Ngôi nhà Hà Nội

Wednesday, February 29, 2012
_ Tùy bút của Nhà văn Đỗ Chu _

ANTĐ - Ở bộ đội ra, mấy tháng đầu tôi còn phất phơ bên xưởng phim truyện, một hai thề sẽ theo đuổi việc viết kịch bản, sau đó được gọi về Hội Nhà văn, biên chế vào tổ sáng tác, ăn rồi viết, muốn đi đâu thì đi, ra vào là các bậc thầy nổi tiếng từ thuở mình chưa đẻ. Trụ sở Hội lúc đó ở bên đường Nguyễn Du, mãi sau mới chuyển qua đường Nguyễn Đình Chiểu. Một cụ lênh đênh trăm năm trong cõi người ta, một cụ lòa đôi con mắt còn thét đòi cầm bút đâm tà. Xem ra cả hai cụ đều ghê gớm.


Một sớm đông cụ Nguyễn Công Hoan ngồi chuyện trò với ông Nguyễn Đình Thi trong phòng khách vắng tanh. Cụ Hoan bệ vệ trong chiếc pardessu đen, ông Thi như sắp đi họp đâu, complet cravate. Thoáng thấy bóng tôi cả hai cùng giơ tay vẫy. Cụ Hoan choàng rộng tay trên bàn nhẩn nha nói, mình cũng là người Bắc Ninh đấy nhé, đầu kháng chiến Pháp chiếm vùng nam phần sông Đuống, Văn Giang được cắt về Hưng Yên cho tiện. Lúc còn nhỏ mình đã lên tỉnh thi Sectiphica trọ ở nhà một người quen trong Thị Cầu. Giờ đến mùa nhãn mình là người Hưng Yên còn giỗ chạp vẫn là người Kinh Bắc. Mả bà Đoàn Thị Điểm nay nằm đất Hưng Yên mà sách cũ vẫn chép bà nằm đất Bắc Ninh. Cũng là chuyện bể dâu nhỉ.

Ông Thi đứng dậy nói như vừa chợt nhớ, viết gì là tùy nhưng Đỗ Chu cũng cứ nên để ý đến những ngôi nhà Hà Nội, nó vẫn đang thì thầm kể chuyện. Mỗi ngôi nhà ở thành phố này là một pho tiểu thuyết, là một trường ca. Nói rồi ông bắt tay chúng tôi.

Cụ Hoan ngồi thẳng dậy, giơ một ngón tay thầy giáo, mình biết đang có một ngôi nhà đường Lý Thường Kiệt, hồi Pháp thuộc gọi là Boulevard careau, đó là ngôi nhà của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, cũng là người Bắc Ninh nhưng ở bên bắc phần, cụ thể là làng nào tổng nào thì không rõ, ông Luyện tốt nghiệp bác sĩ tại Paris, một chủ báo có tầm, là thường vụ Quốc hội khóa một, được cụ Hồ tin cậy lắm. Trước Cách mạng một lần từ Trà Cổ về mình gặp Tô Ngọc Vân giữa đường, ông Vân tính ra còn là người nhà bên ngoại của mình, cũng là người Xuân Cầu mà.

Hỏi đang đi đâu, ông ấy chỉ tay vào ngôi nhà vừa xây trong khu vườn gần đó mà bảo, ông Luyện mời tôi và kiến trúc sư Nguyễn Trực Luyện đến nhà uống rượu vang. Mình đã tặng “me sừ” một bức sơn dầu mừng nhà mới còn Nguyễn Trực Luyện thì vẽ kiểu và làm thiết kế. Nhân thể ông cũng nên tạt vào chuyện trò cho vui, có thể hiểu đây là một ngôi nhà bạn bè. Ngôi nhà xinh xắn quét vôi trắng, phòng khách rộng thoáng sang trọng, bức sơn dầu Tô Ngọc Vân vẽ ba cô gái áo dài đứng dưới gốc cây bồ kết hoa vàng rực, thân cành tua tủa gai. Bức ấy mà còn đến giờ thì phải biết.


Minh họa Internet

Rượu vừa rót ra là ông bác sĩ liền quay lại nói chuyện với mình về cuốn Kép Tư Bền. Nghe bàn văn chương biết ngay trước sau gì người này rồi cũng sẽ có ngày cầm bút, thành nhà văn dễ như bỡn. Vậy mà thật tiếc, vào đêm toàn quốc kháng chiến ông ấy cùng hai anh con trai và một người em vợ đều đã hy sinh tại nhà trong một trận đánh dữ dội không cân sức. Trên đường lên Việt Bắc cụ Hồ bùi ngùi bảo, một nhà anh hùng liệt sĩ là nhà ấy.

Đã mấy chục năm vậy mà tôi vẫn chưa thể viết nổi về ngôi nhà thiêng liêng kia, tôi bồn chồn như người mang nợ đến hồi phải trả. Đất Kinh Bắc đâu có rộng, tới đâu tôi cũng hỏi thăm có biết ông Luyện không, quê chúng ta có một ông Luyện, nhưng gần như tất cả đều lắc đầu, một vài cụ già lưỡng lự, thuở bé có nghe nói. Đấy là một trí thức yêu nước, còn như người làng nào thì chịu, anh cứ thử dọc sông Đuống mà tìm.

Đã buồn càng thêm buồn, cứ tưởng mình là người viết sớm viết nhiều mà hóa ra không khéo vẫn là chưa viết gì.

*

Dạo này tự dưng ít muốn ra ngoài, thích ngồi nhà để nhớ lại, để chiêm nghiệm như người ta vẫn thường nói. Loanh quanh tu sửa những gì đã viết, đọc thiên hạ chẳng được là bao, âu cũng là cái cách thu vén sớm, đợi một ngày chào anh em lên đường.

Tôi vốn không quen chỗ đông người, ở chỗ đông bỗng lóng ngóng, lâu ngày hóa sợ. Nhớ có lần từng nói, ngay từ nhỏ tôi đã thích mình được như con hoàng điểu nhảy nhót trong gò vắng. Kinh thi có câu, miên man hoàng điểu chỉ khâu ngung. Hoàng điểu không đi đàn, lang thang suốt ngày, ít ai đã gặp và nó cũng chẳng hề lấy thế làm buồn. Tôi xem việc cầm bút chẳng qua cũng chỉ là để bày tỏ tâm tình của mình, bày tỏ với mọi người xung quanh, đã đành là thế, nhưng trước hết hãy bày tỏ với chính mình cái đã. Đó vừa là tâm sự lại vừa là tự sự. Có thể dối giả với tất cả chứ chả thể dối giả được bản thân. Hoàng điểu không phải là một vẻ đẹp trong trời đất chăng?

14/07/2013

 ❧ ❀ ❧ 

Nhân chuyện "cây đào Tô Hiệu", bàn về hư cấu trong truyện lịch sử

_ Nhà văn Nguyên Xuân Hưng _


Gần đây, tôi có theo dõi một số bài viết về "cây đào Tô Hiệu", truyện ngắn của ông Nguyễn Anh Tuấn và ý kiến của ông Lại Nguyên Ân.

Trong lời bạt của trang lethieunhon.com, cho biết tác giả Nguyễn Anh Tuấn đã đi điền dã, thu thập tư liệu và cho rằng cây đào ở nhà tù Sơn La do Tô Hiệu trồng là sự thật. Từ đó ông viết nên thiên truyện về Tô Hiệu. Tôi đã tìm trên mạng, thì truyện ngắn này đăng trên trang trieuxuan.info lại có nhan đề "Tô Hiệu - một số phận kỳ lạ" và cuối truyện đề là 1990.

Vấn đề đáng bàn ở đây là, nếu như việc trồng đào của ông Tô Hiệu là huyền thoại khuyết danh, thì truyện của ông Nguyễn Anh Tuấn là vẽ rắn thêm chân thành rồng thôi thì cũng được, nhưng nếu nó là sản phẩm hư cấu trong tác phẩm của một người khác, thì việc sáng tác văn học, hay viết truyện lịch sử như vậy khó chấp nhận được.

Tôi có lý do để quan tâm đến số phận ông Tô Hiệu (và cũng định viết về ông ấy). Về giai thoại cây đào Tô Hiệu, tôi rất chú ý tìm hiểu xem trong văn bản, chứng thư nào nói về chuyện này sớm nhất, hay nhân chứng nào chứng thực chuyện này.

Trong việc viết truyện lịch sử, để làm nổi bật phong cách nhân vật, phục vụ chủ để, hướng trọng tâm "sức nặng" nội dung vào thông điệp sau câu chữ, nhà văn có quyền hư cấu chi tiết. Đôi khi chi tiết sau khi được bịa ra, khiến người đọc tin rằng nó là thật, thật hơn sự thật. Ví dụ, trong Tam Quốc diễn nghĩa, có hàng trăm chi tiết kiểu như vậy, như Đốc Bưu trong Hán sử chép là do Lưu Bị đánh, trong tiểu thuyết thì lại bị Trương Phi đánh. Rõ ràng, Trương Phi đánh Đốc Bưu có vẻ thật hơn. Hồi những năm sáu mươi, tôi đọc một truyện ngắn trên báo Thiếu niên tiền phong thấy có chi tiết tết năm đó, Nguyễn Huệ ở Bắc Hà, sai kị sĩ mang cành đào vào Huế tặng Ngọc Hân. Có vẻ rất thật. Đến nỗi sau này con tôi kể, trong tiết dạy lịch sử, cô giáo lịch sử cũng nói chuyện đó (như một sự thật lịch sử?).

Cho đến nay, thời gian so với năm xảy ra sự thật lịch sử đã quá xa, khó mà tìm thấy lời giải đáp chắc chắn về vấn đề cây đào Tô Hiệu. Nếu vậy, thì đây tạm coi như một giai thoại, một huyền thoại đẹp. Bất luận cách ra đời của nó như thế nào, do một ông tuyên huấn kể lại, do ý đồ tuyên truyền cộng sản… thì cho đến nay cũng là di sản văn hóa phi vật thể rồi. Câu chuyện ca ngợi sức sống mãnh liệt của con người bất chấp lao tù. Nhà văn cần hư cấu trên nền huyền thoại như thế nào mà thôi.

Tình tiết Tô Hiệu trồng đào hoàn toàn có thể là hư cấu, mà chấp nhận được, mà có thể tin được. Vấn đề là, nếu nó là hư cấu, thì phải phân biệt rất rõ. Người viết văn càng cần phải phân biệt. Mặt khác, cũng cần phải phân biệt chi tiết lịch sử nào có thể là chi tiết phải tôn trọng, nó như cái đinh neo câu chuyện lại với thời đại đó. Trong câu chuyện của Nguyễn Anh Tuấn, có mấy chi tiết không nên hư cấu, nó làm cho chân dung tinh thần của nhân vật bị vẽ sai lệch đi. Đó là chi tiết về cha mẹ, về gia đình.

