Hồng Ngự ( Đồng Tháp ). Ông Nguyễn Tài đã suy nghĩ và biết là chỉ có 2 cách đi tới Hồng Ngự khi đó. Hoặc theo giao liên hợp pháp đi công khai bằng đường bộ, hoặc từ Bến Tre đến thẳng Hồng Ngự cũng đi công khai bằng ghe máy theo sông Cửu Long. Ông Nguyễn Tài đã giao cho ông Tám Nam là Phó ban an ninh chuẩn bị cả 2 phương án.
Cơ sở của An ninh T4 ở Bến Tre khi đó có 2 ông già là Tư Chất và Sáu đầu bạc có đầy đủ giấy tờ hợp pháp với địch và thường đi công khai chở cán bộ và súng đạn đi lại an toàn bằng đường sông Cửu Long, họ rất thạo đường và có nhiều kinh nghiệm đối phó dọc đường với địch. Lúc này, ông Tư Chất lại đang bị ốm nên phương án tốt nhất là ông Sáu đầu bạc dùng ghe máy đưa ông Nguyễn Tài từ Châu Thành( Bến Tre ) đến thẳng Hồng Ngự. Ban an ninh T4 có cô giao liên tên Năm Mai là người giao liên có giấy tờ hợp pháp lại rất quen đi tuyến đường này sẽ là người đi cùng để đưa ông Nguyễn Tài đi tiếp từ Hồng Ngự tới địa điểm hẹn của cuộc họp. Nhưng có lẽ rắc rối cũng đã phát sinh từ sự vắng mặt của cô Năm Mai khiến người đóng thế đã không hoàn thành nhiệm vụ để sau đó ông Nguyễn Tài và những người đi cùng bị địch bắt.
Lúc ấy cô Năm Mai có việc gia đình ở Trảng Bàng ( Tây Ninh ) nên xin về. Ông Tư Tùng là người phụ trách trực tiếp nhóm giao liên đã cho cô ấy đi về mà không báo cáo với ông Nguyễn Tài. Giờ chờ cô ấy trở lại rồi mới đi móc ráp với nút đón bên Hồng Ngự sau đó quay về Bến Tre đưa ông Nguyễn Tài đi thì sẽ không kịp ngày. Rốt cuộc phải đi kiếm người thay thế cô Năm Mai. Ban an ninh đã cho người liên lạc với Ban giao liên của Thành ủy để dẫn về một người giao liên cũng quen tuyến đường này. Chị này tên là Năm và đã có mặt ở Bến Tre sáng ngày 22/12/1970.
Trưa ngày 22/12/1970, ghe của ông Sáu đầu bạc đã đến để chuẩn bị đưa ông Nguyễn Tài và cô Năm về Hồng Ngự. Nhưng vào giờ chót, lại nảy sinh công việc rắc rối cho ông Nguyễn Tài.
Số là, ngay lúc đó Tỉnh đội Bến Tre đã có thư thúc dục Ban an ninh điều ghe đến nhận lô máy bộ đàm PRC-25 mua cho Thường vụ Thành uỷ Sài Gòn-Gia Định vào ngày 23/12/1970 và đây là hạn chót. Sở dĩ ông Nguyễn Tài khó xử là vì đã hẹn rất nhiều lần mà bộ phận giao liên của Thành ủy không cử người tới nhận được do giao liên bị địch bắt quá nhiều, không có phương tiện và giao liên để đi nhận? Bên an ninh T4 của ông Nguyễn Tài đã hứa sẽ giúp nhận hộ lô PRC-25 này cho Thường vụ Thành uỷ. Hồi đó Mỹ mới trang bị cho lính nguỵ loại bộ đàm PRC-25 này, chúng thường dùng để nói công việc với nhau, kể cả khi đi càn. Nếu bên ta có máy cùng loại, mở ra là nghe được hết do đó đối phó rất dễ. Thường vụ Thành uỷ Sài Gòn-Gia Định mới chuyển địa điểm đến nơi mới nên rất cần có máy này.
Ông Nguyễn Tài thấy gấp quá, không biết điều ghe nào đi nhận máy bộ đàm bây giờ? Tham vấn với Tám Nam-Phó Ban an ninh và cả 2 đi tới kết luận: Việc nhận máy bộ đàm cho Thường vụ Thành uỷ để làm công tác bảo vệ là rất quan trọng, lỡ dịp này là hết. Việc ông Nguyễn Tài đi họp ở Hồng Ngự thì có thể dùng phương án đi đường bộ cùng chị Năm. Vì vậy ông Nguyễn Tài đã quyết định nhường chiếc ghe đã bố trí cho ông đi Hồng Ngự để làm nhiệm vụ đi nhận bộ đàm cho Thường vụ Thành uỷ.
Trở lại phương án đi đường bộ, theo ý chị Năm nếu muốn đến được Hồng Ngự chỉ trong 1 ngày thì phải đi được chuyến xe thứ nhất thường khởi hành rất sớm từ thị xã Mỹ Tho khoảng 6 giờ sáng. Không thể có phương án nào khác nên phải bằng mọi giá phải có mặt trước 6h sáng ở bến xe thị xã Mỹ Tho để kịp lên xe. Xế trưa sẽ đến thị xã Long Xuyên, từ đó sẽ còn phải đi thêm một chặng nữa mới đến được điểm hẹn ở chợ Hồng Ngự và đúng chiều ngày 23/12 sẽ có mặt.
Trạm giao liên của ông Nguyễn Tài hồi đó ở xã Quới Sơn, huyện Châu Thành ( Bến Tre ) và muốn từ đây sang bến xe của thị xã Mỹ Tho phải đi ghe máy chạy ngang sông Cửu Long. Ông Nguyễn Tài đã cử ông Bảy Sết nhân viên dưới quyền, người mới làm xong giấy căn cước thật của địch, dùng ghe máy đưa chị Năm đi thử đoạn đường này để quen đường và ước lượng thời gian cần thiết. Chiều 22/12 họ đã đi thử và về thấy mọi thứ ổn , chưa tới 15'. Thông thường thì vùng này tụi nó đang bình định nên giới nghiêm tới 6h sáng. Nhưng dân thường xé rào gần 6 giờ sáng bà con đã đi chợ bằng ghe máy rất đông, mình trà trộn vào cùng đi là được yên ổn.
Và mờ sáng ngày 23/12/1970 ông Nguyễn Tài, ông Bảy Sết, cô Năm cả 3 người đã xuất phát để đi sang Mỹ Tho đã bị địch bắt ngay trên sông khi cung đường quá ngắn chưa tới 15' trên sông. Vì sao họ lại bị bắt? Tất cả họ đều có giấy tờ hợp lệ đi lại kia mà ? Sai sót ở đâu?

Câu chuyện họ bị bắt là hết sức ly kỳ, tôi sẽ kể tiếp cho các bạn.
( còn tiếp ).





Bài 3: Bất ngờ bị bắt và tạo dựng thân phận giả

Chanh Nguyen


1- Bị bắt trên sông Cửu Long


Chú Tư Cang có kể với tôi, cán bộ của chúng ta hoạt động trong vùng tạm chiếm (ý nói trong vùng kiểm soát của địch) thời chống Mỹ đi lại không phải ai cũng có giấy tờ căn cước hợp pháp do tụi nó cấp mà rất nhiều phải sử dụng giấy tờ do chúng ta làm giả. Bên Phòng tình báo Miền có bộ phận kỹ thuật làm giả của ông Tám Chứa, tụi tao toàn xài giấy tờ giả do ổng làm. Còn bên bộ phận an ninh của Trung Ương Cục có một bộ phận khác cũng làm giấy tờ giả cho các cán bộ an ninh. Nhiều cán bộ của chúng ta bị tụi nó bắt cũng vì phát hiện ra giấy tờ giả, đôi khi làm được giấy xịn của tụi nó nhưng khi giáp mặt mất bình tĩnh cũng bị lộ và bị bắt, chú Tư nói thêm: ăn thua người cầm giấy tờ phải rất bản lĩnh.
Hôm tôi ghé tới nhà chị Đoan - con gái ông Nguyễn Tài, trong gian phòng nhỏ lưu giữ những kỷ vật của cha mình, tôi thấy ông Nguyễn Tài có rất nhiều giấy căn cước giả của chính quyền VNCH. Tôi có hỏi chị, hình như hồi đó bố chị bị tụi nó bắt vì phát hiện ra giấy tờ căn cước giả thì phải? Ừ, đúng vậy. Nhưng câu chuyện rất ly kỳ. Vì bà Năm giao liên và ông Bảy Sết dùng giấy tờ thật của chúng nó, nhưng bị truy hỏi ác quá, mất bình tĩnh nên mới lộ. Chứ ban đầu giấy tờ của ông có cái giả, có cái thật, trả lời dứt khoát nên tụi nó chưa dám nghi ngờ.
Bây giờ tôi sẽ kể đôi chút về tình trạng giấy tờ của ông Nguyễn Tài mang theo mình khi bị tụi nó bắt.
Ông kể trong hồi ký của mình, tôi ở xã Giao Long Hoà, cuối huyện Châu Thành (tỉnh Bến Tre), giáp với kênh Trạc Sậy. Tôi phải xoa xà bông vào người và phơi nắng liên tục trong hai tuần lễ cho người đen nhẻm để khi ấy nhìn chẳng khác gì một ông nông dân. Cơ sở đã lo tiền cho thằng cảnh sát quận nên chúng coi tôi như dân vùng mới bị bình định đi làm giấy căn cước. Ông bảo vì ông nói tiếng Bắc có pha chút giọng Nam nên để đỡ bị truy xét nhiều, cơ sở đã tự ý ghi vào tờ khai là ông sinh ở Định Thủy, Mỏ Cày. Thật ra địa danh này ông cũng không rành nên cũng là một lý do tụi nó phát hiện ra giấy tờ giả, tôi sẽ kể ở phần tiếp theo. Vì vậy, ông đã chuẩn bị cho mình kịch bản nếu bị địch hỏi thì khai rằng: Bố tôi người Bắc, tên Nguyễn Văn Mừng. Hồi chiến tranh 1914-1918 đăng lính sang Pháp, nhưng vào đến trong này thì bên Tây vừa hết chiến tranh, nên ở lại, lấy vợ người Nam và sinh ra tôi. Đặt tên tôi là Nguyễn Văn Lắm. Lớn lên tôi được gửi về Bắc ăn học, đến năm 1954 lại di cư vô Nam và về ở Mỏ Cày. Cơ sở đưa ông lên thị xã Bến Tre vào nơi bọn cảnh sát cấp giấy căn cước Rồng xanh, tụi nó ghi như tờ khai là người ở Định Thuỷ, Mỏ Cày. Chúng cấp cho ông biên lai từ tháng 10/1970 và hẹn 1 tháng sau có giấy căn cước Rồng xanh. Nhưng do dân vùng mới bị bình định đến làm giấy căn cước quá đông nên đến hẹn vẫn chưa có giấy căn cước cho ông, chúng cho gia hạn vào biên lai dùng để đi lại có giá trị như giấy căn cước Rồng xanh.
Tuy nhiên, người từ lâu sống ở vùng địch kiểm soát khi đổi giấy căn cước cũ sang loại Rồng xanh thì bọn cảnh sát cắt một góc của giấy căn cước cũ và cấp thêm biên lai mới, ai có việc đi đâu xa thì đưa cả hai giấy như thế, ít bị hạch hỏi. Còn với dân ở vùng địch mới bình định xưa nay không có giấy căn cước nên bọn cảnh sát nguỵ chỉ cấp biên lai Rồng xanh. Người dân đi lại chỉ với tờ biên lai thường hay bị hoạch hoẹ. Nếu cần đi đâu xa, ai cũng cần phải xin thêm giấy đi đường của Quận hành chính nguỵ cấp. Cơ sở đã mang biên lai Rồng xanh của ông đi xin cấp giấy đi đường thứ thiệt, đi buôn bán đường Hồng Ngự nhưng bọn hành chính nguỵ không cấp, nói đó là vùng biên giới. Trước tình trạnh giấy tờ của ông như vậy, ông Năm Hiếu là người chuyên làm giấy tờ giả của địch cho cán bộ của ta đi công khai thuộc bên an ninh Miền đã có suy nghĩ là làm giả cho ông một giấy căn cước loại cũ, cắt góc, để dùng kèm với biên lai Rồng xanh thứ thiệt cho được đảm bảo. Và cũng theo mẫu gốc, làm cho ông một giấy đi đường cũng là giấy giả để "yên tâm" đi lại vì pha trộn giữa giấy giả và giấy thật.
Còn ông Bảy Sết thì nhờ cơ sở ở xã Tam Phước, huyện Châu Thành đưa đi làm giấy căn cước Rồng xanh thì cũng đã được cấp biên lai thật của tụi nó và lại còn xin được một giấy đi buôn bán giữa Bến Tre và Cao Lãnh. Do vậy, giấy tờ của ông Bảy Sết toàn là thứ thiệt.
Chị Năm giao liên từ trên Sài Gòn xuống cũng có giấy tờ thứ thiệt của tụi nó.
Theo kịch bản, ông Nguyễn Tài và cô Năm coi như người quá giang ghe của anh Bảy Sết để sang bên Mỹ Tho chứ không có họ hàng gì với nhau ở đây. Kỳ này đi một đoạn đường rất ngắn xuất phát từ xã Quới Sơn sang thị xã Mỹ Tho có 15-20', ông Nguyễn Tài đã hỏi ông Tư Tùng là người phụ trách giao liên của Ban an ninh: này chú Tư, ở đây đồng bào thường đi chợ lúc mấy giờ sáng ? Dạ, ở đây gần bến phà đi Mỹ Tho, bà con thường đi sớm lắm. Chắc từ 4h30' là đi rồi đó anh. Vậy thì ta nên khởi hành trễ nửa giờ so với đồng bào, ta đi lúc 5h sáng thì quá ổn để đi chuyến xe sớm nhất về Long Xuyên.
Sáng hôm đó 23/12/1970 đúng 5h sáng theo giờ Sài Gòn, ghe của ông Bảy Sết chở ông Nguyễn Tài và cô Năm men theo sông Cửu Long từ Quới Sơn để sang bến Giồng Nhỏ của thị xã Mỹ Tho. Trên ghe có thắp 1 ngọn đèn dầu coi như dân hợp pháp trong vùng địch có việc đi sớm. Đi được một lúc thì đụng 3 chiếc tàu của địch đi đâu về. Chúng nổ súng làm hiệu gọi cho ghe của ông Bảy Sết và trong nháy mắt 3 chiếc tàu địch đã quây quanh chiếc ghe chở ông Nguyễn Tài. Hai tên lính xuống ghe xét, không thấy súng đạn, người đủ giấy tờ, lý do đi rõ ràng và ghe có thắp đèn báo theo đúng quy định. Hai thằng lính dùng bộ đàm báo cáo vởi thằng chỉ huy trên tàu để xin cho ghe chở ông Nguyễn Tài đi. Không biết thế nào, thằng trung úy đang ngái ngủ trên tàu trả lời: không có đi đâu hết, đi trước giờ giới nghiêm ( giới nghiêm tới 6h sáng ), cứ đưa tất cả chúng nó lên tàu để tao hỏi đã. Lúc này, ông Nguyễn Tài mới sực nhớ ra, ông Tư Tùng để đồng hồ và dùng theo giờ Hà Nội ( giống như rất nhiều cán bộ trong vùng giải phóng thường tỏ lập trường yêu nước của mình là không dùng giờ Sài Gòn ). Vậy nên, ông ấy nói 4h30' sáng của ổng( theo giờ Hà Nội ) thì phải được hiểu là 5h30' sáng theo giờ Sài Gòn nhưng ông Nguyễn Tài lại nhầm cứ tưởng ông ấy nói theo giờ Sài gòn nên 5h đã khởi hành, mặc dù đã đi chậm hơn 30' thành thử sớm hơn giờ xé rào của bà con các nơi. Rõ ràng bị địch buộc tội vi phạm giới nghiêm.
Lên tàu, thằng trung úy thấy ông Nguyễn Tài đứng tuổi nhất nên xem giấy và hỏi trước. Ông Nguyễn Tài đã trả lời trôi chảy như đã chuẩn bị, không thấy nghi ngờ gì. Nó cầm giấy của ông Bảy Sết rồi hỏi mấy câu, ông Bảy Sết cũng rất bình tĩnh trả lời ngon lành. Ngó qua cô Năm, thấy giấy tờ cũng hợp pháp vì cô Năm đóng vai Việt kiều Cămpuchia lánh nạn Lon-nol có con nhỏ và mọi người ai cũng thương nên không chút nghi ngờ.
Ông Bảy Sết với vai trò là chủ ghe, nói với thằng trung uý là chúng tôi xin được nộp phạt vì vi phạm giờ giới nghiêm. Nó có vẻ xuôi xuôi rồi. Ông Nguyễn Tài tưởng như vậy là mọi việc đã xong, nhưng không biết sui khiến thế nào, ngứa miệng nó quay sang hỏi cô Năm: bà có quan hệ như thế nào với 2 ông đây? Không chút suy nghĩ, cô Năm bảo: thưa ông, đây là 2 người chú của tôi. Ông Nguyễn Tài hơi sững người vì đã thống nhất trước là 3 người không quen nhau, ông Nguyễn Tài và cô Năm đi nhờ ghe của ông Bảy Sết. Sao giờ cô Năm nói như thế này thì nó truy tiếp biết trả lời sao? Đúng như suy nghĩ của ông Nguyễn Tài, thằng trung uý đi đi lại lại, ngó mặt 2 người đàn ông rồi nhìn cô Năm và lẩm bẩm, một người đàn bà là Việt kiều ở Cămpuchia mà lại có họ hàng với 2 người đàn ông ở 2 nơi ? Một ở Châu Thành, một ở Mỏ Cày đều là những vùng vừa mới bình định xong? Nó bắt đầu sinh nghi và hướng về phía cô Năm hỏi sâu thêm: bà cho biết chồng bà tên gì ? Cô Năm trả lời đúng. Nó gật gật cái đầu rồi lại hỏi: ông nhà họ gì?
Thấy cô Năm bối rối, ông Nguyễn Tài đâm lo cho cô ấy. Rồi cô Năm ngắc ngứ trả lời thằng trung uý là, tôi không nhớ? Tới đây, nó truy tiếp: bà có mấy con? Dạ thưa, có 3 đứa. Nó nhìn thẳng vào mắt cô Năm rồi nói: ở với nhau có 3 mặt con mà lại không nhớ họ của chồng à ? Hay là... Nó lại quay sang hỏi thêm ông Bảy Sết về xã Tam Phước (thật ra, cơ sở ở xã Tam Phước lo chuyện làm giấy tờ cho ông chứ ông không phải dân ở vùng này). Do bị hỏi bất ngờ khiến ông Bảy Sết nói lúng túng nó lại sinh nghi. Nó cho tàu ghé chỗ đạo Dừa, cho gọi thằng cảnh sát quen nó mà quê đúng ở xã Tam Phước xuống tàu. Thằng cảnh sát này hỏi một lô tên người, ông Bảy Sết chịu cứng họng không trả lời được câu nào vì ổng có phải dân ở xã Tam Phước đâu? Trước tình thế đó, ông Nguyễn Tài đã ghé tai nói thằng trung uý xin được nộp tiền. Nó cười cười rồi trả lời:
- Muộn rồi!
Thằng trung úy dùng máy bộ đàm báo cáo về chỉ huy sở của nó về việc bắt được 3 người đi ghe vi phạm giờ giới nghiêm. Rồi sau đó tàu của chúng sang đậu ở cầu phà bên Bến Tre. Một lát sau, có 1 xe cam-nhông ra bến tàu, lính xuống còng tay cả 3 người , ném lên xe rồi giải về tỉnh đoàn bảo an , giao họ cho bọn Quân báo.
Thằng quân báo gọi lần lượt từng người vào. Với ông Nguyễn Tài, ông vẫn trả lời như cũ.
Nó hỏi: tại sao ở Mỏ Cày không đi thẳng lại vào đây?
Ông đáp: Vào Quới Sơn đòi tiền nợ.
Nó xem giấy đi đường của ông ghi xã Định Phước (địch nhập Phước Hiệp và Định Thuỷ). Nó đứng lên tiến tới chỗ ông rồi vung tay tát cái" bốp" vào mặt ông để thị uy rồi nói: xã này đang bình định!
Đúng là cười ra nước mắt, ông Năm Hiếu làm giấy tờ giả cho ông đã sơ ý không lường trước được tình huống này, những nơi tụi nó đang bình định thì sao cấp giấy đi đường được ?
Ông Nguyễn Tài đã gạ nó xin được nộp phạt tiền kẻo lỡ công ăn việc làm, nó lại cười và nói: nếu hợp lệ thì cảnh sát sẽ tha. Đến gần trưa, chúng cho xe cam-nhông chở 3 người về Trung tâm cải huấn, gửi họ ở đó vì đã đến ngày nghỉ lễ Noel.
Vậy là, cuộc họp của Thường vụ Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định buổi chiều ngày 23/12/1970 đã không có mặt ông Nguyễn Tài tham dự, ông đang bị địch nhốt ở Trung tâm cải huấn Bến Tre và khởi đầu cho những ngày tháng ông bị giam cầm và tra tấn hết sức dã man trong nhà tù.