Có thể tác giả Nguyễn Anh Tuấn viết câu chuyện về Tô Hiệu vào năm 1990, cho nên trong câu chuyện ca ngợi phẩm chất của người tù cộng sản Tô Hiệu, không khỏi chịu ảnh hưởng của quan niệm về "con người mới" thời đó.

Đến đây, phải mở ngoặc khi nói thế này. Ông Tô Hiệu là người trong họ nhà tôi. Bà nội tôi và cụ thân sinh ông Tô Hiệu là hai anh em ruột. Sự nghiệp của ông Tô Hiệu thì mọi người trong nhà tôi chỉ biết qua sách báo, nhưng thân thế của ông thì bố tôi, các anh tôi biết rất rõ. Tôi cũng trực tiếp tiếp xúc với nhiều người cùng thế hệ ông Tô Hiệu, họ đều phản ứng cái điều sách báo thời xưa nói rằng ông Tô Hiệu sinh ra trong một gia đình "nông dân nghèo". Không đúng. Bây giờ, tôi có thấy trong wikipedia, mục về Tô Hiệu ghi ông sinh ra trong gia đình "nhà nho nghèo" là chính xác. Nhà nho và nông dân khác nhau chứ. Có lẽ chính vì cái lý lịch lưu hành trước đây của ông Tô Hiệu, mà tác giả Nguyễn Anh Tuấn, trong đoạn về mẹ Tô Hiệu, viết thế này:
"Những trưa hè nắng như rang như thiêu, một người mẹ già lọm khọm với cái giỏ bên hông bắt cua cáy ở những thửa ruộng chiêm ngập nước. Mắt anh hoa lên những vòng quáng nắng. Cái chõng tre đã lung lay. Cái phiên nhà đã mọt. Cái chổi cùn trong xó bếp lạnh tạnh… Đất nước nghèo trong bùn lầy, vách nát, buồn trong từng câu ca, trong mỗi cái nhìn và mỗi đường gân trên bàn tay răn deo của người mẹ già. Tô Hiệu thấy sống mũi cay cay…"

Tưởng tượng về gia cảnh và bà mẹ Tô Hiệu quả là hoàn toàn không đúng. Mà không đúng thì diễn biến tâm lý của người con thương mẹ cũng sụp đổ. Tôi được nghe kể lại là, bà cụ là một người tháo vát, nội trị trong gia đình rất giỏi. Khi anh em Tô Hiệu, Tô Chấn bị truy nã, bà cụ vẫn tiếp tục thuê xe tay đi Hải Dương, Hà Nội để "bắt đền". Cái lý của cụ là chúng tôi gửi con cho Nhà nước bảo hộ ăn học, giờ không thấy chúng nó đâu, các ông phải tìm về cho tôi. Bà cụ chắc chắn không bao giờ mò cua bắt ốc ở ngoài đồng. Gia cảnh nhà Tô Hiệu lúc đầu khá, còn tiền cho các con đi ăn học, nhưng sau có sa sút, một phần cũng là do gia đình tội phạm.

Trong các sách về Tô Hiệu, chỉ nhắc đến mẹ, chứ không nhắc đến bố. Có lẽ vì do ông cụ thân sinh ông Tô Hiệu là nhà nho (hình như có làm quan lại nhỏ), và tự tử. Theo các cụ nhà tôi kể lại, đó là do ông cụ chán cảnh bị quan lại, hào lý hạch sách, nhà lại nghèo dần, phải bán dần của cải đi. Có lẽ hồi xưa, viết về người cách mạng thì phải hội tụ những yếu tố được cho là tốt đẹp: gia đình công nông, nghèo, ý chí cách mạng… Chuyện tự tử của người cha không phải giai cấp cần lao là khó chấp nhận trong lý lịch của đồng chí Tô Hiệu?. Chủ nghĩa lý lịch thấm vào các nhà báo, nhà văn chăng? Tôi thì tôi cam đoan rằng, ông Tô Hiệu trong gian lao nhất định phải nhớ cả cha lẫn mẹ. Ông Tô Hiệu nhớ một bà mẹ đi xe tay, nhà khá giả thì chắc nhớ khác với nhớ bà mẹ chân lấm tay bùn mò cua bắt ốc.

Chính vì chi tiết sai sự thật lịch sử này, mà tôi cho rằng, truyện về ông Tô Hiệu đã đăng lại của Nguyễn Anh Tuấn kém giá trị. Thiên truyện ca ngợi sức sống của con người trong lao tù, ca tụng nhân cách một người hy sinh vì tự do, độc lập, đáng tiếc lại bị những giới hạn về nhãn quan một thời vô tình "can thiệp" vào, khiến cho việc dựng lại chân dung Tô Hiệu có phần khiên cưỡng.

Nói thêm về một tư liệu lịch sử: Chúng ta chỉ biết làng Xuân Cầu là làng sinh ra nhiều hào kiệt như Nguyễn Công Hoan, Tô Hiệu, Lê Văn Lương, Tô Chấn, Lê Giản… nhưng ít biết làng Xuân Cầu là một làng quê có truyền thống buôn bán, làm nghề. Nghề cổ xưa là nhuộm thâm. Làng có tục săn chuột, thịt chuột mang ra chợ huyện bán. Trong làng có nhiều nhà làm nghề: bánh mỡ, bánh tro, bánh tráng… Người Xuân Cầu đi làm ăn buôn bán khắp nơi, thường có truyền thống sinh sống tụ hội thành một phố, hay quần cư thành một khu vực cạnh nhau, có tinh thần tương trợ nhau làm ăn. Việc này chắc có nguồn gốc gần một nghìn năm hình thành nên làng, trước thời Nguyễn làng có tên là Huê Cầu.

Tại Hải Phòng, phố Hạ Lý thời trước năm sáu mươi thế kỷ trước là phố của người Xuân Cầu. Huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương có đến một nửa thị trấn là dân Xuân Cầu (Ông Nguyễn Công Hoan đã dạy học và viết nhiều truyện ngắn châm biếm ở phố huyện này, lấy nguyên mẫu nhân vật và sự kiện ở đây). Còn nhiều chi tiết về ông Tô Hiệu ở hai địa danh này mà tôi được biết qua bố mẹ, anh chị. Ông Tô Hiệu bị bắt ở Hạ Lý, chính là tại xóm của người Xuân Cầu.

Tôi thường nghe kể nhà ông Tô Hiệu có ba anh em trai đều đi học trường tỉnh, rồi ra Hà Nội học (ông anh cả ở làng). Người em họ là ông Tô Điển, tức Tô Quang Đẩu, sau này là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Khi ông Đẩu còn sống, tôi có nhìn thấy ông ấy nhiều lần đến nhà tôi. Ông Tô Điển chưa bao giờ chứng thực việc bà mẹ đi hỏi vợ cho ông Tô Hiệu. Chuyện gán ghép, "nhìn ngó" đám này đám khác thì trong làng bao giờ cũng có, nhưng đến mức ăn hỏi thì coi như người trong nhà rồi. Chi tiết này cũng không có đâu. Bà Đen sau này là người trông nhà lưu niệm Tô Hiệu, tôi nghe kể bà không phủ nhận, cũng không kể gì về chuyện đó. Tình tiết này có lẽ hư cấu cũng không sao, an ủi cả người đã hy sinh lẫn người còn sống, nhưng tôi biết nhiều người Xuân Cầu thế hệ trước nói dứt khoát không có chuyện đó.

Xuân Cầu ngoài họ Nguyễn, họ Cao, còn có mấy chi họ Tô, xa xôi chắc cũng có chung ông tổ.

Bài này viết nhân kỷ niệm ngày mất của ông Tô Hiệu (7/3/1944), tôi coi như một nén tâm nhang thành kính tưởng nhớ ông.

30/3/2012


 ❧ ❀ ❧ 



Cây đào TÔ HIỆU giữa huyền thoại và sự thật

_ Lại Nguyên Ân _

Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân hồi đáp những băn khoăn của bạn đọc lethieunhon.com bằng thái độ đề cao tư duy học thuật: “Về truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch”. – Đây là truyện ngắn, tức là tác phẩm hư cấu. Vậy thì đây là lĩnh vực tác giả có toàn quyền trong cái thế giới hư cấu của mình. Tác giả có thể để cho nhân vật người tù trồng cây đào hay cây gì cũng được, v.v... Song có chỗ hơi đáng tiếc là tác giả lại biến thiên truyện ấy thành một thứ truyện ký, tức là như sự ghi lại một sự thực đã từng xảy ra, bằng cách cho in kèm văn bản truyện một vài bức hình như thể làm “chứng tích” về chuyện người tù trồng đào. Đây là chỗ sự hư cấu bị giới hạn; truyện hư cấu có cơ trở thành truyện ký; mà truyện ký thì giá trị ít nhiều tùy thuộc chỗ cái sự thực mà nó muốn xác nhận, trên thực tế có phải là sự thật hay không?”



Tôi định đáp lại các ý kiến thảo luận bằng cách viết thêm một ý kiến luận bàn (comment) nữa, có thể là comment thứ 55, sau 54 comments đã có; song sợ viết quá dài so với khuôn khổ mỗi comment nên tôi quyết định chuyển thành một bài riêng.

Có 2 việc cần bàn: 1/ Xung quanh truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch” của Nguyễn Anh Tuấn; 2/ Về “cây đào Tô Hiệu”: một sự thật hay một huyền thoại?

1/ Về truyện ngắn “Cây đào của người tù áo sạch”. – Đây là truyện ngắn, tức là tác phẩm hư cấu. Vậy thì đây là lĩnh vực tác giả có toàn quyền trong cái thế giới hư cấu của mình. Tác giả có thể để cho nhân vật người tù trồng cây đào hay cây gì cũng được, v.v... Song có chỗ hơi đáng tiếc là tác giả lại biến thiên truyện ấy thành một thứ truyện ký, tức là như sự ghi lại một sự thực đã từng xảy ra, bằng cách cho in kèm văn bản truyện một vài bức hình như thể làm “chứng tích” về chuyện người tù trồng đào. Đây là chỗ sự hư cấu bị giới hạn; truyện hư cấu có cơ trở thành truyện ký; mà truyện ký thì giá trị ít nhiều tùy thuộc chỗ cái sự thực mà nó muốn xác nhận, trên thực tế có phải là sự thật hay không?