2 - Tạo dựng thân phận giả để lừa địch


Đến trại cải huấn tỉnh Bến Tre bọn gác làm thủ tục vào trại, ông viết trong hồi ký là bọn chúng thu hết giấy tờ, đồng hồ và tiền bạc của ông. Cô Năm giao liên vào trại nữ, ông và Bảy Sết vào trại nam. Ở đây là môi trường ô hợp, đủ thành phần với nhiều lứa tuổi khác nhau. Lưu manh cao bồi có, bọn tề xã ăn hối lộ có, lính nguỵ bắn nhầm chết người cũng có và rất nhiều người dân bị chúng bắt được qua các trận càn không biết họ là ai ( có thể là cán bộ, du kích xã của chúng ta ). Ở đây chắc chắn địch cài chân tay nên người tốt họ cũng ngại nói chuyện với nhau. Ông Nguyễn Tài đã bày cho ông Bảy Sết tìm người Tam Phước để hỏi thêm thông tin rồi nắm rõ địa danh, tên tuổi một vài cá nhân ở đây để còn trả lời cung cho tụi nó. Ông dặn ông Bảy Sết, chúng ta vẫn giữ thế hợp pháp là người có giấy tờ , chỉ vi phạm giới nghiêm nên cần cảnh giác với đám tay chân của tụi nó dò hỏi chuyện. Vì bận nghỉ Noel nên tụi nó để mọi người ở đó mấy hôm liền mà không xét hỏi. Giờ có đủ thời giờ để phân tích lại tình trạng chung của ba người và của riêng ông với tình trạng giấy tờ vừa thật vừa giả như thế này để tìm cách đối phó. Nhất định tụi nó đã nghi thì sẽ truy rất kỹ, vừa hạch hỏi, vừa soát giấy tờ cẩn thận. Phân tích sâu nhược điểm về giấy tờ, ông thấy phải dự kiến đối phó nếu lòi ra giấy thật , giấy giả nhưng phải làm sao nói để 3 người không bị dính chùm với nhau, về phần ông thì không để động ở Định Thuỷ.
Sau kỳ nghỉ Noel, địch gọi tên từng người đi thẩm vấn. Nam nữ ở phòng giam riêng nhau, nói là phòng giam chứ đó là nhà khung gỗ, mái và tường bằng tôn có dây kẽm gai phía trong. Ở đây một ngày một đêm, ông dặn kỹ ông Bảy Sết là giữa hai người hoàn toàn không quen biết gì nhau.
Trưa hôm sau, có người đi cung về, hỏi thăm trong trại có ai đi ghe bị bắt không, họ thấy mấy thằng thẩm vấn chuyền tay nhau xem xét giấy tờ rất kỹ? Không ai trả lời, nhưng ngầm ông Nguyễn Tài hiểu rằng giấy tờ của ông gặp rắc rối lớn rồi. Quá trưa, chúng gọi ông Nguyễn Tài lên thẩm vấn. Thằng hỏi cung này trẻ lắm, chỉ mới hết lớp phổ thông. Nó hỏi ông, ông vẫn trả lời như đã chuẩn bị và nói tên Nguyễn Văn Lắm. Nó cười, cầm giấy đi đường xem và hỏi:
- Ông quận phó hành chính tên là gì?
- Tên là Quận.
- Đúng. Nó cười cười rồi tiếp, nhưng chữ đệm tên của ông ấy thì các anh làm sai, không phải đệm chữ Văn? Ở tỉnh khác thì người ta không chú ý chứ ở đây thì các ông giấu sao nổi ? Nói xong , nó đưa cho ông xem một bản của nó và bản giấy đi đường của ông do ông Năm Hiếu làm thì đúng là không phải đệm chữ Văn? Sau này khi ra tù, ông có dịp gặp lại ông Năm Hiếu để hỏi lại sự việc này thì cười muốn bể bụng. Thì ra hồi đó ông Năm Hiếu mang cái kính không đúng số, nhìn giấy đi đường bản gốc bị mờ, không tài nào xác nhận được tên Quận có chữ đệm gì? Bí quá, lúc làm giả con dấu của tụi nó, ông bịa ra chữ đệm tên của nó là Văn, nghĩ đàn ông xứ mình hết phân nửa có chữ đệm là Văn rồi còn gì?
Thằng hỏi cung lại nói: biên lai căn cước Rồng xanh thì đúng, nhưng giấy căn cước cắt góc thì không có ở nơi phòng căn cước? Vậy là cả 2 giấy tờ làm giả của ông Năm Hiếu cho ông đều đã bị lộ. Vậy nên nếu cứ khăng khăng nhận mình là người Định Thuỷ thì sẽ đụng hết tất cả mảng giao liên ở đó. Tình trạng giấy tờ đã như thế này thì phải tách hẳn mảng Định Thuỷ, Mỏ Cày ra để đánh lừa chúng nó. Nhưng làm bằng cách nào đây? Giờ thì áp dụng phương án bình phong như lúc đầu cứ khai tên Nguyễn Văn Lắm để cho nó hỏi cung và truy. Khi nói đến năm 1954 di cư vào Nam, nó hỏi ở đâu ? Ông đáp: Lúc đầu ở Khánh Hội, sau đó đi Gò Dầu rồi mới trở lại Định Thuỷ. Nó hỏi: Gò Dầu thượng hay Gò Dầu hạ? Nơi đây ông biết, nhưng giả bộ nói: chỉ có Gò Dầu chứ làm gì có Thượng với Hạ? Nó lại cười lớn rồi kể tên các tỉnh miền Nam cho ông nghe. Nó nói nó học và nhớ địa dư, còn ông thì không hiểu địa dư. Nó đưa tờ giấy bảo ông biết điều thì khai lại đi. Ông vẫn làm bộ bình thản và trân trân ra đó. Rồi nó bỏ đi, giao một thằng khác đứng trông. Thằng này cầm dùi cui, giục ông viết, ông làm bộ ngồi im. Tức quá, nó kéo ông đứng lên rồi đạp ông chúi xuống, kéo ông nằm sống soài rồi lấy dùi cui đánh tứ tung lên người ông. Nó đánh ông chưa lấy gì làm đau lắm nhưng ông la to. Thằng hỏi cung làm bộ ở ngoài đi vào, kéo ông dậy, ngồi vào ghế và nó xin lỗi tại vì ông chậm viết và thằng kia thì nóng nảy.
Đến lúc này, một màn kịch trong đầu ông đã diễn ra và làm bộ sợ bị tra tấn, ông nói: Tôi mới vào!
Thằng hỏi cung nghe thấy vậy mừng ra mặt, nó bảo: tôi đã đoán đúng. Ông từ ngoài Bắc vô chứ không phải người ở đây. Nói xong, nó cầm giấy tờ và dẫn ông sang một phòng khác. Bây giờ, ông bắt đầu trả lời chúng nó theo vở kịch ông tạo ra. Ông bảo, ông mới vào được 1 tháng, bằng tàu đi biển ghé vào Bình Đại. Tôi là Nguyễn Văn Hợp, đại uý quân nhân quân đội Bắc Việt!
Trời ơi, tôi đọc hồi ký của ông rất gay cấn. Tới đoạn này bỗng sững người vì sao ông lại chọn kịch bản như thế này? Liệu ông có giấu kín được thân phận của mình không? Thật là cuộc đấu trí cam go của một lãnh đạo Ban an ninh T4 giàu kinh nghiệm.

Các bạn đón đọc ở phần tiếp theo.
(còn tiếp).





Bài 4: Đối mặt với vỏ bọc tình báo

Chanh Nguyen


1 - Tạo dựng thân phận giả


Năm 1999, lần đầu tiên cuốn hồi ký ĐỐI MẶT VỚI CIA của ông Nguyễn Tài được Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành và công bố rộng rãi trong công chúng. Năm 2012, Nhà xuất bản Công an nhân dân đã cho tái bản cuốn sách này của ông. Hẳn, mọi người đều rất thích thú khi được cầm trên tay cuốn tự truyện của ông. Ông đã dành hơn 180 trang sách để kể lại cho chúng ta 4 năm 4 tháng và 10 ngày trong lao tù khắc nghiệt của quân thù để rồi trưa ngày 30/4/1975 đã được các đồng chí của mình giải thoát khỏi nhà giam ở số 3 bến Bạch Đằng- Phủ đặc uỷ trung ương tình báo của Nguỵ quyền Sài Gòn. Trong phần này, tôi sẽ kể tóm tắt những ngày đấu tranh gian khổ của ông và bản lĩnh anh hùng của một sỹ quan an ninh trước quân thù.
Nhiều người khi đọc hồi ký của ông có nhận xét: ông Tài quá giỏi để đối đầu với địch trong hơn 4 năm ở tù và việc ông giữ được mạng sống của mình để sống sót trở về sau chiến tranh như vậy là một điều ngoạn mục. Sau khi bị tụi nó bóc tách giấy tờ giả, biết không thể chối được nên ông đã tạo dựng vở kịch cho thân phận của mình là một tình báo đơn tuyến, hướng sự nghi vấn của địch theo hướng này để bỏ luôn sự chú ý của chúng về Định Thuỷ, bảo vệ được căn cứ của Ban an ninh. Không ít lần, tôi hỏi chuyện anh Thống Nhất (con trai ông Tài), anh có được bố anh kể chuyện nguyên cớ gì mà ông phải tạo dựng lý lịch thân phận giả một sỹ quan tình báo của Bắc Việt là đại úy Nguyễn Văn Hợp như vậy? Ừ thì, anh Thống Nhất chậm rãi kể: như em đã đọc hồi ký của bố anh rồi đó, ông là một cán bộ an ninh rất dày dạn kinh nghiệm. Trước ngày ông trở vào chiến trường miền Nam thì ông phụ trách an ninh bảo vệ chính trị nội bộ của Bộ Công an. Ông là tác giả của kế hoạch chống gián điệp do chế độ Việt Nam Cộng Hoà và CIA tung ra phá hoại miền Bắc cuối những năm một chín năm mươi, đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước. Có những câu chuyện phản biệt kích lừa địch để bắt gọn hàng loạt những toán gián điệp gửi ra mà chúng không hề hay biết. Ông hoạt động an ninh giống như người chỉ huy tình báo rất xuất sắc. Các vở kịch được ông dàn dựng hoàn chỉnh, qua mặt được hết tụi CIA. Nếu như hôm nay ông bị bắt, để lộ thân phận thật của mình là cán bộ an ninh thì rắc rối với ông sẽ rất lớn. Ông bảo, mình phải dựng một vở kịch, đánh lạc hướng sự điều tra của chúng nó theo hướng tình báo, thuộc quân đội và sẽ hoạt động đơn tuyến, vừa xâm nhập vào miền Nam và bị bắt, không biết gì về công việc cụ thể sẽ rất dễ dàng trong đối phó. Hẳn trong đầu ông đã hình thành ra kịch bản của một ông đại úy Bắc Việt, muốn khai cái gì ở miền Bắc thì theo sự dắt mũi của ông, không ảnh hưởng gì tới an ninh Miền và an ninh T4 và ông sẽ diễn nó theo đúng bản lĩnh của mình. Ông nhận mình là cấp bậc đại úy (vì ông đã hơn 40 tuổi rồi) để phù hợp với vỏ bọc. Có chút trầm ngâm, anh Thống Nhất nói, bố anh đã diễn rất thành công vở kịch này, nhưng rồi ông bị lộ thân phận thật đau đớn do có kẻ phản bội và sơ xuất của lãnh đạo Ban an ninh T4 và có lúc ông đã tìm đến cái chết kiểu tự sát trong tù và sau này đây chính là nguyên do những rắc rối của ông phải giải trình sau khi chiến tranh khép lại và ông phải mất 11 năm để bảo vệ danh dự của mình và chứng minh sự trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân dân...
Hãy xem ông diễn vở kịch hoàn hảo như thế nào.
Ông kể trong hồi ký, rằng ông mới xâm nhập vào miền Nam bằng tàu thủy mới có 1 tháng. Tàu đi vào vùng Bình Đại (Bến Tre). Sở dĩ ông khai như vậy là vì khoảng thời gian tháng 11/1970 bọn địch có đăng báo là đánh được một tàu chở vũ khí của ta ở Vàm Mang Cung (thuộc huyện Thạnh Phú, Bến Tre) nên ông khai như thế tụi địch sẽ tin ngay. Bằng chiêu này, bọn địch đã bỏ luôn việc truy ông ở Định Thủy theo giấy tờ giả mà chỉ nghĩ ông xâm nhập vào để đến tỉnh đội Bến Tre, đi về Quân khu 2 của chúng ta. Nhiệm vụ chính của ông là phải giấu kín được mảng Thành uỷ, ông hiểu rằng mấy thằng hỏi cung của nguỵ hay đánh và mớm cung nên đi 3 người với nhau như thế này thì anh Bảy Sết và chị Năm cũng sẽ được tụi nó xếp vô người của tỉnh đội Bến Tre.
Ông bị tụi nó bịt mắt rồi dẫn lên phòng hỏi cung. Chúng dụ ông nên khai nhận và hợp tác với chúng để khi chiến tranh kết thúc, những người tù binh như ông có cơ hội được trở về, còn không thì... Ông trả lời tỉnh khô, ông chịu ở tù chứ không hợp tác gì cả. Thằng quân báo Tỉnh đoàn bảo an cũng đến hỏi cung ông về tình hình ở miền Bắc, ông bịa ra những câu chuyện hay thường nghe ở đài tiếng nói Việt Nam.
Buổi trưa hôm sau chúng dẫn cả 3 người trả lại trại cải huấn và nhận lại đồ ký gửi. Ông tranh thủ thời gian hiếm hoi này bên cạnh ông Bảy Sết và chị Năm để thống nhất việc khẩu cung theo kịch bản của mình. Ông thật mừng, khi chị Năm đã khai nhận với tụi nó mình là giao liên của quân khu, còn ông Bảy Sết khai nhận là giao liên của tỉnh đội. Vậy là, ông đã thành công bịt được hướng điều tra của địch hướng về Thành ủy. Sau đó tụi nó đưa 3 người về cơ quan cảnh sát vùng 4 chiến thuật ở Cần Thơ, ông không được gặp lại 2 người này nữa vì chúng giam riêng mỗi người một nơi. Kể đến đây, anh Thống Nhất có nói: sau ngày giải phóng, bố tôi có cho người đi hỏi tin tức về chị Năm và ông Bảy Sết. Theo người phụ trách giao liên của Thành ủy Sài Gòn, chị Năm được địch trao trả đầu năm 1973 sau hiệp định Paris, giờ chị đang công tác ở bưu điện Quận 5 (tp.Hồ Chí Minh), còn danh tính của ông Bảy Sết thì nghe nói có được trao trả, nhưng không biết hiện nay đang ở đâu và trực thuộc đơn vị nào? Nghe thấy nói, ông Bảy Sết còn sống và về quê ở Giồng Trôm giăng câu kiếm sống để nuôi mẹ già, mang tâm trạng rất mặc cảm vì theo cách mạng bao nhiêu năm, chịu đựng bao hy sinh, vào tù ra khám giờ lại bị tổ chức kiểm điểm và kết luận ông có khai báo gì đó dẫn đến ông Nguyễn Tài bị lộ danh tính khi bị bắt là trưởng Ban an ninh T4. Hơn ai hết, ông Nguyễn Tài là người trong cuộc, ông hiểu việc ông bị lộ danh tính không phải do ông Bảy Sết khai báo do địch đã điều tra ông ấy theo hướng là người giao liên của tỉnh đội, không liên quan gì tới Ban an ninh và nếu ông Bảy Sết có khai ra ông thì ông phải bị lộ ngay từ đầu với vở kịch của ông trong vai đại uý Hợp - tình báo đơn tuyến chứ không phải chờ mãi sau này gần giữa năm 1971 tụi nó mới bóc dỡ được tung tích thật của ông. Việc có dư luận xầm xì chuyện khai báo của ông Bảy Sết khiến ông ấy bị hàm oan, ông rất buồn và không có ai đứng ra bảo vệ cho ông nên ông trở về quê nhà như một người dân thường bị hàm oan phản bội cách mạng. Trong dịp trở lại tp.Hồ Chí Minh tháng 7/1976, khi đó ông Nguyễn Tài đang giữ chức thứ trưởng Bộ Công an được anh em Công an thành phố kể, ông Bảy Sết từ quê nhà Giồng Trôm có lên gặp an ninh thành phố, có nhiều người nói sao đó, ông Bảy Sết đã ôm mặt khóc như một đứa trẻ, nấc lên trong nghẹn ngào rồi với 2 hàng nước mắt ấy, ông đã lầm lũi cúi đầu ra về và từ đó mất hút, không ai biết ông ấy ở đâu, sống hay chết?. Tôi có hỏi anh Thống Nhất, thế hồi đó bố anh đã làm rất lớn, thấy ông ấy hàm oan, sao không chỉ đạo để giải oan cho ông ấy, khổ một đời theo cách mạng, lỡ bị địch bắt, được trở về lại bị hàm oan, không ai cứu giúp? Không phải như vậy đâu, em đọc trong hồi ký của bố anh thì thấy, ông Bảy Sết cũng được giải oan sau đó nhờ bố anh mà. Anh nói sao? Ừ, thì em biết rồi. Không ai biết ông ấy ở đâu, bố anh có trực tiếp đi tìm ông ấy được đâu? Hơn nữa vào năm 1977, bố anh cũng bị đình chỉ công tác để kiểm điểm thời gian bị ở tù, chịu hàm oan giống như ông Bảy Sết thì sức đâu mà đi minh oan cho ông ấy, trong khi mình còn phải đối mặt với khó khăn khó lường? Chỉ mãi sau này, khi năm 1988, bố anh được kết luận là không có vấn đề gì, được giải toả tất cả thì mới có cơ hội tìm cách giải oan cho ông Bảy Sết.
Vào khoảng năm 1990, qua bà Năm Liêm, phó giám đốc Công an Bến Tre, bố anh được biết ông Bảy Sết đang còn sống ở Giồng Trôm như một người thường dân. Trong lần vào thăm Bến Tre sau đó, bố anh đã được bà Năm Liêm dẫn đến nhà ông Bảy Sết. Bố bảo, sót sa với hoàn cảnh của Bảy Sết bị đối xử không đúng mà không ai minh oan được cho ổng. Cái ôm thật chặt và ngậm ngùi của 2 người tù khi xưa được gặp lại nhau sau 20 năm kể từ ngày định mệnh lỡ bị bắt ngày 23/12/1970 trên sông Cửu Long và bố anh thì ân hận ngay sau giải phóng không gặp được ông ấy để minh oan khiến cho một người chiến sỹ anh ninh T4 dũng cảm bị hàm oan, sống một cuộc đời cơ cực và thất vọng suốt 15 năm trường sau ngày giải phóng và chỉ biết cúi đầu không dám nhìn mặt đồng đội và bà con lối xóm với thân phận của kẻ phản bội cách mạng.

Còn ông Bảy Sết thì cũng đã nuốt vào trong lòng những giọt nước mắt mặn chát xót thương cho người thủ trưởng của mình phải mười một năm chịu hàm oan để được trở về với hàng ngũ những người cộng sản kiên cường, trung thành tuyệt đối với Tổ quốc. Bố anh cũng đã làm việc với Công an thành phố Hồ Chí Minh để giải oan cho ông Bảy Sết, làm thủ tục hưu trí cho ông, cùng với Công an Bến Tre xây cho ông một căn nhà tình nghĩa và giúp ổn định nơi ăn chốn ở cho ông tại thị xã Bến Tre.

Giờ trở lại với những ngày tháng của ông Nguyễn Tài sau khi bị địch đưa về Cảnh sát Vùng 4 chiến thuật ở Cần Thơ. Tụi nó cầm tờ khai của ông, hỏi sơ về lý lịch. Nó bảo ông tả cho chúng nghe về cái tàu mà ông cùng 4 người nữa đi vào trong này( tất nhiên đây là chuyện ông bịa ra ), nó hỏi về chuyện ông đi làm căn cước giả( vì đây là biên lai thật của chúng ), ông bảo là ông ở Giồng Trôm, chuẩn bị đi lên Khu nhưng đường dây đang bị tắc. Nhân có người chuẩn bị đi làm giấy căn cước Rồng xanh bị chết vì pháo của bọn chúng, Tỉnh đội thấy hợp với khổ người của ông nên cho người dẫn ông đi thay thế. Còn 4 người đi cùng vào Bình Đại với ông thì họ đã lên Khu hết rồi, giờ còn mình ông. Sở dĩ ông phải đi làm giấy tờ hợp pháp là vì ông là tình báo viên đơn tuyến, phải chuẩn bị điều kiện hợp pháp để sang Pháp hoạt động lâu dài, ông biết nói tiếng Pháp. Nó hỏi, ông định làm nghề gì để hoạt động tình báo? Ông đáp, tôi làm nghề phóng viên. Nó gật gù, chấp nhận lời khai của ông là hợp lý. Chiều tối, có thằng đeo lon thiếu úy tới và bảo ông ngày mai chúng sẽ đưa ông đi Sài Gòn, ở trên đó người ta sẽ tra khảo ông theo cách của người làm chiến lược vì ông là tình báo đơn tuyến.