Trong thực tế văn học Việt Nam mà tôi biết, những thiên ký sự, phóng sự, truyện ký … mà về sau bị phát hiện có những tình tiết hư cấu, thêm thắt, không có thực, thì rốt cuộc sẽ bị mất mát hoặc thu hẹp giá trị.

Luôn thể, cũng nên cùng nhau suy nghĩ về giá trị xã hội của những đối tượng được văn chương tuyên dương.
Các giá trị xã hội chẳng bao giờ đứng yên cả; chúng luôn luôn tăng giảm trong cảm nhận của các thế hệ nối tiếp nhau; người ta luôn luôn cùng nhau căn vặn, biện giải về giá trị các phong trào xã hội chính trị đã qua.

Những năm 1920-30 thì chủ nghĩa CS được ngưỡng mộ bởi thậm chí cả những trí thức tân tiến hàng đầu châu Âu. Đến những năm 1950, trí thức Tây Âu nhìn về Đông Âu và bắt đầu ngờ ngợ về một câu hỏi: bên phía trời Đông kia là “thiên đường dưới trần thế” hay là “quần đảo ngục tù”? Ngờ vực và tranh cãi kéo dài suốt mấy chục năm đã kết thúc (lãng xẹt?) vào thời “perestroika” và kế đó Liên Xô tan rã, Đông Âu chuyển biến trở lại hòa nhập (khá mệt mỏi!) với Tây Ây dân chủ. Năm 1995 Nghị viện châu Âu có nghị quyết kết án CNCS; rồi sau đó người Đông Âu sang Mỹ dựng đài tưởng niệm những nạn nhân của CNCS.
Vậy là vào những năm 1980 trở về trước, sẽ là bình thường nếu văn nghệ sĩ đem công trình sáng tạo để ngợi ca CNCS và các chiến sĩ của nó; còn ngày nay, công việc tương tự sẽ khó tránh bị coi là … lạc hậu cả thế kỷ.
Cho nên, hẳn sẽ có không ít người cho rằng tác giả truyện “Cây đào của người tù áo sạch” đã làm cái công việc đem thêm sơn màu tô trát lên chỗ đã được/bị tô trát quá nhiều.

Có người cổ vũ tác giả do muốn đem hình ảnh những người xưa sao tuyệt vời đến thế đối lập với những hậu thế sao tồi tệ đến thế; – những mong người ta cải đổi, sửa sang, cho “xứng đáng” với lớp người đi trước! Dụng ý này hẳn cũng có khá đông công chúng. Nhưng hẳn cũng đã có người biết nghĩ theo hướng khác. Rằng ở giai đoạn bị tù đày vì tranh đấu thì những “người tù áo sạch” là “người tù áo sạch” thật đấy, nhưng trong đầu họ đã có đầy đủ ý thức “mất xiềng xích mà được cả thế giới”, để đến khi độc chiếm thế giới được rồi thì sẽ toàn quyền định đoạt mọi thứ theo duy nhất ý chí của mình. Trên thực tế, những người “cầm cân nảy mực” hôm nay đang ứng xử một cách rất vô cảm với người lao động kia, vẫn có quyền coi “người tù áo sạch” khi xưa là tiền bối của họ; bởi họ, những người “cầm cân nảy mực” này, chính là thế hệ vị lai của những “người tù áo sạch” năm xưa: chính trong đội ngũ họ đã chọn lựa nhau, kết nạp nhau, bầu cử nhau vào các vị trí này khác, kế tục nhau từ đó tới nay, chứ nào phải người ngoài? Thành thử, đem vào văn chương để đối lập hai thế hệ cùng đội ngũ ấy với nhau, tuy có vẻ “khả thi” về văn chương, song lại là giả tạo, và hiệu quả thực tế thì chắc là cực kỳ ít ỏi!

Tất nhiên chẳng ai nên đặt lại vấn đề đạo đức khi xưa trong hàng ngũ những “người tù áo sạch”. Những chiến sĩ “chết trước rạng đông” bao giờ mà chẳng đẹp đẽ?!
Và điều quan trọng, về sáng tác, là toàn quyền của tác giả. Công chúng thích hay không là chuyện khác, chứ công chúng không nên, – mà cũng không thể – buộc tác giả viết hoặc không viết một điều gì anh ta muốn hay không muốn viết. Nhưng tác phẩm hễ đã công bố ra thì cần được tự do khen chê, đánh giá, bình phẩm.


2/ Về “cây đào Tô Hiệu”: một sự thật hay một huyền thoại? – Có không ít ý kiến viết trong các comments muốn coi đó như là sự thật. Căn cứ vào đâu? Không thấy ai nêu được căn cứ gì cả!

Xin lưu ý một trải nghiệm mà những người cùng lứa tuổi với tôi (sinh vào những năm 1940s) sống ở miền Bắc hẳn còn nhớ: dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng LĐVN, các bộ sách hồi ký quan trọng như “Nhân dân ta rất anh hùng”, “Bác Hồ”, “Lên đường thắng lợi”, “Một lòng theo Đảng”, … được xuất bản khá nhiều, trong đó có những hồi ký về nhà tù Sơn La, nhưng không hồi ký nào nói đến chuyện cây đào Tô Hiệu. Bạn nào kỹ tính thì nên đọc kỹ lại thêm trong các hồi ký như “Suối Reo năm ấy” của Xuân Thủy, hay thử đến hỏi nhà văn Nguyễn Xuân Khánh (có tác phẩm mới nhất: “Đội gạo lên chùa”) là người đã từng ghi hồi ký cho tướng Lê Quang Hòa “Ánh sáng mùa xuân ở nhà tù Sơn La” (đăng Văn nghệ quân đội, s. 2/1962) xem trong đó có nói chuyện cây đào Tô Hiệu hay không?

Vào dịp kỷ niệm kể trên có một diễn ca được phổ biến cực rộng, ấy là bài “Ba mươi năm đời ta có Đảng” của Tố Hữu; khi nói về những gương hy sinh của các chiến sĩ lớp trước, có đoạn này:
... “Chết nằm xuống còn hôn cờ đảng,
Chết còn trao súng đạn, quên đau,
Chết còn trút áo cho nhau,
Miếng cơm dành để người sau ấm lòng”...
Trong tuyên truyền thời ấy, người ta giải thích rõ các việc “chết còn hôn cờ”, “trước khi chết trao lại súng”, “chết còn cởi áo nhường lại người đồng chí”, v.v. là những sự tích gì (chẳng hạn “cởi áo” gắn với tên tuổi Nguyễn Chí Diểu ở Trị Thiên,... ). Hoàn toàn không thấy diễn ca của Tố Hữu nêu việc người chiến sĩ trong khám tù còn trồng đào, để lại hậu thế một tình yêu sự sống, chẳng hạn. Mà khi Tố Hữu viết thiên diễn ca ấy thì bài ký của Nguyễn Tuân đã in ra rồi! Thật quá tốt để dệt thêm nống dệt cho thiên tụng ca rất mực... hoành tráng, chính quy! Vì sao ông trùm tuyên huấn lại không sử dụng tài liệu của nhà tùy bút từng là tổng thư ký Hội văn nghệ hồi kháng chiến? Có thể hiểu đằng sau việc này là sự không xác nhận của giới phụ trách sử đảng thời ấy (đối với sự việc Tô Hiệu trồng đào), thời mà các bộ phận khác nhau trong đảng (các nhóm hồi bí mật vốn chỉ biết nhau, không biết người của nhóm khác) khá nghiêm khắc trông chừng nhau về việc tính toán công lao thành tích đã qua, đề phòng những sự thêu dệt về nhân thân, bởi mỗi tình tiết trong tiểu sử đã qua, thậm chí cả của người đã khuất (luôn luôn có những bà con đồng chí hiện còn sống), đến lúc ấy đều đã “có giá” rồi, trong khi số ghế, số biệt thự đều hữu hạn…

Vậy là “cây đào Tô Hiệu” đã không được thừa nhận là sự thật ngay hồi nó vừa được đề xuất. Sự bác bỏ của Nguyễn Công Hoan (mà tôi nêu trong bài đầu) không chỉ đáng chú ý vì ông là nhà văn cao tuổi, có uy tín cao, được coi như một nhân chứng sống của xã hội Việt Nam thời kỳ 1930-45, mà còn đáng chú ý ở chỗ: Tô Hiệu là bà con trong họ ngoại của Nguyễn Công Hoan (mẹ nhà văn là người họ Tô), sự không xác nhận này cũng gián tiếp là thái độ của thân tộc họ Tô ở Văn Giang hồi ấy (ngày nay họ có thể lại nghĩ khác?); hơn nữa, em ruột Nguyễn Công Hoan là Lê Văn Lương (1912-95) là cán bộ cao cấp từ thời Xứ ủy Bắc Kỳ, có chân trong thường vụ Trung ương đảng (tức Bộ chính trị) từ Đại hội II (1951) và chỉ ra khỏi vị trí này (1956) do chịu trách nhiệm một phần về sai lầm trong cải cách ruộng đất, rồi lại được bầu vào Ban bí thư từ ĐH III (1960); thái độ mà Nguyễn Công Hoan bộc lộ (về “cây đào Tô Hiệu”) có thể có thông tin tham khảo từ Bí thư Lê Văn Lương chăng?

Đương nhiên, không được xác nhận như một sự thật thì “cây đào Tô Hiệu” đã dần dần được ghi nhớ như một huyền thoại; huyền thoại này hẳn đã manh nha trước khi Nguyễn Tuân viết bài tùy bút “Đào Sơn La” (Văn học, số Tết 1959) và nhà văn thật ra cũng chỉ kể cảm nhận của mình về huyền thoại “như thật” ấy, khi đến thăm nhà tù Sơn La hoang vắng, chứ cũng không đưa ra tài liệu nào để thuyết phục công chúng rằng đấy là “sự kiện” có thật.

Cái huyền thoại mà Nguyễn Tuân ghi lại theo cách của ông hồi năm 1959 ấy, cũng đã mai một suốt một thời gian dài. Kể từ năm 1959, năm xuất hiện bài báo của Nguyễn Tuân, rồi năm 1960, năm xuất bản cuốn tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân trong đó có bài báo kể trên, trở về sau, thử xem suốt ba bốn chục năm ròng, có ai nhắc đến sự việc cây đào Tô Hiệu, dù chỉ thuần túy coi như huyền thoại? Có bạn nào thật yêu sự tích này, thử tìm lại sách báo trong nước thời trước khi có internet xem, có những bài nào của những ai nói và nói ra sao về việc này?