2 - Những cuộc hỏi cung đầu tiên ở Phủ đặc uỷ trung ương tình báo


Bị dẫn lên Sài Gòn, ông Nguyễn Tài đã bị địch nhốt ở số 3 Bạch Đằng. Nơi đây chính là nơi giam giữ, xét hỏi của Phủ đặc ủy trung ương tình báo nguỵ mà ông Ba Quốc ( Đặng Trần Đức ) - một tình báo viên xuất sắc của chúng ta với vỏ bọc đang được cắm sâu ở đây. Buổi hỏi cung đầu tiên, cũng có 2 thằng, một thằng già hỏi và một thằng trẻ ghi. Nó hỏi phần lý lịch, ông khai lại giống như ông đã khai ở Cần Thơ, ông bịa ông là tình báo viên, giờ thì cuộc chơi của ông thật sự bắt đầu với những màn đấu trí, giả thật lẫn lộn theo kịch bản ông đã bày sẵn trong đầu. Ông dẫn dắt cuộc chơi và nói: người chỉ huy của ông ở ngoài Bắc là trung tá Vũ( ông Vũ là trung tá tình báo có thật, nhiều cán bộ tình báo của ta bị bắt có khai ra tên ông Vũ này, trên thực tế ông Vũ là bạn của ông, nhưng từ năm 1964 ông Vũ không còn ở bên tình báo nữa ). Nó hỏi ông lý do đi Hồng Ngự, ông bảo để ông gặp đại diện Cục tình báo trong này để nhận nhiệm vụ cụ thể. Phải tạo vỏ bọc hợp pháp để sinh sống và sau đó tìm đường qua Pháp hoạt động lâu dài. Rồi chúng lại hỏi linh tinh để thẩm định rõ thêm ông có phải từ ngoài Bắc vào không? Ông trả lời: tôi lúc nhỏ học ở trường trung học Văn Lang, ông nói trôi chảy, nó hỏi rất sâu về ngôi trường, tên các thầy giáo và ông nói đúng khiến nó gật gù, xem ra thằng này là người Hà Nội cũ. Nó hỏi bí số công tác tình báo của ông là gì? Do đã chuẩn bị kịch bản trong đầu, ông bảo tôi là T.53. Để hiểu tại sao ông lại khai là T.53, ông đã lý giải trong hồi ký là chữ này do ông Trần Quốc Hoàn (Bộ trưởng Bộ Công an) đặt cho ông khi đi vào Nam và dùng cho dễ nhớ, hơn nữa ông đã tính đến phương án nếu ta có cơ sở trong cơ quan tình báo này mà báo cáo về thì hy vọng ở ngoài sẽ phán đoán ra ông. Ông lại khai với chúng, ông đi Hồng Ngự là để gặp đại diện Cục nghiên cứu có bí danh B.106 (cái này ông bịa, để nhớ cho lô-gic, TB là tình báo, 106 là 53x2)...
Vài ngày, chúng cứ hỏi đi hỏi lại để xem ông khai có nhất quán không, còn ông thì tỉnh táo, chúng chưa đánh đập gì ông...
Hôm nay thì ông bắt đầu đối diện với tụi Mỹ để tụi nó hỏi cung ông. Chúng cũng hỏi lại một số vấn đề mà ông đã khai với bọn lính nguỵ. Chúng muốn tìm hiểu về 4 người đi cùng với ông khi đi tàu vào Bình Đại. Thật ra, đây là chuyện ông bịa ra, nhưng ông đã phải đối đầu với chúng bằng trò chơi nghiệp vụ của CIA. Chúng mở cái hộp to đựng mấy tập sách ra, toàn là ảnh. Có đoạn thì toàn là các kiểu mắt, đoạn thì toàn các loại mũi, mồm, chân mày,...rồi đến tai, tóc, khuôn mặt. Tụi nó đặt trước mặt ông một miếng gỗ to bằng cuốn vở, có 2 cọc sắt nhỏ cắm ở bàn gỗ. Móc ra mấy hộp toàn là giấy mica trong suốt được in hoặc một cái mũi, hoặc một cái mồm hay một cái tai. Nó giải thích với ông, trong 4 người đi cùng tàu với ông, nay họ đã trốn lên Khu, ông hãy nhớ lấy mặt từng người. Nhìn vào sách, thấy cái mắt, cái cằm, cái tai mà giống của ai thì xem số chú thích lấy một miếng mica cùng số rồi đặt vào cọc rồi lại tìm cái khác đặt chồng lên trên. Khổ cho ông là 4 người đi cùng do ông bịa ra, giờ phải nghĩ bịa ra 4 khuôn mặt rồi bắt đầu chọn chọn, lựa lựa làm xong 4 mặt hình người chỉ ở trong tưởng tượng. Khi đã có hình 4 khuôn mặt, chúng có thể cho truy tìm ngay vì chúng nghi đều là tình báo giống ông nên truy bắt. Kết thúc buổi xếp hình 4 khuôn mặt, chúng hỏi ông được huấn luyện tình báo như thế nào? Ông bảo, lúc đầu được trung tá Vũ huấn luyện một mình, sau được gửi đi học tình báo ở Côn Minh( Trung Quốc ). Ông đã ghi chép bản lý lịch của mình như đã khai cho tụi chúng nó trong 4 trang giấy và gần như ông thuộc nằm lòng những điều đã khai. Trong phần các bài học tình báo, ông ghi những cái mà thế giới đã công khai hoá chứ chả mới mẻ gì. Ông có được học chụp ảnh, viết mực hoá học, nhưng không được học vô tuyến điện vì cấp trên nói không cần, sẽ có địa chỉ liên lạc bằng thư ở nước trung gian.


3 - Đối mặt với máy phát hiện nói dối


Một buổi sáng, chúng dẫn ông đi lấy cung như mọi ngày. Nhưng hôm nay, chúng lại dẫn ông vào một phòng rất đặc biệt, ở đó đã có 2 thằng Mỹ và một con phiên dịch cùng với một lô máy móc để sẵn ở trước mặt. Một thằng bảo, hôm nay chúng tôi kiểm tra xem anh nói thật hay nói dối. Chúng tôi đã làm sẵn các câu hỏi, ông được quyền xem trước. Ông chỉ có quyền trả lời có hoặc không, không nói dài dòng. Đọc các câu hỏi, chúng đều dựa vào các bản cung của ông, không có gì khó trả lời cả. Đi vào trắc nghiệm, tên Mỹ đến gắn dây vòng quanh ngực, vào tai, vào các đầu ngón tay của ông. Chúng bịt mắt, bắt ông ngồi thẳng. Con phiên dịch đứng sau lưng đọc chậm từng câu hỏi, ông trả lời có hoặc không. Tới quá trưa thì xong. Hôm sau, chúng lại làm tiếp trắc nghiệm với những câu hỏi khác. Cuối buổi, nó bảo: bây giờ cho ông chọn một chữ số từ 0 đến 9. Nhưng lần này, khi tôi hỏi thì ông được quyền nói sai, tôi sẽ vạch cho ông thấy công hiệu của máy. Thế rồi cuộc trắc nghiệm bắt đầu. Ông đã hiểu bản chất của nguyên lý trắc nghiệm này. Khi nó hỏi tới số mà ông chọn, ông phải nói không và đồng thời thở mạnh, hồi hộp. Mục đích ông làm như vậy để máy ghi cảm xúc của ông khi nói sai, tụi nó sẽ căn cứ vào đó rà lại toàn bộ các băng mà chúng đã bí mật ghi âm các lời cung của ông; trên cơ sở đó đánh giá các sự trả lời của ông, thấy đều đúng sự thật. Sau khi làm trắc nghiệm này, thằng Mỹ xem băng ghi một lát rồi nói đúng con số ông đã chọn. Khi đó, ông biết là nó đã bị ông lừa, nhưng ông làm bộ khâm phục cái máy. Thật ra, ông Nguyễn Tài đã diễn vở kịch rất hoàn hảo trong vai đại úy tình báo Hợp, vượt qua được các cuộc hỏi cung của tụi nó và vượt qua máy phát hiện nói dối một cách ngoạn mục. Đến đây, tụi Mỹ đã chịu tin theo lý lịch giả của ông và ông đã thành công trong việc đánh lừa tụi CIA. Song thật chớ trêu, do bên ngoài, các đồng đội của ông đã vô tình làm lộ danh tính của ông và nhiều tên phản bội chiêu hồi, ông phải đối mặt với những trận đòn tra tấn dã man và những năm tháng tiếp theo đã khắc hoạ nên khí phách anh hùng của ông. Vậy, ông bị lộ danh tính như thế nào? Câu chuyện kể tiếp theo của ông trong hồi ký khiến người đọc thót tim.


Mời các bạn đón đọc trong kỳ tới.
(còn tiếp).



Bài 5: Bị lộ chân tướng.

Chanh Nguyen


Mỗi một ngày bị giam và xét hỏi ở Phủ đặc uỷ trung ương tình báo nguỵ tại số 3 bến Bạch Đằng đối với ông Nguyễn Tài là một cuộc chiến rất cân não để vượt qua mọi thử thách không chỉ bị tra tấn tàn bạo mà còn phải khôn khéo ẩn núp an toàn trong vỏ bọc do mình tạo dựng nên. Đủ các trò để cho tụi chiêu hồi nhận mặt và kể cả cài tụi phản bội đóng giả người bị bắt giam phòng bên cạnh đánh mooc ký hiệu vào tường để gài bẫy ông. Nhưng ông rất tỉnh táo để không bị mắc bẫy và có vẻ như tụi chúng nó đang hoàn thành hồ sơ, kết thúc điều tra rồi sẽ dày ông đi nhà tù Phú Quốc hay Côn Đảo.

1 - Những đòn tra tấn dã man


Thế mà sau gần một tháng chỉ bị hỏi linh tinh, một hôm ông bị tụi nó bịt mắt và dẫn ra ô tô đến phòng hỏi cung ở Ban U , đường Trần Bình Trọng. Nơi đây ông đã bị tụi nó dẫn tới nhiều lần để vừa hỏi cung và vừa tra tấn.
Lần này, ông có linh tính điềm chẳng lành, có thể chúng có thêm tài liệu gì đó để cố bóc dỡ thân phận giả là đại uý tình báo viên Hợp chăng? Chưa kịp để ông kết thúc trong đầu những suy tính, thằng hỏi cung nói: hôm nay chúng tôi muốn ông thành thật khai nhận với chúng tôi ông thật sự là ai? Chúng tôi có thể đã tin ông là đại úy tình báo của Bắc Việt được cử vô trong này hoạt động đơn tuyến. Có nhiều nghi vấn, ông là người có trình độ hiểu biết về rất nhiều việc qua thời gian lấy cung của ông. So với một số tù binh tình báo như ông mà chúng tôi bắt được, họ thua xa ông về trình độ hiểu biết và thời gian qua chúng tôi có thêm được nhiều thông tin để tìm hiểu về con người của ông. Ông Nguyễn Tài vốn nhạy cảm, chắc tụi bay lại có trò gì mới đây ? Ông bình thản trả lời, tôi đã khai báo với các ông tất cả sự thật, tôi là đại uý Nguyễn Văn Hợp, một tình báo viên của miền Bắc. Ừ, nó nheo mắt và tiến lại sát ông rồi chậm rãi gằn từng tiếng: được rồi, chúng tôi sẽ lột mặt nạ của ông, ông là một tình báo viên hay là một thằng an ninh thứ gộc? Ông sẽ phải thành khẩn khai nhận thì ông sẽ có con đường sống để hy vọng sau này được trở về với gia đình. Thời gian qua chúng tôi đã rất mất thời gian để làm rõ lai lịch của ông. Thoáng nghĩ nhanh trong đầu, sao chúng lại chuyển hướng điều tra lại theo hướng mình là một sĩ quan an ninh nhỉ? Hay là có ai bị bắt đã khai ra mình? Thằng hỏi cung cầm một tờ bìa, bên trong có mấy tờ đánh máy, nó đọc lướt qua rất nhanh rồi nói:
- Ông có biết Hai T. là ai không?
- Không.
Ông đáp bình tĩnh nhưng với kinh nghiệm của người làm an ninh, ông đã lờ mờ hiểu rằng chúng đã bắt được Hai T. nào đấy và khai ra ông? Thấy ông im lặng, có vẻ trầm ngâm, thằng hỏi cung vỗ vai ông và bảo ông cứ bình tĩnh nhớ ra đi. Nếu không nhớ được thì tôi sẽ giúp ông. Giờ thì đúng là cuộc đấu trí thật rồi. Hai T. là ai mà lại biết mình? Hay là anh Hai Tân ở tuyên huấn Thành ủy, anh ấy bị bắt cuối năm 1969. Cần nói rõ thêm để cho bạn đọc hiểu, ông Hai Tân ở tuyên huấn Thành uỷ mà ông Nguyễn Tài nhắc đến ở đây cũng là một cán bộ cao cấp, sau ông bị tụi nó đày ra Côn Đảo và chỉ trở về sau ngày 30/4/1975. Ông Hai Tân tên thật lả Trần Trọng Tân, sau làm phó bí thư Thành uỷ tp.Hồ Chí Minh rồi là Uỷ viên trung ương Đảng, trưởng Ban Văn hoá tư tưởng của Đảng. Không lẽ anh Hai Tân lại khai ra ông? Người tiếp theo ông nghĩ tới, có thể là anh Hai Tân, cán bộ an ninh Miền, là điệp báo trong thành, có cả một lưới hoạt động bí mật. Không lẽ lại là anh Hai Tân an ninh bị địch bắt rồi khai ra ông? Không thể như thế được, anh Hai Tân bản lĩnh lắm. Tôi cũng xin nói rõ về ông Hai Tân làm an ninh Miền này cho khán giả được biết. Tên của ông Hai Tân là Nguyễn Phước Tân, ông sinh năm 1930. Tên thật của ông là Nguyễn Văn Chẩn, bí danh Hai Tân, Bảy Chẩn, Bảy Hưởng. Ông là trung tướng an ninh nhân dân, nguyên phó Tổng cục trưởng Tổng cục an ninh(Bộ Công an). Ông được phong tặng danh hiệu AHLLVTND. Ông được xem là một trong cán bộ lãnh đạo lão thành của của lực lượng an ninh với sự nghiệp gắn với cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ông là ủy viên Ban an ninh Trung ương cục, phụ trách tiểu ban điệp báo. Ông phụ trách đầu mối tình báo quan trọng có Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đình Ngọc, người của Bộ Công an điều động từ châu Âu về hoạt động ở Sài Gòn năm 1968 dưới vỏ bọc là Giáo sư toán. Ông Ngọc đã cung cấp cho trung ương cục rất nhiều tin tức tình báo quan trọng, sau này ông Ngọc được thăng quân hàm thiếu tướng. Những ai đã đọc hồi ký của ông Ngọc, hẳn không quên chi tiết ông Ngọc đã viết về sự kiện ông được ông Hai Tân giao nhiệm vụ gọi cho đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn năm 1972 sau khi ông Nguyễn Tài đã bị lộ hoàn toàn tung tích để xin đàm phán trao đổi ông ấy để lấy một cựu tình báo CIA bị ta bắt giữ. Ông Ngọc đã ra bưu điện thành phố, bằng điện thoại công cộng nhân danh người của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam muốn đàm phán phi vụ này nhưng bị tụi CIA ở Đại sứ quán Mỹ từ chối thẳng thừng và chúng bảo không bao giờ có thể trao đổi vì ông Tài là người rất quan trọng với chúng.
Nghĩ thêm chút nữa, không biết có ai tên Hai T. lại biết và khai ra ông nữa nhỉ? À, ông chợt phát hiện ra có cái tên Hai T. là cán bộ điệp báo của an ninh T4 mà ông làm Trưởng ban. Nhưng cậu điệp báo này chưa bao giờ được gặp ông. Thấy vẻ trầm ngâm của ông, thằng hỏi cung lại nhắc: sao, ông không biết Hai T. là ai à ? Vậy tôi nhắc để ông nhớ ra người đồng chí của mình nhé. Chúng tôi đã bắt được Hai T. Nó có nhiệm vụ đi tìm hiểu xem Nguyễn Văn Lắm là ông đây hiện đang bị giam ở đâu? Người của các ông bảo muốn chuộc mấy triệu đồng cũng được. Ông nên hiểu, một thằng tình báo viên quèn như ông thì họ không thể bỏ ra một số tiền lớn như vậy? Hẳn ông là người rất quan trọng. Tôi cho ông thời gian để ông tiếp tục suy nghĩ để lát nữa trả lời tôi. Nói xong, nó bỏ ra ngoài...
Thôi chết, sự việc bắt đầu phức tạp thật rồi. Như vậy đã rõ, Hai T. này là điệp báo của an ninh T4 đã bị bắt. Bây giờ thì chúng sẽ điều tra theo hướng mình là người của an ninh chứ không phải là tình báo. Tại sao lại có chuyện đi tìm kiếm và xin chuộc mình với giá cao như thế này? Làm như vậy thì mình bị lộ hoàn toàn rồi? Ai chỉ đạo việc này? Thôi, giờ thì cái vỏ bọc đại uý tình báo viên Nguyễn Văn Hợp đã dày công xây dựng và vượt qua được tụi nó sẽ bị quẳng vào thùng rác. Chúng sẽ tập trung xét hỏi lại từ đầu để lần ra đầu mối. Những gì chúng đã biết? Người bị bắt là những ai nữa ngoài Hai T.? Sẽ phải có kịch bản đấu tranh như thế nào để mình không bị lộ? Anh Thống Nhất có chia sẻ với tôi, bố anh bảo giây phút ấy rất căng thẳng vì bị bất ngờ, chưa đủ thời gian để có kịch bản cho vở diễn mới và hơn nữa, quan trọng nhất là không biết chúng đã nắm được những thông tin gì? Mình không nhận, chắc chắn chúng sẽ dùng cực hình tra tấn dã man để ép mình phải nhận? Nhưng không biết từ đâu, ông đã lấy lại được sự tự tin và chấp nhận đối mặt với những đòn tra tấn, cùng lắm thì cũng chết là xong, chẳng có gì phải khai báo.
Một lúc sau, thằng hỏi cung bước vào. Vẻ mặt hớn hở, nó nói: tui nghĩ ông đã suy nghĩ kỹ và nên hợp tác với chúng tôi để chúng tôi khỏi mất thời gian. Ông vẫn im lặng. Nó hỏi lại rất quyết liệt:
- Biết Hai T. không?
- Không.
- Biết Bánh không? Bánh là Hai T., người của anh ninh Sài gòn-Gia định đó?
- Không. Tôi là đại uý Nguyễn Văn Hợp. Tôi không biết ông này!
- Thế ông có biết Sáu Ngọc không?
- Không.
- Thế tại sao Sáu Ngọc lại bảo Hai T. đi tìm lo cho ông? Hẳn ông phải là người của bên an ninh thì họ mới làm như vậy bằng mọi giá?
- Tôi không biết các người đó.
Thôi, thế là đã rõ, ông tự nghĩ. Giờ thì anh Sáu Ngọc đã làm lộ ra ông mất rồi? Vậy ông Sáu Ngọc là ai? Xin thưa với các bạn, ông Sáu Ngọc còn có tên là Ba Tâm. Tên thật là Lê Thanh Vân. Ông Sáu Ngọc là phó cho ông Nguyễn Tài khi đó, tức phó Ban an ninh T4. Ông Sáu Ngọc sau này là thiếu tướng, nguyên giám đốc Công an thành phố Hồ Chí Minh, ông cũng được tuyên dương danh hiệu AHLLVTND. Về sau này, sau giải phóng, ông Sáu Ngọc thường nói: tôi rất ray rứt và ân hận do sơ xuất của mình mà vô tình làm lộ danh tính của anh Tư Trọng (tức Nguyễn Tài).Cũng chỉ vì nôn nóng muốn cứu bằng được anh, nhưng không ngờ... Vậy là đã rõ, anh em cũng chỉ vì muốn cứu mình thôi, nhưng những rắc rối lại đến với ông lúc này và biết phải chống đỡ như thế nào?
Thằng hỏi cung không giữ được sự bình tĩnh, nhắc lại: có biết Sáu Ngọc không? Ông vẫn trả lời, không! Thế là chúng cặp điện vào tay, vào tai ông và cho điện giựt. Ông ngã xỉu xuống sàn nhà. Chúng lại dựng ông lên, lại chích điện, ông lại ngã và cứ như thế, chúng liên tục hỏi có biết Sáu Ngọc không, vẫn những câu trả lời của ông là không và dòng điện ác độc cứ thế chích vào con người tội nghiệp của ông không biết bao nhiêu lần cho tới lúc ông không còn trả lời chúng được. Chúng nó nhìn nhau, lắc đầu và đợi một chút cho ông tỉnh hẳn, chúng xốc ông đứng dậy và đưa sang một phòng tra tấn bên cạnh. Một thằng bảo, cho nó nếm mùi đòn nước. Ông đã nghĩ, chắc tụi này cho đầu ông vào thùng phi ngập nước rồi gõ xung quanh. Trò tra tấn ác độc này ông đã từng được nghe kể, người tù bị ù tai, máu ở tai và miệng chảy ra chỉ sau vài phút. Nhưng bước vào phòng, ông không thấy thùng phi nước? Chúng bắt ông nằm ngửa trên sàn, hai tay bị trói chặt, ở bên trên có một vòi nước. Chúng căn cho vòi nước khi mở khoá thì nước chảy đúng vào mũi của ông. Chúng dùng ghẻ lau che kín miệng ông lại nên ông không thể thở được bằng miệng. Chúng bắt đầu mở vòi nước khi to, khi nhỏ chảy xuống cánh mũi của ông. Ông gồng mình chịu đựng, được một lúc thì chúng dừng lại, lấy giẻ ra cho ông oẹ mấy lần tới tức ngực, sau chúng lại bịt miệng ông tiếp bằng giẻ và mở nước tra tấn tiếp. Cứ thế, chúng hành hạ ông cho tới lúc ông gần mềm nhũn người ra thì thôi. Chúng đưa ông về phòng giam, vứt đó. Người ông lạnh run, ông thiếp đi trên sàn xi măng lạnh. Ngoài cửa phòng, chúng cử người canh và lâu lâu ngó vô cái khung vuông nhỏ ở cửa để xem ông có còn sống hay không? Ông tỉnh lại, ngước nhìn lên trần phòng giam và tự an ủi mình. Không sao, tao sẵn sàng chấp nhận tất cả những cực hình của tụi mày, cái chết không làm ông run sợ. Chiều tối, tụi nó quẳng cho ông mẩu bánh mỳ và bảo ông ăn đi. Ông lắc đầu, ông bảo mệt, không muốn ăn. Tưởng đâu nó cho mình nghỉ, nhưng không. Một thằng bước vào nói lạnh lùng: tụi tao cho mày nghĩ thêm nửa tiếng nữa, nếu không khai nhận, mày sẽ phải tiếp tục ăn đòn nữa, cố gắng mà chịu nhé! Khi nó rời đi, ông chỉ nghĩ, sợ gì. Chúng mày cứ tiếp tục đi, tao sẽ đương đầu. Trong hồi ký của ông, ông dành nhiều trang viết để mô tả trò tra tấn dã man sau đó. Tôi đọc mà rợn cả người phải cố gắng kìm nén để không rơi nước mắt. Ông kể, sau đó chúng lôi ông sang một phòng tra tấn khác. Chúng bắt ông nằm ngửa trên một cái ghế dài, đầu sẽ nằm thấp hơn chân(nằm chúc đầu xuống), khổ nỗi cái ghế không đủ dài để ông nằm trọn trên đó, đôi chân của ông nằm trọn ra ngoài, nằm trong tư thế này ông bảo rất khó chịu. Chúng lấy nẹp gỗ, đóng đinh vào ghế để giữ đầu ông ở nguyên một chỗ, không được ngọ nguậy. Sau đó chúng dùng dây trói 2 cổ tay ông xuống gầm ghế và buộc toàn thân ông vào ghế. Phía trên khung cửa, chúng treo một bình thuỷ tinh y tế đầy nước có ống dẫn nước ra như thể người bệnh được truyền nước ở bệnh viện. Không hiểu chúng sẽ làm trò gì đây? Ông nằm ngửa ở phía dưới, chúng bắt đầu cho nước nhỏ xuống từng giọt vào tinh mũi của ông. Ban đầu chả thấy cảm giác gì, nhưng giờ này qua giờ khác, hết cả một đêm sau đó, ngày hôm sau, đêm sau và sáng sau nữa thì ông đã cảm giác thật kinh khủng, cảm tưởng mỗi giọt nước như một nhát búa bổ vào đầu ông. Nó không cho ông nhắm mắt, bắt mở mắt nhìn giọt nước rơi vào tinh mũi của mình thật ghê rợn. Nhiều lúc mắt ông toét nhoèn, nó lấy giẻ để chùi. Ông phải nằm đó chịu trận, không được ăn uống gì. Nhiều lúc ông đòi đái, tụi nó tháo dây cho ông ngồi, ông đái vào lon sữa bò để sẵn ở đó. Chúng đứng canh ông thay phiên nhau, mặc cho muỗi đốt ông. Chịu đựng như vậy, hai tay, hai bả vai đau ê ẩm, đầu thì nhức kinh khủng, về sau luôn có cảm giác lạnh nửa đầu, nửa đầu thì có cảm giác như đang có dòng điện chạy qua. Chưa dừng ở đó, chúng dùng dùi cui đánh đều đều vào ngực ông và thỉnh thoảng lại hỏi: có biết Hai T. không? Ông vẫn nói không. Chúng lại bảo, mày là an ninh chứ đâu có phải là tình báo, nếu không thì tại sao bọn an ninh lo cho mày? Nhiều lúc chúng lại hỏi, có biết Sáu Hoàng không? Tư Trọng không? Biết Sáu Ngọc không? Ông vẫn đáp "không". Xin nói rõ, Sáu Hoàng chính là một lãnh đạo cấp cao của Ban an ninh trung ương cục. Sau này ông là thượng tướng, thứ trưởng Bộ Công an. Khi thấy chúng tra tấn mình rồi lại hỏi có biết Tư Trọng không(Tư Trọng chính là bí danh của ông) thì đồng nghĩa với việc ông chưa bị lộ thân phận. Chúng chỉ nghi ông là an ninh nên tập trung hỏi những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Ban an ninh trung ương cục và Ban an ninh T4. Khi thấy tay ông bị bầm tím vì trói chặt, chúng mở dây cho đỡ để máu lưu thông rồi cột lại. Cái này chúng có nghiên cứu ghê lắm, ra vẻ tử tế. Thà cứ để nguyên cho tê dại thì không cảm thấy đau, nhưng khi chúng cột lại thì ông cảm thấy đau vô cùng. Thấy ông không một tiếng rên vì đau đớn, có lần chúng lấy 2 cái thước kẻ kẹp ngón tay ông khiến ông đau nhức tới tim và có cảm giác như bị gãy xương. Rồi nó bảo, tụi tao còn nhiều kiểu chơi nữa, đơn giản nhưng hay lắm, chờ đấy sẽ cho mày nếm đủ để mày phải mở miệng mà khai ra. Anh Thống Nhất có tâm sự với tôi, bố anh khi kể những màn tra tấn của tụi nó, ông trầm ngâm thật lâu, như hồi tưởng về những ngày cùng cực hứng chịu những ngón đòn của lũ lòng người dạ thú rồi nói: không ít cán bộ của ta bị địch bắt, chịu không nổi những cực hình tra tấn của chúng nên khai báo, gây thiệt hại rất lớn. Với ông Nguyễn Tài, ông đã phải chứng kiến những kẻ phản bội nhận diện và khai báo của họ khiến ông bị lộ hoàn toàn thân phận.