Tôi nghĩ, chỉ khi nhà tù Sơn La được đưa vào một “tua” du lịch, tức là chỉ từ cuối những năm 1990, thì người ta mới dần dà nhận ra là có thể dùng đến cái huyền thoại mà Nguyễn Tuân từng ghi nhận, và “cây đào Tô Hiệu” đã được dựng dậy trong dư luận. Vả chăng sự thoái hóa về điều được gọi là đạo đức cách mạng trong đội ngũ đến hồi báo động cũng cần đến những huyền thoại về một lớp tiền bối hy sinh quên mình vì sự nghiệp, như huyền thoại này.

Hiện nay thì huyền thoại này đang mạnh lên, chứng cứ là nó đang được người ta nỗ lực làm như thể là sự việc có thật. Chiều hướng này sẽ còn chưa dừng lại. Sẽ thật lạ nhưng cũng không ngoài dự đoán nếu một ngày kia có một cấp chức sắc nào đó đứng ra “chứng thực” sự việc “cây đào Tô Hiệu”; bởi một tập thể chức sắc đương quyền thì chắc hẳn phải ở lứa tuổi dưới 60, tức là gồm những người sinh sau năm 1952, lại đứng ra làm chuyện “chứng thực” sự việc hồi những năm 1930-40 (“Chúng tôi biết tận mắt cái việc xảy ra 40 năm trước khi chúng tôi ra đời” !) thì ta sẽ có thêm một thứ kỷ lục đặc biệt! Thế nhưng thử hỏi các vua nhà Nguyễn ở thế kỷ XIX lại ban sắc phong tước cho những nhân vật huyền sử hồi thế kỷ I hoặc II thì đã chẳng báo trước điều đó rồi hay sao? Ôi, chúng ta đang sống ở thời nào đây nhỉ? – thời hiện đại hay thời trung cổ?

Tôi xin chấm dứt bài viết tại đây. Xin nhắc lại: theo tôi, “cây đào Tô Hiệu” chỉ là huyền thoại, không phải là sự thật.

Trong các bình luận (comment) dưới bài cũ của tôi có những vị đưa ra các chứng nhân khác về việc không có sự thật “cây đào Tô Hiệu”; tôi không liên lạc với các vị ấy nên không có ý kiến về các chứng minh ấy, dù nó không trái nhận xét của tôi. Ngoài ra, tôi cũng thoáng thấy ở một vài comment có những phản ứng có thể nói là vô lý, ví dụ có bạn này căn vặn bạn kia: sao đã bảo là cũng quý Tô Hiệu mà lại không chịu tin “cây đào Tô Hiệu” là sự thật? Ôi, người ta có thể yêu cái nhân vật kia mà không tin là có cái sự thật được gán (như thật) cho nhân vật ấy lắm chứ? Yêu như huyền thoại chứ không tin như sự thật, – đó là thái độ khả chấp; sao lại đặt điều kiện “nếu yêu quý thì phải coi đó là sự thật”? Xin các bạn, đừng ai nên khuyên người khác cũng mù quáng giống như tầm mắt của mình.

Thành thật xin lỗi nếu những ý trong bài này có làm phật lòng những bạn đọc nhất định. Tôi chỉ có thể nói thật suy nghĩ của mình, không thể làm ngược lại.




9/3/2012




 ❧ ❀ ❧ 




"Trích các ý kiến thảo luận:   
   Bạn Văn 11/03/2012 22:39
Lại Nguyên Ân là một nhà nghiên cứu đáng trọng. Đối với học thuật, bao giờ ông cũng nghiêm túc, coi trọng sự thật và đảm bảo tính thực chứng. Cái "vụ" Cây đào Tô Hiệu này càng cho thấy thêm điều đó: để xé toang huyền thoại giúp nhau nhìn vào sự thật, LNA đã viện dẫn rất nhiều tư liệu và đầy trách nhiệm với vấn đề bàn thảo cũng như với người đối thoại. Tuy nhiên, ở bài này, vẫn cần trao đổi với tiên sinh vài điều để chặt chẽ hơn. Điều định bàn không phải chuyện cây đào là thực hay hư. Tôi chỉ trao đổi về một khía cạnh nhỏ thôi, ấy là sự lập luận khoa học. Phàm để khẳng định hay bác bỏ điều gì, thì dứt khoát phải có đủ chứng lý. Quá hiểu điều thông thường ấy, nên tiên sinh đã đưa ra đủ cả chứng và lý. Chứng gồm cả nhân chứng là Nguyễn Công Hoan (qua NCH còn có cả Lê Giản) và vật chứng (nhiều hồi kí của các vị cộng sản cùng thời với Tô Hiệu và diễn ca lịch sử 30 năm đời ta có Đảng của ông trùm tuyên huấn - nhà thơ Tố Hữu). Lý được biện từ hai thói đời: "qui công" cho những người định/được tôn là danh nhân và "huyền thoại hóa" để biến đối tượng nào đó thành thiêng liêng. Có vẻ như chứng và lý đã đủ để làm căn cứ cho tiên sinh bác bỏ: cây đào Tô Hiệu không phải là sự thật mà chỉ là một huyền thoại. Song, ngẫm kĩ, cả chứng và lý của tiên sinh đều chưa đủ thuyết phục.
Thứ nhất, việc nhiều cuốn hồi kí thời ấy và bài "Ba mươi năm đời ta có Đảng" không thấy nhắc gì đến cây đào Tô Hiệu, thì không hoàn toàn đồng nghĩa với việc không có cây đào. "không nói" không có nghĩa là “không có”. Nó không được nói đến có thể do lí do khác thì sao. Chẳng hạn, do bị bỏ sót (trên đời, khi đưa vào sách vở đâu thiếu những thứ quan trọng bị bỏ sót?) cũng có thể do cố ý lờ đi (ở đời, bên cạnh thói “qui công”, cũng có thói “dìm công”,  “dìm hàng” để loại bỏ nhau nữa, tướng Giáp rất nhiều năm bị lờ tịt công trạng chẳng phải thế sao?) v.v. 
Sách dẫn ra chỉ được xem là chứng cứ tin cậy khi trong đó các tác giả kia "nói không", tức là bằng những gì họ biết mười mươi, họ khẳng định là "không có cây đào". Tiếc rằng, sách được dẫn chẳng có lời khẳng định mười mươi nào như vậy.
Thứ hai, ý kiến của Nguyễn Công Hoan cũng không đủ căn cứ. Ông Nguyễn Công Hoan không tận mắt chứng kiến mà chỉ suy ra từ hiện tượng “qui công” và viện gián tiếp qua ý ông Lê Giản. Còn ông Lê Giản lại cũng không đưa ra bằng chứng mà chỉ đưa ra lập luận theo lối suy diễn ("vì người tù nào lại có thì giờ đi trồng đào bao giờ? Vả lại nếu cây đào trồng từ ngày đồng chí Tô Hiệu thì đến năm nay, trải qua hơn hai chục năm, nó còn xanh hay đã cằn cỗi?”). Rồi việc tiên sinh cho rằng có thể Nguyễn Công Hoan đã nghe từ Lê Văn Lương (“thái độ mà Nguyễn Công Hoan bộc lộ (về “cây đào Tô Hiệu”) có thể có thông tin tham khảo từ Bí thư Lê Văn Lương chăng?“) cũng chỉ là phỏng đoán. Cả suy diễn lẫn phỏng đoán đều không thể là chứng cứ.
Thứ ba, cho rằng qui cây đào về cho Tô Hiệu là sản phẩm của cái hiện tượng “qui công” cho danh nhân mà nên, cũng không thật thuyết phục. Ở đây, có thể có câu hỏi: hồi ấy, cùng bị giam ở nhà tù Sơn La còn có nhiều vị nữa, có vị còn “bự” hơn cả Tô Hiệu, tại sao người ta không qui công cho các vị kia mà lại nhất thiết qui cho Tô Hiệu? Việc qui công (nếu có?) cho Tô Hiệu vậy là phải có lí do chứ?
Như vậy, khẳng định cây đào Tô Hiệu là huyền thoại chỉ dựa trên những chứng cứ và biện lí thế thôi, thì chưa thể thuyết phục. Tiên sinh có thể nghi ngờ. Nhưng để bác bỏ, thì một người làm khoa học phải cần thêm những chứng lý xác đáng nữa mới được. Nếu không, thì việc xem cây đào Tô Hiệu là huyền thoại chứ không phải sự thật lịch sử cũng chỉ dừng lại như một giả thuyết của tiên sinh thôi.



Chìm nổi Hoàng Công Khanh


_ Vân Long _

Nhà thơ Vân Long gửi đến lethieunhon.com bài viết “Chìm nổi Hoàng Công Khanh” để góp thêm tư liệu về hồi quang của cây đào Tô Hiệu:
“Ít ai biết Hoàng Công Khanh trải qua 5 năm tù chính trị ở Sơn La, từ năm 17 tuổi, không do công tích gì lớn mà chỉ vì anh có mặt trong một cuộc mít tinh. Rồi cũng không do là chính trị phạm nguy hiểm gì mà anh bị vào sà lim cách ly giam chung với đồng chí Tô Hiệu, mà chỉ do anh bị lao phổi sơ phát như Tô Hiệu. Nhờ những ngày tháng ấy, sau này Hoàng Công Khanh có tập ký sự “Hoa nhạn lai hồng” (NXB Văn Học-1992) gần 500 trang in. Trong đó bằng những chứng lý địa hình thay đổi, ngày tháng Tô Hiệu bị giam, không thể có cây nào mọc trên con đường trải đá, lính coi ngục vẫn nện gót giầy đinh đi tuần tra. Giai thọai hình thành do có hai nhà văn tên tuổi đến thăm sà lim Tô Hiệu, thấy cây đào gần sà lim, một ông thốt lên “Có thể cây đào này đồng chí Tô Hiệu đã trồng!”.