2 - Bước đầu bị lộ danh tính


Ông viết trong hồi ký, những trận đòn của giặc có tàn độc tới đâu thì ông đều chịu được vì ông xác định một khi đã rơi vào tay địch thì có thể phải hy sinh. Cái chết đến bất cứ lúc nào và chỉ khai báo theo kịch bản của mình đã vạch ra. Đối với những trường hợp khác, ông chỉ nói không biết và sẵn sàng chịu đựng tiếp những ngón đòn tra tấn của chúng. Cuốn hồi ký của ông "Đối mặt với CIA" là tập tư liệu quý, chân thật, bản lĩnh của người cộng sản giữ vững khí tiết trong lao tù của giặc để rồi đã có biết bao người con trung kiên phải hy sinh.
Ông nhớ lại, một hôm ở trong phòng giam, ông nghe rõ tiếng đánh và tiếng thanh sắt khua ở bên phòng tra tấn. Rõ ràng chúng đang tra khảo một người mới bị bắt. Ông nghe được mấy câu hỏi và trả lời :
- Ai làm lớn nhất trong tổ chức này?
- Ba Sáng,- một giọng yếu ớt trả lời.
Ông đã giật mình, vì Ba Sáng cũng chính là bí danh của ông. Vậy là chúng đang tra khảo một người nào đó của an ninh T4 mà chúng bắt được. Như thế này thì chúng cho nhận diện ông thì ông sẽ bị bại lộ. Tình huống xấu như thế này ông chưa dự tính đến, tuy rằng đến giờ phút này chúng chưa biết ông đích danh là ai, chúng sẽ tập trung để làm rõ qua những kẻ phản bội và chiêu hồi mà chúng nắm trong tay. Ngước lên trần phòng giam, có một tia sáng nhỏ lọt qua khe cửa, tự nhiên trong ông sống dậy một niềm tin, niềm hy vọng rằng mình sẽ chiến thắng được trận chiến này để trở về với đồng đội và gia đình, nơi đó có người vợ và bốn con thơ đang ngóng trông ngày gặp mặt. Đang trong những suy nghĩ miên man như thế, bỗng có một thằng lính gác ở đâu ghé tới nhìn qua ô vuông ở cửa và nói: Hợp ơi, tao có một số chuyện rất hay sẽ hỏi mày đấy. Và ông lại càng nóng lòng không biết tụi nó đã khai thác được thông tin gì để bóc tách thân phận thật của ông? Mỗi phút qua đi thật nặng nề và ông đang sắp sẵn những câu trả lời để tự bảo vệ mình. Nhưng chờ mãi vẫn không thấy nó ghé lại. Có thằng lính đi tới và nói với ông: ông có biết các người đó không? Ông không nói là sẽ bị bỏ đói nằm đó cả tuần đấy. Ông chỉ cười và bảo, tôi đã nói rồi, tôi không biết những người đó, còn các ông không cho ăn thì tôi sẽ chịu đói. Thằng lính lắc đầu rồi bỏ đi, có lẽ nó chưa từng được chứng kiến có người tù nào kiên cường như vậy, chấp nhận tất cả, không than và không rơi một giọt nước mắt sợ hãi nào trước những cực hình tàn bạo của đám điều tra xét hỏi. Anh Thống Nhất kể lại với tôi, nhiều lúc anh nghe bố kể chuyện bị chúng nó bỏ đói dài ngày mà ông vẫn bình thản, nước mắt của anh tuôn rơi, không hiểu bố lấy đâu ra bản lĩnh kiên cường như thế và rồi cũng tự giải thích được cho mình là vì ông tin tưởng ở lý tưởng cộng sản trong lòng và ông sẵn sàng hy sinh cho lý tưởng của mình nên coi cái chết nó thật nhẹ, chấp nhận bất cứ lúc nào để được chết cho Tổ quốc, cho nhân dân mà ông yêu mến. Nghe tới đây, mắt tôi cũng chớm lệ và cảm phục khí phách anh hùng của ông.
Tôi lại lần giở theo từng trang nhật ký của ông, kể lại cho các bạn ông Nguyễn Tài đã phải nhịn đói như thế nào.
Qua hai đêm, một ngày rưỡi, chúng hỏi ông, ông vẫn bảo không biết. Ông đã cảm thấy mắt mình nhìn như bị loạn, thấy cả cái chợ họp trước mặt mình nhộn nhịp. Trưa đó, ông nằm trong phòng, thấy tụi nó dẫn một người đi ngang qua phòng ông rồi ngó vào và nói: tổ chức này phức tạp lắm. Rồi họ bỏ đi. Trong cơn đói, nhưng ông vẫn đủ tỉnh táo để nghĩ, trời ơi, chúng lại bắt được cán bộ an ninh của ta, chúng đang tìm mọi cách để bóc dỡ thân phận của mình rồi. Cơn đói cũng tự nhiên tan biến. Dù chúng doạ bỏ đói, nhưng rất đểu. Chúng cho một đàn em gạ cho ông ăn ra vẻ xót thương. Ông lắc đầu và bảo: các ông bắt tôi nhịn thì tôi nhịn, tôi chỉ uống nước thôi. Trong thâm tâm, ngầm ý ông cũng gửi cho chúng nó thông điệp rằng, nếu được chết cũng may, sức đang yếu, bị tra tấn thì càng mau chết thôi. Ông tâm sự trong hồi ký, mấy ngày đầu bị chúng nó bỏ đói, dạ dày hành hạ ông vào giờ ăn thường lệ. Thay vào đó là nước lã. Sau quen dần và ông đã nhịn ăn được 6 ngày rồi. Có lẽ nhìn thấy sự kiên cường của ông để sẵn sàng đón nhận cái chết, bọn nó đã đầu hàng ông và không muốn ông chết khi chưa moi được ở ông những tin tức quan trọng. Chúng cho một thằng mang một ca cháo tới cho ông và nói: ông đã được ăn. Rồi nó nhìn ông đầy cảm phục, nói thêm, ông ơi, ở tù phải giữ sức chứ ông? Ông phải biết tranh thủ, chứ ai ông cũng chống thì chịu sao nổi? Chúng cho y tá tới xem, ông bảo ông vẫn bị đi tiêu ra máu, nó phát cho ông mấy viên stovarsol. Thế là chấm dứt đợt thử thách này. Ông chuẩn bị cho các cuộc tra tấn tiếp theo.
Vài hôm sau, chúng lại đưa ông từ trại giam tra tấn ở Ban U nơi đường Trần Bình Trọng về lại số 3 bến Bạch Đằng. Ông hiểu mình phải chuẩn bị đối mặt với những thách thức mới. Đúng như nhận định của ông, trong lúc làm thủ tục để nhập lại, tụi nó cố tình bắt ông chờ lâu và ông đã cảm nhận ông ngồi đó để cho ai đó ở phòng kế bên đang nhận mặt. Với sự cảm nhận ấy, ông có chút lo bị tụi nó nhận diện ra mình, không biết rồi sẽ phải ứng xử như thế nào, bởi trong cuộc chơi này, giờ ông không phải là người chủ động dẫn dắt cuộc chơi theo kịch bản của mình nữa rồi.
Ông bị gọi lên phòng hỏi cung. Vẫn thằng hỏi cung cũ người mập mạp, nó hỏi ông có bị bệnh gì không mà nhìn ông gầy thế? Nó bảo, tôi với ông đều lớn tuổi, tôi nói trước với ông, ông nên nghĩ kỹ kẻo bảo tôi không nhắc. Giờ thì lời khai đại uý Hợp của ông không còn đúng đâu. Chúng tôi sẽ chứng minh cho ông thấy, ông không phải là cán bộ tình báo của Bắc Việt. Kiểm điểm lại, rõ ràng là ông bị lộ không phải chỉ do Hai T., tụi chúng nó đã điều tra và bắt được nhiều người bên an ninh và chúng cho nhận diện ông ở trại giam này. Buổi sáng, chúng dẫn ông ra sân, bảo để chụp ảnh căn cước. Nhưng chỉ là cái cớ. Ông đứng đó để cho mấy người trong các phòng giam bên cạnh nhận diện ông. Tối hôm đó, dường như công việc nhận diện xong xuôi, chúng lại bịt mắt, chở ông đến ban U ở đường Trần Bình Trọng. Ông đã chuẩn bị cho mình bản lĩnh để chống lại các lời buộc tội, dù không biết mình đã bị lộ tới mức độ nào?