Tôi không sao quên được quang cảnh trước mùa kịch 1953 ở Hà Nội, trong một ngôi nhà ở phố Trần Quốc Toản, hàng đêm, anh Băng Sơn và tôi, hai cậu thanh niên không mấy khi vắng mặt khi ban kịch Hoa Quỳnh dàn tập vở “Bến nước Ngũ Bồ” của Hoàng Công Khanh do Phan Tại đạo diễn. Lúc đó giọng nam trung sang sảng của nghệ sĩ Văn Phú thu hút chúng tôi, rồi cái dáng rất nghệ sĩ của đạo diễn Phan Tại chiếc pip thuốc luôn lơ đễnh trên môi ông. Tôi còn nhớ hai nghệ sĩ sân khấu và điện ảnh quen thuộc với khán giả những năm sau và bây giờ là Dương Quảng và Trịnh Thịnh. Hai ông bước những bước đầu tiên trên sân khấu có lẽ từ vai Đặng Ich và vai lính Tàu trong vở kịch đó? Người khơi nguồn cho toàn bộ hoạt động của vở kịch ấy là Hoàng Công Khanh tôi lại được diện kiến ít nhất. Chỉ nhớ một dáng dấp cao gày. Trên gương mặt khắc khổ, đặc biệt có đôi mắt hau háu “nhìn” như nghe như nuốt từng câu thơ diễn viên ngâm lên, lỡ có diễn viên nào phát âm, nhả chữ sai chệch, ông cau mày đau khổ như chính cơ thể mình đang bị hành hạ.

Thuộc lứa thanh niên tuổi 20 sống trong thành phố địch chiếm đóng, tôi không khỏi gai người khi nghe tiếng ngâm da diết:
Nơi đây tay gối làm dao
Ngủ trong tủi cực nuốt vào hờn căm
Trong hoàn cảnh ấy, viết những câu thơ ấy là rất bạo! Rồi những câu thơ cảm khái hợp với cái “sầu vũ trụ” và cái “gu” của anh tiểu tư sản như chúng tôi:
Mộng đời trắng cả hai tay
Sầu lên vi vút ngàn mày tràng giang
Tâm trạng Thị Trinh mong ngóng người tình tráng sĩ cũng là tâm trạng trông ngóng “phía bên kia” của một số phụ nữ Hà Nội lúc ấy:
Gió lùa lạnh ngắt áo xiêm
Ngày đơn quán lẻ vô duyên lạ thường
Hẳn là tác giả về Hà Nội trong hoàn cảnh bất đắc dĩ nên ông mượn lời nhân vật nói hộ:
Thời chưa lại, cờ thiêng còn đợi gió
Phiêu dạt bờ trăng lênh đênh bến cỏ
Sau này tôi mới biết Hoàng Công Khanh lúc ấy đang hoạt động trí thức vận nội thành cùng với Bùi Xuân Phái, Sỹ Tiến, Thy Thy Tống Ngọc (Thy Ngọc) và Hoài Việt do Nguyễn Bắc phụ trách.

Hoàng Công Khanh sinh năm 1922 quê ở thị xã Kiến An, Hải Phòng. Ông có thể cao hứng đọc thuộc hàng trăm câu thơ trong kịch bản, nhưng không nhớ nổi ngày sinh. Qua nhiều cuộc họp mặt những văn nghệ sĩ viết trong Hà Nội tạm chiếm, tôi móc nối lại những hiểu biết về Hoàng Công Khanh: Hoá ra tôi đã thuộc thơ ông ngay từ nhỏ, lại cũng qua một vở kịch thơ khác “Về Hồ” với hai câu chơi chữ rất dễ nhớ:
Chàng về Hồ, thiếp cũng về Hồ
Chàng về Hồ Hán thiếp về hồ Tây
Đêm đó là lần đầu tiên tôi được vào ngồi xem đàng hoàng ở Nhà Hát Lớn (sau những ngấp nghé lén xem bên cánh gà đôi buổi dàn tập những vở kịch khác) trong chuỗi ngày chộn rộn hào hứng sau Cách mạng tháng Tám 1945, Nhà Hát Lớn Hà Nội không còn là nơi sinh hoạt thường dành cho tầng lớp trên com-lê cà vạt, áo dài màu với phấn son thơm nức. Tôi được một anh ở đoàn Hướng đạo cho đi cùng, lúc đó tôi là một chú bé 12 tuổi. Giọng nữ cao ngâm lên mấy lần câu thơ trên, như một điệp khúc của vở kịch, cũng là lần đầu tôi được xem kịch thơ nên nó gây ấn tượng với tôi sâu đậm lắm!
Sau này được nghe chính tác giả Hoàng Công Khanh kể, tôi mới rõ đêm công diễn vở kịch đó là để chào mừng Quốc Hội khoá đầu tiên 1946. Đêm đó, Bác Hồ cũng xem diễn, có gọi tác giả đến và khen “Chú kêu gọi đoàn kết chống giặc như thế là tốt!” Vở kịch dựng lại không khí giặc Minh lấy danh nghĩa giúp nhà Trần, truy diệt Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương để sang xâm chiếm nước ta. Trước vận nước chông chênh, những người ngu trung với triều Trần dần thức tỉnh, tập hợp dưới lá cờ chống giặc ngoại xâm.
Những người trẻ làm nên lịch sử, tôi đọc câu đó ở đâu, thật đúng với giai đoạn đầu của cuộc Cách Mạng. Vị nghị sĩ quốc hội trẻ măng 22 tuổi Nguyễn Đình Thi vừa được bầu lúc đó hẳn cũng đang chăm chú theo dõi với cả những giác quan của người làm nghệ thuật: vở kịch thơ của một tác giả vô danh cùng lứa tuổi ông mà được công diễn trong dịp long trọng này, nếu ta nhớ những vị tiền bối của làng kịch thơ trước đó: Yến Lan và Nguyễn Bính viết chung “Bóng giai nhân”, Trần Tử Anh có “Nửa đêm truyền hịch” và “Thế chiến quốc”, Thao Thao có “Ải Bắc”, “Quán biên thùy”, Phạm Huy Thông có “Anh Nga”, Vũ Hoàng Chương có “Vân Muội”, “Kinh Kha sang Tần”…

Vở "Về Hồ" những ngày đầu cách mạng hầu như được diễn khắp Trung Nam Bắc. Nhưng ít ai biết tác giả vừa trải qua 5 năm tù chính trị ở Sơn La, từ năm 17 tuổi, không do công tích gì lớn mà chỉ vì anh có mặt trong một cuộc mít tinh. Rồi cũng không do là chính trị phạm nguy hiểm gì mà anh bị vào sà lim cách ly giam chung với đồng chí Tô Hiệu, mà chỉ do anh bị lao phổi sơ phát như Tô Hiệu. Nhờ những ngày tháng ấy, sau này Hoàng Công Khanh có tập ký sự "Hoa nhạn lai hồng" (NXB Văn Học-1992) gần 500 trang in. Trong đó bằng những chứng lý địa hình thay đổi, ngày tháng Tô Hiệu bị giam, không thể có cây nào mọc trên con đường trải đá, lính coi ngục vẫn nện gót giầy đinh đi tuần tra. Giai thọai hình thành do có hai nhà văn tên tuổi đến thăm sà lim Tô Hiệu, thấy cây đào gần sà lim, một ông thốt lên “Có thể cây đào này đồng chí Tô Hiệu đã trồng!”. Rồi in báo in sách “tam sao thất bản”, cây đào trở thành vật chứng của tinh thần lạc quan cách mạng của người cộng sản. Hoàng Công Khanh đã gửi tặng tỉnh uỷ Sơn La cuốn sách. Ít lâu sau, ông nhận được công văn của Tỉnh uỷ Sơn La, ông kể tôi nghe nội dung sự xác nhận của Tỉnh ủy về những điều tác giả đã sống, đã viết không có gì sai. Nhưng khi một giai thoại phù hợp với lòng dân đã được lưu truyền thì chả cần phải giải thiêng làm gì. Tôi nghĩ: Điều này hẳn cũng tương tự như cành đào lãng mạn của Nguyễn Huệ gửi về kinh cho công chúa Ngọc Hân đâu chỉ là sáng tạo riêng của Trúc Đường (theo lời kể Trần Lê Văn) trong kịch bản!
Hoàng Công Khanh đã kịp thời cùng với đoàn tù tự giải phóng khỏi ngục Sơn La (theo tổ đồng chí Hoàng Tùng). Rồi tham gia Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Kiến An Hải Phòng (cùng các đ/c Lê Quang Đạo, Hoàng Hữu Nhân). Nhiệm vụ đầu tiên của ông là phụ trách văn hoá cứu quốc, Công giáo cứu quốc Hải Phòng, Ủy viên Thông tin Tuyên truyền trong Uỷ Ban nhân dân Cách Mạng Hải Phòng. (theo sơ yếu lý lịch HCK).

Mấy năm hoạt động đầu kháng chiến (1947-1950) là những năm ông sống thoải mái nhất. Ông làm trưởng đoàn kịch Thông tin tuyên truyền liên tỉnh Hải- Kiến, sau là của Liên khu 3, tổng thư ký Hội Văn hoá LK 3, chủ bút tuần báo Sóng Mới (chi hội Văn Nghệ LK3), rồi phóng viên báo Cứu Quốc của đồng chí Xuân Thủy. Thời gian này, ông có tập truyện ngắn Trên bến Búng được giải thưởng địch vận của Liên khu, có thơ in rải rác trên các báo Văn Nghệ, Cứu Quốc, Quân Du kích, Quân Bạch Đằng, in chung tập thơ với Lê Đại Thanh, Trần Lê Văn, Yên Thao, Lan Sơn. Có tập thơ in riêng Hà Nội không ngủ (1948), vở kịch 5 màn Ở chung một nhà do Lộng Chương đạo diễn và đóng vai chính, thu hút khá nhiều bạn bè nhà văn lên sàn diễn: Trần Lê Văn cũng đóng một vai, nữ sĩ Tuyết Khanh vợ nhà thơ Hoàng Cầm cũng sắm vai (đồng thời, cũng là nhân vật trong câu thơ tôi thuộc: Khanh của Hoàng ơi lửa bốn phương - Sầu lên ngùn ngụt ý tha phương nhưng Hoàng đây là Vũ Hoàng Chương chứ không phải Hoàng Cầm!).
Sau khi ông tham gia đoàn đại biểu Văn Nghệ LK 3 và 4 lên Việt Bắc dự Đại hội Văn Nghệ toàn quốc về đến Thanh Hoá, bệnh lao tái phát, được tổ chức cho phép về Hà Nội chữa bệnh rồi tìm bắt liên lạc với cơ sở nội thành làm công tác trí thức vận trong hậu địch.
Tôi ngỡ hoạt động nội thành của ông chủ yếu là bí mật (hồi còn ít tuổi, tôi không nhìn thấy hết những hoạt động báo chí công khai của Thành ủy Hà Nội (giai đoạn 1950-1954) trong lòng địch, chỉ cảm thấy tờ Dân Ý có khuynh hướng cảm tình với kháng chiến) hoá ra ông được phân công làm chủ bút báo Dân Ý với nhiệm vụ chống văn hoá đồi trụy. Báo hoạt động được một thời gian, rồi sở Mật thám liên bang gọi ông lên đe dọa, rồi đóng cửa báo Dân Ý. Ngay sau đó, Thành uỷ cho ra đời tờ Niềm Vui (nhật báo công khai) tiếp nối nhiệm vụ của Dân Ý mà Hoàng Công Khanh lại là biên tập viên chủ chốt (đồng chí Nguyễn Bắc, người lãnh đạo các hoạt động văn hoá nội thành Hà Nội còn giữ được toàn bộ báo Dân Ý và một số tờ Niềm Vui để đưa vào Tổng tập lịch sử báo chí Việt Nam). Đó là nhiệm vụ của ông với tổ chức, còn với chúng tôi, những bạn văn đàn em của ông coi giai đoạn này của ông là “giai đoạn tiểu thuyết”, bởi có đến 6 cuốn tiểu thuyết của ông được xuất bản trong 4 năm: Mối tình đầu, Yêu chỉ một lần, Mẹ tôi sớm biệt một chiều thu (NXB Kuy Sơn 1951,1952,1953) Trại Tân Bồi, Bạn đường, Éo le (các NXB Vỡ đất, Chân lý, Thống nhất 1953,1954).

Theo các nhà văn đi kháng chiến về, ông là một cây bút “thường thường bậc trung”, bởi khi đó ông đã ra cuốn tiểu thuyết nào đâu! Nhất là vở kịch thơ Bến nước Ngũ Bồ mà chúng tôi đánh giá cao về giá trị văn học (cả về nội tâm và tính cách nhân vật) về sự công diễn phổ biến ở khá nhiều nơi có cộng đồng người Việt sinh sống, vì nội dung yêu nước được thể hiện bằng lời thơ đẹp, trong sáng, cảm khái thu hút được sự đồng thuận của nhiều tầng lớp khán giả. Có thể xem như đến sau năm 1950, ông mới viết văn như một nhà văn chuyên nghiệp.
Sau 1954 là “giai đoạn làm báo” của ông, ông làm chủ bút báo Nói Thật, viết bài cộng tác với báo Trăm Hoa của Nguyễn Bính và các báo khác. Chính ở giai đoạn này, ông đã bị tai nạn nghề nghiệp do dịch một tản văn của Lỗ Tấn với nội dung nghi vấn phụ họa Nhân văn Giai phẩm…

Trong mấy năm đầu thập kỷ 70, tôi hay gặp Hoàng Công Khanh, ăn mặc giản dị, nếu không muốn nói là lam lũ với gánh đồ nghề thợ mộc trên vai. Mời được ông một tách cà phê, tôi dấu tiếng thở dài qua làn khói thuốc “Chả lẽ thế là kết thúc một đời viết kịch, viết văn, làm thơ của Hoàng Công Khanh chăng?” Còn ông, đôi mắt đau đáu “nhìn” từng câu thơ của mình năm nào, nay đã trở nên lơ đãng nhìn thiên hạ…
Nhưng không! Sức sống của một cây bút đã từng sung sức như vậy dễ đâu nửa đường đứt gánh! Năm 1975, trong không khí hào hứng thống nhất đất nước, ông cầm lại bút, khởi thảo kịch thơ Vua Đen (Mai Hắc Đế) với chủ đề lấy dân làm gốc dài tới 7.150 câu thơ (1975-1978). Đến giai đoạn đổi mới văn học, cơ chế thoáng xuất bản đã làm ông già Hoàng Công khanh hồi xuân. Mang tặng tôi cuốn sách mới xuất bản, mắt ông sáng lên khi thông báo những tin vui về vở kịch Bến nước Ngũ Bồ, vì nó mà tôi biết ông 40 năm trước. Mặc cho tác giả của nó “379” thế nào (đó là tên tập thơ mới nhất của ông, ngụ ý: ba chìm, bẩy nổi, chín lênh đênh), Bến nước Ngũ Bồ vẫn phiêu du đậu vào bao bến bờ xa lạ: Khi tôi xem vở đó ở Hà Nội thì Ban kịch miền Trung do Mai Lân đạo diễn cũng cho công diễn ở Huế. Đầu năm 1954, Bích Thuận đạo diễn và đóng vai Thị Trinh ở Sài Gòn. Đầu 1955 Bùi Khoát tổ chức Liên hiệp sinh viên Việt Nam ở Paris dàn dựng. Rồi Dương Ngọc Châu dựng ở Ý, Đỗ thế Phiệt dựng ở Bỉ. Năm 1991, nó được công diễn ở Bolsa (California) nơi tập trung đông đảo người Việt. Nhờ nhuận bút bằng đô la gửi về mà tác giả xuất bản được tập kịch tôi đang cầm trên tay. Cung phi Điểm Bích viết xong năm 1989 cũng là một thành công đáng nể của ông. Tình huống kịch xuất hiện từ nội tâm mỗi nhân vật. Lộng giả thành chân, từ yêu giả khi được trao nhiệm vụ, Điểm Bích đi đến yêu thật, một tình yêu khao khát trong sáng làm tăng sức mạnh quyến rũ của người cung phi tài sắc. Một cảnh đậm màu sắc huyền thoại: các đồng nam đồng nữ trên bức chạm cũng xuống tham gia với Điểm Bích mở cuộc “tiến công tổng lực” vào vị thiền sư trẻ, cùng với khúc hát huê tình mời trầu tình tứ, điệu chầu văn mê đắm đong đưa, điệu múa tôn giáo phồn thực của đồng nam đồng nữ. Cuộc đấu tranh giữa thiền và tục đẩy lên đến mức ma quái…

Mấy năm cuối đời, ông nặng tai, trò chuyện cùng ông rất vất vả, có lẽ vì vậy ông càng sống cô đơn hơn. Ngấp nghé tuổi 90, ông nghe đã đủ, nay là lúc thanh thản nhìn lại, vẫn cặp mắt đau đáu ấy: cuộc đời Ba Bẩy Chín của mình. Cho nên phút ra đi của ông là phút thanh thản nhất: Thày em đi dạo về tắm rửa ăn sáng xong đang ngồi đọc báo thì…
(Kính sợ một lầm lụi Hoàng Công Khanh, ghi chép của Xuân Ba, Tiền Phong cuối tuần số 18 (7/5/2010) ).





Tái bút 1: Ngày 13 tháng 5/2010, tôi nhận được tin nhắn qua mạng của nhà báo, nhà văn Trần Chiến (con ông Trần Huy Liệu), có cung cấp thêm chi tiết: “ông Trần Huy liệu làm tập Thơ văn yêu nước và Cách mạng đưa vào bài thơ ký tên ĐXK (Đoàn Xuân Kiểu), ông Trường Chinh hỏi ai đấy, mà nhiều người cứ tưởng của tôi, cứ khen hay. Ông Liệu chỉ cười, vì lúc ấy ông Khanh đang nằm trong “tù ta”. Ông cụ hồn nhiên lắm. Tù Sơn La họp, họ không mời vì ông không phải CS, cụ cứ đứng bên ngoài ngó vào bẽn lẽn. Còn đoạn ở chung cellule isolée ( phòng biệt giam) với Tô Hiệu là vì cùng bị lao. Hồi ký về tù Sơn La của cụ nói thật không có cây đào làm Tỉnh và nhiều người lúng túng lắm.” Tôi chắc chỉ viết một lần về nhà thơ họ Hoàng này, nên xin bổ xung cho đầy đủ về tính cách, nhân thân một con người, một nhà văn Hải Phòng mà tôi quý mến.
(Bài này đã đăng trên báo điện tử Hoinhavanvietnam.vn, sau lễ tang HCK đầu tháng 5 / 2010, không có đọan tái bút).


Tái bút 2: Nếu các bạn tin Cây đào Tô Hiệu là một huyền sử đẹp nhằm tôn vinh danh nhân như cây đào của hoàng đế Quang Trung cho quân phóng ngựa trạm đem về Phú Xuân tặng Ngọc Hân công chúa (sáng tạo trong kịch thơ của Trúc Đường), nay lại có thêm bằng chứng từ tư liệu do nhà văn Trần Chiến cung cấp (từ tư liệu của thân phụ nhà văn: nhà sử học Trần Huy Liệu (chung phòng biệt giam) thì tôi xin góp một câu: Nếu cuộc đời Tô Hiệu là một khu rừng nguyên sinh quý hiếm thì cây đào huyền thoại Tô Hiệu chỉ là một biểu trưng cho khu rừng ấy. Các nhà văn, nhà viết kịch cứ việc xử dụng.. Nhưng con em ta đã ở một tầm dân trí khác, cái gì của lịch sử xin trả cho lịch sử, chuyện gì có thể “giải thiêng” xin mạnh dạn giải thiêng! Sòng phẳng như vậy, chỉ có ích, không mất lòng tin của thế hệ sau. Tôi nhớ đến bài thơ Dặm về của Nguyễn Đình Tiên, suốt trên 40 năm được giới nghệ thuật cả nước coi là của nhà thơ Quang Dũng, từ khi được chứng minh không phải của Quang Dũng, thì sự nghiệp thơ ông có vì vậy mà suy suyển gì đâu! Quang Dũng càng được chứng tỏ là trung thực, kiên quyết gạt bài đó ra khỏi bản thảo Mây đầu ô (Đi tìm xuất xứ một bài thơ, Văn Nghệ số 37, 16/9/1989, Bóng mây qua đỉnh Việt, Văn Nghệ số 51, 17/12/2011).