3 - Ông là đại tá Tư Trọng


Trở lại sự kiện ông Nguyễn Tài bị bắt sáng 23/12/1970 trên sông Cửu Long. Chiều hôm ấy ở Hồng Ngự, thường vụ Khu uỷ Sài Gòn- Gia Định họp mà không có sự tham gia của ông Nguyễn Tài. Các đồng chí lãnh đạo Khu uỷ sau đó đã giao cho ông Sáu Ngọc, phó Ban an ninh T4 nghiên cứu tìm cách nào để giải thoát cho ông Nguyễn Tài mới bị bắt, kể cả phải mua chuộc và trả bằng tiền. Giờ cũng chưa có thông tin hiện ông đang bị chúng giam ở đâu? Liệu chúng có biết được tung tích thật của ông là Nguyễn Tài không? Nhưng Ban an ninh T4 đâu có biết, sau khi bị bắt, ông đã vào vai đại uý Hợp tình báo một cách ngoạn mục, đánh lừa được chúng nó, kể cả tụi tình báo Mỹ đã trắc nghiệm ông. Nếu như không có sự cố nhỏ của Ban an ninh T4 thì ông đã giữ kín được thân phận của mình. Vậy, sự cố này là cái gì mà mãi sau này, ông Sáu Ngọc rất ân hận để lọt thân phận của ông Nguyễn Tài?
Số là, trong tổ chức của Ban an ninh T4 như tôi đã kể trong phần đầu khi ông Nguyễn Tài tổ chức lại khi nhận nhiệm vụ là người lãnh đạo đơn vị này có một bộ phận rất quan trọng là mạng lưới điệp báo được cài trong thành Sài gòn. Đồng chí Hai T. là một điệp báo viên của T4 trong thành. Ông Sáu Ngọc đã viết một bức thư cho Hai T. giao 2 nhiệm vụ: tìm kiếm xem người mang căn cước giả tên Nguyễn Văn Lắm bị bắt ngày 23/12/1970 trên sông Cửu Long hiện đang ở đâu để lo tiền chuộc bằng mọi giá và tìm mối mua máy truyền tin PRC.25. Bọn tình báo trung ương nguỵ cho đây là đường dây hậu cần của quân giải phóng nên đã tổ chức bẫy để bắt giữ vụ mua máy truyền tin PRC.25. Không ngờ, chúng đã bắt được Hai T. Khi bị tụi nó khám nhà, chúng đã bắt được lá thư nói trên của Sáu Ngọc gửi cho Hai T. mà theo nguyên tắc sau khi nhận được đã đọc thì phải cho huỷ ngay nhưng Hai T. sơ xuất chưa huỷ. Khai thác Hai T., chúng chỉ biết được Nguyễn Văn Lắm là người rất quan trọng của an ninh bị bắt nên chúng ta mới sẵn sàng bỏ ra một số tiền rất lớn để chuộc. Có một điều cần nói rõ, Hai T. cũng không biết người mà mình nhận nhiệm vụ đi tìm kiếm và chuộc bằng mọi giá là ông Nguyễn Tài, thủ trưởng của mình vì theo nguyên tắc bí mật, Hai T. vẫn chưa một lần biết mặt ông với tên gọi Tư Trọng hay Ba Sáng. Tụi tình báo nguỵ đã đặt vấn đề Nguyễn Văn Lắm mà chúng đang nắm trong tay với tên gọi là đại uý Nguyễn Văn Hợp- tình báo viên của Bắc Việt phải là người của bên an ninh giữ vai trò rất quan trọng chứ không phải bên tình báo nên bên an ninh mới cho người đi tìm để chuộc? Đây chính là mắt xích đầu tiên để chúng bắt đầu bóc tách mọi thứ về ông. Nhiều người có hỏi tôi khi đọc hồi ký của ông Nguyễn Tài, sao không thấy ông ấy kể câu chuyện tụi nó đưa ông Hai T. ra để nhận mặt ông Nguyễn Tài? Xin thưa, ông Hai T. hoàn toàn không biết mặt ông Nguyễn Tài, chỉ biết nhận nhiệm vụ đi tìm chuộc Nguyễn Văn Lắm. Sơ hở của ông Hai T. là để lọt thư tay giao nhiệm vụ của Sáu Ngọc vào tay chúng. Từ đây, chúng đã đặt toàn bộ nghi vấn Nguyễn Văn Lắm có thể là lãnh đạo của an ninh T4 mà cái tên Tư Trọng, Ba Sáng hay Nguyễn Tài phải được làm rõ.
Một hôm, thằng hỏi cung người mập mạp đã hỏi ông sau mấy màn chúng cho nhận diện ông ở sân trại giam. Nó hỏi: ông có đọc tiểu thuyết tiền chiến, tôi cho ông mượn? Không cần chờ ông trả lời, nó lôi cuốn "Bước đường cùng" của Nguyễn Công Hoan ra và dí vào tay ông rồi nói: ông có đọc văn Nguyễn Công Hoan không? Ông vẫn giữ thái độ bình thản và trả lời, hồi đi học tôi có đọc. Chưa hết, chúng tiếp tục sau đó vài hôm đưa cuốn "Nhà văn hiện đại"- nghiên cứu phê bình của Vũ Ngọc Phan, trong đó có in ảnh của Nguyễn Công Hoan. Ông hiểu ngay chúng muốn xem phản ứng của mình như thế nào? Ông vờ đọc bình thường từ đầu tới cuối, nhìn thấy ảnh của bố ông, ông đã tự hứa trong lòng sẽ không làm tổn hại gì cho Đảng cũng như cho danh dự gia đình. Với sự nhạy cảm của mình, ông đã ngầm đoán ra, thời gian vừa qua chúng không động chạm tới ông là để chúng tập hợp thông tin nhận diện ông qua mấy thằng phản bội và chiêu hồi. Khi đã có đầy đủ chứng cứ thì chúng sẽ tập trung xét hỏi ông. Giờ thì chúng đã có đủ rồi, không phải tự nhiên nó hỏi ông có thích đọc truyện của Nguyễn Công Hoan không? Chúng đưa cuốn có hình bố ông để ông được nhìn mặt người thân, tức là nó đã khẳng định ông chính là Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, Ba Sáng- Trưởng Ban an ninh T4 đã sa lưới. Chúng sẽ cho ông đối mặt với những tên phản bội để nhận diện. Họ là những ai, ông chưa được biết? Thôi, đây cũng là sơ hở của đồng đội vì quá mong muốn cứu sống ông nên đã phạm phải sai lầm để làm lộ danh tính ông. Cuộc đối đầu sắp tới với ông sẽ vô cùng khó khăn. Chắc chắn ông sẽ phải chịu thêm những trận đòn tàn ác để chúng buộc ông khai ra những bí mật của tổ chức. Tới giờ phút này, ông đã giữ được trọn vẹn những bí mật của tổ chức và ông đã khai báo lung tung, dắt mũi tụi nó. Nhưng bây giờ, ông đã như cá nằm trên thớt, chắc chắn là phải chấp nhận hy sinh chứ không bao giờ ông khai báo bất cứ điều gì cả. Xác định như vậy nên ông rất bình thản, ông vẫn tiếp tục cuộc chơi của mình.
Rồi cũng tới một ngày, tụi nó dẫn ông đi hỏi cung. Nhưng lạ lắm, bịt mắt ông, dẫn ông đi lòng vòng rồi cũng dừng lại ở một căn phòng sang trọng trong toà nhà số 3 bến Bạch Đằng.
Đây là phòng làm việc của một thằng đã thường xuyên hỏi cung ông, có vẻ là sếp của tụi nó. Căn phòng rộng rãi, có bàn làm việc và 2 chiếc ghế da. Nó cất tiếng trước nghe có vẻ lịch thiệp:
- Mời đại tá ngồi.
- Chắc ông cho gọi nhầm người rồi, tôi là đại uý Hợp,- ông làm bộ ngơ ngác.
- Ông cứ ngồi rồi ông sẽ hiểu.
Ông ngồi xuống ghế, vẫn giữ được sự bình thản của mình. Còn nó thì bắt đầu nói chuyện giông dài từ tây sang đông, sau đó đột ngột rút ra một tấm ảnh bố ông được phóng to(bức ảnh chắc chụp lại từ báo chí nước ngoài) rồi hỏi:
-Ai đây ?
Ông nhìn tấm ảnh và lạnh lùng đáp, tôi không biết.
-Cha mình mà ông không biết, thật tệ ?- Nó cười và nói.
Nó lại tiếp tục đưa ra một tấm ảnh chụp đông người, trong đó có ông Trường Chinh, ông Võ Nguyên Giáp, ông Hoàng Quốc Việt, ông Nguyễn Chí Thanh, ông Nguyễn Lương Bằng, ông Lê Đức Thọ và ông Lê Văn Lương(chú ruột ông). Có lẽ đây là tấm hình chụp ở Việt Bắc, thời chống Pháp chín năm.
Nó lại hỏi:
-Ông biết ai trong số này?
-Tôi không biết.
-Có cả Trường Chinh mà ông không biết ư? Có cả chú ruột của ông đó.
Thế rồi, nó bắt đầu thao thao bất tuyệt rồi bảo. Ông phải biết rằng, cả một tháng nay ông đã được nghỉ, còn chúng tôi thì phải làm việc hết tốc lực. Chúng tôi biết ông là đại tá Nguyễn Công Tài, người trong ảnh là cha ông-Nguyễn Công Hoan. Còn người khác trong ảnh đây này, nó chỉ vào một người rồi nói tiếp, đó là ông Lê Văn Lương, chú ruột của ông. Còn về ông, chắc ông không thể chối được thân phận của mình đâu. Chúng tôi đã chụp ảnh của ông và cho trộn lẫn với hơn 60 bức ảnh khác nữa và có ít nhất là 20 người đã nhận ra ông. Nói là làm, nó chìa ra cho ông xem 2 tấm bìa dán đầy ảnh. Ông là đại tá Tư Trọng, Trưởng Ban an ninh T4.
Và...
Các bạn đón đọc ở phần tiếp theo.
( còn tiếp ).



























Ảnh đ/c Nguyễn Tài trong nhà tù Mỹ - ngụy số 3 Bạch Đằng, thu hồi được từ hồ sơ của địch.










Ông Nguyễn Tài (thứ 2 từ trái sang) đón nhận danh hiệu anh hùng LLVTND



Đối mặt với CIA - ANTV, 29/01/2021 (Video >> Nhân vật - Sự kiện)

0 nhận xét:

Post a Comment