8/3/2012




 ❧ ❀ ❧ 

Thêm tư liệu về Cây đào TÔ HIỆU

_ Lại Nguyên Ân _

Hiệu ứng từ truyện lịch sử “Cây đào của Người Tù Áo Sạch”, tư liệu “Nguyễn Công Hoan từng phản biện về cây đào Tô Hiệu” do nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cung cấp, đã nhận được nhiều phản hồi từ phía bạn đọc với đủ màu sắc cảm xúc khác nhau. Trong hơn 50 comment cũng có những đề nghị cụ thể, vì vậy nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân giới thiệu thêm dẫn chứng để giải tỏa thắc mắc của độc giả vốn yêu chuộng chân lý: “Có bạn Lan Hương hỏi muốn xem tận mắt bài báo Nguyễn Tuân, tôi gởi lethieunhon.com ảnh chụp bài tùy bút "Đào Sơn La" ấy, đăng tuần báo "Văn học", Hà Nội, số tết 1959, từ trang 7 và tiếp theo trang 21. Cũng bài này, in vào tập "Sông Đà", Nguyễn Tuân đổi là "Đào Cộng Sản" (xem: Nguyễn Tuân: Sông Đà, in lần thứ hai, H.: Nxb. Tác Phẩm Mới, 1978, trang 153 đến trang158). Tôi đang quá bận, nhưng cũng có đọc các coment sau bài. Khi khác sẽ hồi đáp một vài ý kiến”






5/3/2012


 ❧ ❀ ❧ 





Đào Cộng Sản

_ Nguyễn Tuân _

Tôi đi Tây Bắc vào giữa mùa mưa 1958. Sơn La mưa, vào Điện Biên cũng mưa. Cái hình ảnh của sự sống như chỉ còn có suối, những con suối lũ của rừng sướt mướt; đứng trên đầu dốc mỡ lầy mà nhìn xuống cái xe ca-mi-ông sang ngang không khác gì một cái đò ngang hổn hển mà khảm qua cái bến bên này. Chợt nhớ lại ngày này tháng này cách đây đúng một năm, tôi đã thấy một con đê vỡ ở sát nách Hà Nội; nhật ký tôi ghi hồi ấy đã mang những dòng nặng trĩu: "Trong lòng mình cũng đang thẩm lậu một con đê. Cái đê ngoại hàn khẩu được rồi. Nhưng còn cái đê nội này? Đê ngoại cần giữ nhưng đê nội càng cần phải giữ vững hơn bao giờ... Con đê trong lòng tôi và những con đê trong lòng một số người quen... "

Nhưng mưa Tây Bắc dữ đến mấy rồi cũng phải tạnh. Tạnh mưa rào, cây và núi sáng đẹp hơn, cũng như sau mỗi lần bão tố, tanh hôi tà khí cuốn tan đi, bầu trời bao giờ cũng trong lành hơn. Và đúng như phương ngôn nói, hết mưa thì tiếp đến buổi tốt giời. Mùa khô ở Tây Bắc, ánh sáng lọc vô ngần, cái thứ ánh sáng nó khác hẳn dưới đồng bằng, nó thiệt là cái ánh sáng của vùng cao, cái ánh sáng làm mê tơi những người vẽ tranh những người quay phim màu. Cái ánh sáng tươi giòn đặm đà một năm chỉ có một kỳ kia đang chiếu lên miền Tây Tổ quốc bao la núi sông, dội vang lên cái tiếng nói ấm áp của biết bao con người mới bắt tay vào bao việc mới, của vô số là bộ đội và nhân dân đủ các dân tộc đang mở đường mở rừng mở sông mở phố, mở chợ, chỗ này công trường chỗ kia nông trường. Phong cảnh Tây bắc càng làm tôn lên những con người mới đang tạo thêm phong cảnh mới cho Tây Bắc. Và đúng vào một buổi chiều tất niên năm mở đầu cho kế hoạch ba năm của miền Bắc, tôi là người có cái may mắn được đứng dưới bóng một gốc đào nở hết hoa để đón một cái năm 1959 sẽ còn nảy nở không biết bao nhiêu là những người dũng cảm; và từ lòng quần chúng nhân dân rồi còn xuất hiện rất nhiều những con người lãng mạn dám nghĩ dám làm. Cây đào tất niên 1958 của tôi đang nở bung hết hoa nhưng cành nào cũng còn vô khối là nụ.

Từ Lai Châu về tới Sơn La tôi hăm hở trèo ngay một cái dốc giữa tỉnh cốt để thăm một gốc đào, gốc đào lịch sử mà kỳ trước qua đây giữa mùa mưa tôi chưa thăm được. Hết dốc là một cái nhà tù đế quốc, mà nay ta giữ lại làm di tích lịch sử. Không kịp đợi người hướng dẫn, tôi lách qua cửa sắt nhà ngục. Sắt cửa ngục xoay trên cối gỉ, kêu một cái gắt và rè rè, nó đúng là cái âm dội lại từ dĩ vãng đen tối của tỉnh Sơn La, cái tỉnh của những người đi đày xưa kia và của những người phu lục lộ chết đường dưới thời công sứ Sanh Pu-Lốp. Tôi đẩy hết cửa sắt này đến cửa sắt khác. Một cái ngục hoang vắng. Vào một cái sân con, qua các ngóc ngách, vào xà-lim tầng trên rồi xuống xà-lim buồng tối dưới hầm chìm đá tảng bê-tông. Cửa khu này ghi 1932, cửa khu kia ghi 1932. Phải, sau những cuộc nổi dậy dữ dội của phong trào Cách mạng 1930 khắp nước, thì đế quốc dựng hội đồng Đề hình chém bắn không ngừng tay cùng là mở rộng củng cố thêm nhiều đề lao ngục tối. Tôi dạo hết sân ngoài sân trong, nhìn tường đá nhìn xi-măng cốt sắt, nhìn cây. Có những cây hao hao cây xoan, và mấy gốc muỗm. Thế thôi. Tôi biết ở đây còn có cây đào, cây đào ông Tô Hiệu, nhưng mà đào mọc ở đâu? Hay là...
Tôi vừa đi tìm vừa thấp thỏm sợ có ai nhỡ tay chặt mất rồi chăng? Tôi lại vòng ra ngoài. Đây rồi. Mà lại những ba gốc kia. To lắm, trông thân đào thì tuổi đào cũng phải từ khoảng mười lăm hai mươi năm. Một gốc nép ở ngoài cái tường đá tảng vòng ngoài nhà ngục. Hai gốc ở trong đường hành lang lộ thiên men theo khu tù kinh tế mà sau này nó đổi ra giam cái đám thân Nhật. Cái tường đá ngoại vi nhà ngục đã bạt bằng ở góc này, nên hai gốc đào trong và gốc đào ngoài hình thành một cụm gần gũi thân mật như dang dở một câu chuyện tay ba gì đó. Này, có ai dại dột đã chặt phạm vào một gốc, vết dao còn mới vết thương chưa khô cục nhựa đào. Gốc ngoài tường đào nở bung, cành nào hoa cũng mãn khai, trông mà có cảm tưởng như đó là một người đứng ở ngoài nghển cao lên mà quan sát hộ hai người bạn bên trong, và đang hớn hở báo những tin vui cho bạn cách tường. Cái vui của cây đào ra hoa lúc này cũng là cái vui của tôi, của một người tuy đọc nhật báo lạc hậu về tin tức cứ hàng nửa tháng một, nhưng lòng vẫn kịp thời rộn ràng với những cái vươn mình mới của đất nước. Tôi liền muốn tâm giao giây lát với cây đào đang tỏa hoa trên gạch đá tan hoang của một nhà ngục đã quạnh bóng người tù.

Tôi cảm động như một người đã trót nhỡ ăn Tết sớm quá và đón tuổi xuân của mình nhanh tay hơn bao nhiêu người bạn khác ở đồng bằng - đồng bằng lúc này chắc chắn là chưa nở hoa đào.

Nghĩ mà thấy yêu ông Tô Hiệu quá đấy, yêu ông như mọi con người ta vẫn kính yêu một nhà thơ hay và lớn. Đế quốc tù đày ông ở hải đảo Côn Lôn. Từ một nhà ngục biển khơi sóng vỗ, đế quốc lại điều ông lên một nhà ngục trên rừng bao la xanh cái màu xanh có thể là của hy vọng và cũng có thể là tuyệt vọng. Ông thì khuất núi rồi, nhưng người đi vẫn còn để lại một gốc đào. Trên hoang tàn gạch đá và sắt lạnh của ngục, còn như vẳng thấy ông trước khi khuất đi còn quay lại mà lấy cái câu Kiều đào đông cười gió, với cái ung dung tự tại của một người thật là lạc quan cách mạng, với cái tiên tri bình tĩnh của một người biết thấu đến cái vận hội tươi vui trong hai mươi năm sau này tỉnh Sơn La đây và Tây Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hẳn là đồng chí ta linh cảm cái điều to lớn và tươi sáng kết quả ra hoa ức ức triệu triệu ấy, cho nên giữa một vùng dày đặc tối tăm và cùm xích đè con người xuống, mới bình tĩnh mà cắm xuống tấc đất đấy máu và nước mắt kia một nhánh đào. Và đào trổ hoa. Ngay cả cái thời Sơn La kháng chiến bị chiếm đóng lại, gốc đào vẫn thả tin hoa xuống phố tỉnh xuống chợ tỉnh dưới chân đồi, cái chợ tỉnh bị đóng khung sau dãy cây báng súng to lá to vóc và buồn thỉu như một loạt lính Tây chôn đứng.

Tôi lại vòng vào nhà ngục một lần nữa, nhìn vào hết các gian xà-lim hầm đá chìm dưới mặt đất núi, cố hình dung những cảnh tuyệt thực chống áp bức của chế độ ngục Sơn La và ngoài xà-lim thì công sứ Cút-xô kiêm quản đề lao cho đóng thêm quan tài và định lấy tiếng búa đóng áo quan làm áp lực thêm cho sự khủng bố của chúng. Trong khi ấy, đào Tô Hiệu vẫn hút lấy hơi đất máu mà kết dần nụ hoa. Có một điều đáng tiếc là tôi không biết đích xà-lim nào là xà-lim của chủ nhân gốc đào tiền khởi nghĩa. Nếu biết rõ, thì tôi đã dám phạm vào điều lệnh của quy chế bảo tồn bảo tàng mà bẻ một nhánh đào đầy hoa nhất mà đặt hoa ngay lên cái bệ xi-măng lạnh. Tôi liền xuống khu rừng ổi dưới chân núi, chỗ an nghỉ của đồng chí giồng đào. Có hai khu rừng ổi đều là nghĩa địa của tù đế quốc, một nghĩa địa riêng cho thường phạm, một cho chính trị phạm, đồng bào Thái trước vẫn hay gọi là pá ổi keo tu nghĩa là "rừng ổi của người tù Kinh". Mỗi cây ổi ở đây là một cái bia gỗ tươi, trên mỗi thân bia, đế quốc mắc vào một cái lập-lắc khắc số hiệu người tù qua đời. Cũng như mọi người ra ở nghĩa địa này, người giồng cây đào đáng kính yêu của chúng ta cũng nhận lấy một gốc ổi rừng. Bấy giờ là vào cuối một mùa xuân báo hiệu cho mùa thu Cách mạng.

Đứng trước mộ đồng chí Tô Hiệu nơi rừng ổi, tôi bảo tôi: "Nơi nghĩa trang tiên liệt này, cần có đào. Nếu không nhiều, thì cũng nên có một gốc. Mà nếu quanh đây không bói đâu ra đào nữa, thì cứ chiết ngay một cành ở chính cái gốc nơi ngục cũ trên kia xuống. Thực ra đất Sơn La không hiếm đào mà chỉ là ta còn nghèo về tính lãng mạn đó thôi. Đối với một bậc lãng mạn cách mạng, lấy hoa đào để hiện thực lên cái vui hoa quả xã hội chủ nghĩa của Sơn La thủ phủ Tây Bắc ngày nay, thấy cần có bóng hoa ấy trên chữ vàng bia đá".

Ngày hôm sau, tại một công trường đóng gạch ngói hàng mấy triệu viên một đợt của một đơn vị trước đây sống chết bám đất lăn lội với địch hậu Sơn La, ngày hôm sau là ngày Tết dương lịch năm 1959 bản lề kế hoạch ba năm, tôi mừng tuổi một cô văn công Tổng cục, cô cũng mừng tuổi lại cho tôi: "Em cũng mừng tuổi anh một cành hoa đào ở cây đào Ông Tô hôm qua". Thì ra đi thăm di tích lịch sử ngục Sơn La qua, cái gì còn đọng lại nhất trong cô diễn viên ca múa vẫn là mấy cánh hoa đào. Có lẽ phải đấy. Cái gì còn đọng lại và có lẽ còn đọng lại và chiếu sáng nhiều ngày sau này nữa, vẫn là cái ảnh hoa đào. Trong ngục đế quốc kia còn ngổn ngang rất là nhiều cùm xích, dóng sắt con tiện sắt khung cửa sắt, dày đén ba phân, thanh nào bé nhất cũng phải hai phân và đen kịt một màu sơn hắc ín. Nhưng trong cái thế giới tạo hình mà trí nhớ cô văn công ghi lại thì không phải là những nét trùi trũi của con song cửa đen gỉ mà lại chính là những cánh đào mỏng manh gió thổi bay được. Cái cành đào trên nhà ngục cô đọng tươi sáng trong nhỡn quan tôi vào một ngày năm mới đang nghìn lục muôn hồng trên con đường quốc lộ số 6.

 ❧ ❀ ❧ 

Nguồn: Tuyển tập Nguyễn Tuân (2): Sông Đà. Nxb. Văn học, 2002, trang 204 đến trang 208.

NGUYỄN CÔNG HOAN từng phản biện về Cây Đào Tô Hiệu

_ Lại Nguyên Ân _

Nhân đọc thiên truyện lịch sử “Cây đào của Người Tù Áo Sạch”, nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân cung cấp tư liệu: Đầu những năm 1960 ở miền Bắc, khi bắt đầu xuất hiện một số bài thơ bài hát về nhà tù thực dân ở Sơn La và “cây đào Tô Hiệu”, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã từng lên tiếng – nói như ngày nay – “phản biện”. Ta nên biết Nguyễn Công Hoan là người cùng làng, lại có họ hàng với Tô Hiệu. Ý kiến ấy ông nêu trong một bài (đăng số 6/1962 trên tập san “Nghiên cứu văn học” của Viện Văn học) góp ý kiến với hai nhà giáo Đại học Tổng hợp Hà Nội khi ấy là Bạch Năng Thi và Phan Cự Đệ, tác giả giáo trình “Văn học Việt Nam 1930 - 1945” (Nxb. Giáo dục, 1960), nhân đấy Nguyễn Công Hoan nói thêm vài chuyện khác, trong đó có chuyện “cây đào Tô Hiệu”. Nguyễn Công Hoan truy nguyên ra, người nêu ra chuyện “cây đào Tô Hiệu” với báo chí đương thời chính là nhà văn Nguyễn Tuân (Lần theo hướng Nguyễn Công Hoan đã chỉ, tôi đã thấy bài bút ký “Đào Sơn La” của Nguyễn Tuân đăng báo Văn học số Tết Kỷ hợi 1959); chuyện này sẽ nói đến vào dịp khác. Ta hãy trở lại ý kiến nêu trên của Nguyễn Công Hoan.



Nhà văn Nguyễn Công Hoan viết:
“Mấy năm trước tôi đọc một bài của Nguyễn Tuân, nói đến một cây đào ở Sơn La. Không rõ anh đã hỏi ai mà cây đào ấy được khẳng định là của đồng chí Tô Hiệu trồng. Từ đó cây đào may mắn ấy đã trở thành đề tài sáng tác cho nhiều nhà văn nhà thơ. Riêng tôi cứ thắc mắc, tôi có hỏi một vài anh em chính trị phạm cũ. Trong những người này, đồng chí Lê Giản là người cũng có họ với đồng chí Tô Hiệu và với tôi, nói rằng không đúng, vì người tù nào lại có thì giờ đi trồng đào bao giờ? Vả lại nếu cây đào trồng từ ngày đồng chí Tô Hiệu thì đến năm nay, trải qua hơn hai chục năm, nó còn xanh hay đã cằn cỗi?”
Nguyễn Công Hoan cho biết ông đã có vài kinh nghiệm về sự quy công cho những người nổi tiếng. Ví dụ như ở ngay quê làng Xuân Cầu (Hưng Yên) của ông từ xa xưa đã có tục làm đám cưới vào ngày Nguyên đán (mồng 1 Tết), là vì người ta tính rằng: ngày ấy nhà nào cũng có cỗ bàn rồi nên đám cưới khỏi lo việc ăn uống, đỡ tốn kém.
Thế mà đến lúc này (lúc Nguyễn Công Hoan viết bài báo, tức là năm 1962) người làng lại kể như là do Tô Hiệu ở tù Côn Đảo về thay lệ làng cũ nên mới có tục lệ mới ấy! Nhà văn Nguyễn Công Hoan khẳng định chuyện ấy không đúng, vì theo ông, khi Tô Hiệu ở Côn Đảo về, tuổi anh còn trẻ, chưa thể gây ảnh hưởng lớn tới dư luận trong làng; mà trong tâm lý làng xã thì ‘bụt chùa nhà không thiêng’, còn nói theo lối nói thông dụng ở miền Bắc hồi những năm 1960 thì lúc ấy sự giác ngộ của dân làng ông cũng hãy còn kém!
Đó là điều mà ngày nay có thể gọi là sự “phản biện” của nhà văn Nguyễn Công Hoan trên một tình tiết cụ thể liên quan đến sử học và văn học.

Tất nhiên, ta dễ thấy ý kiến này của ông rất ít được người ta quan tâm; có lẽ vì biểu tượng “cây đào Tô Hiệu” tương đối thông dụng ngày nay chủ yếu được sử dụng như là một biểu tượng của du lịch.

1/3/2012

 ❧ ❀ ❧ 

Cây đào của Người Tù Áo Sạch - Nguyễn Anh Tuấn

_ Nguyễn Anh Tuấn _

Tô Hiệu - Bí thư Thành ủy đầu tiên của Hải Phòng, cùng với những đồng chí của ông trong giai đoạn tiền Khởi Nghĩa đã bộc lộ những phẩm chất tinh thần cao quý giữa hiểm nguy chết chóc, đã nêu cao tấm gương sáng chói của "Tính kỷ luật cao độ, sự tôn trọng nhân dân, thái độ bất khuất cương trực trước mọi kẻ quyền lực hống hách, lòng thương người và sự giúp đỡ mọi người vô điều kiện, những bộ quần áo tàng được giặt giũ sạch sẽ và vá víu cẩn thận, sự thông thạo và ngăn nắp trong mọi công việc lao động… tất cả những cái đó đã được truyền tụng trong dân chúng như những truyền thuyết đẹp đẽ nhất của họ, đã sưởi ấm và rọi sáng cho biết bao số phận u tối, bất hạnh…". Vẻ đẹp Tâm hồn và Nhân cách của những nhà Cách Mạng Tiền bối lại càng trở nên có ý nghĩa cấp bách đối với hôm nay, khi mà bóng đen hắc ám bao phủ vài khoảng trời xã hội mới có khi lại xuất phát bởi không ít người đang thay mặt Nhân Dân để "cầm cân nảy mực" xã hội... Nhưng toàn thể Nhân dân & Cán bộ Thành phố Hải Phòng (còn được gọi là "Thành Tô", Thành phố Tô Hiệu) - không vì một số kẻ Sâu Mọt trong hàng ngũ công quyền mà mất đi niềm tự hào cao quý về những Người Con Chân Chính của mình cả trước kia lẫn hiện tại! Bằng sự trân trọng, lethieunhon.com xin giới thiệu thiên truyện lịch sử viết về Tô Hiệu!

     (Phần 1)

"Chợt một giấc mơ lạ lùng đến với anh: có nhiều người cầm dao dựa, dao quắm đang mím môi mím lợi dang tay chặt cây đào của anh! Một dòng máu tươi vọt ra cùng tiếng rên rỉ thương tâm làm anh lạnh toát người. Anh thét to lên một tiếng, chạy lại gần, thì thấy trong số những kẻ đó, bên cạnh tên công sứ Cút-xô, tên chúa ngục Ga-bô-ri, tên cai khố xanh, lạ chưa, có cả một vài người đồng chí thân yêu của anh!..."

*
*   *

Thị xã Sơn La buồn tẻ lại vào đêm. Trên ngọn đồi Khau Cả, khu nhà tù và khu trại lính khố xanh yên ắng đến rùng rợn.
Mõ cầm canh ba tiếng đều đặn, cứ mười lăm phút một, từ chòi canh này qua chòi canh khác theo lối dây chuyền. Mõ ngắn, mõ dài, kẻng dài, kẻng ngắn. Âm thanh khác nhau, nhưng vẫn tạo nên một sự đơn điệu tẻ ngắt. Thỉnh thoảng trên những đường rải sỏi ở bên trong và bên ngoài khu nhà tù lại có tiếng giày đinh lạo xạo. Đó là những người trực tuần do trại lính khố xanh cử ra hay một người phó quản đi kiểm tra các chòi canh (một loại lô cốt có lỗ châu mai), kho bạc, dinh thống sứ v.v. Họ xách đèn bão đi bất thần. Liệu hồn những anh lính của một tốp canh nào đó ngủ gật. Mỗi ngày có vài ba tốp canh, mỗi tốp khoảng mười hai người trở lên có một đội hay cai đứng đầu, lúc sáu giờ tối thổi kèn tập hợp trước trại lính khố xanh để đi đổi gác. Mỗi tốp canh như thế lại chia ra thành bốn nhóm nhỏ, mỗi nhóm ba người thay phiên canh gác bốn lần trong một ngày tại các chòi canh. Tại những nơi quan trọng, ngoài các chòi canh còn có đồn canh - ở đó đặt bàn giấy của gác-điêng.
Đêm nay, cũng như mọi đêm, không có quy định trước về giờ giấc, bước chân của người đốc canh lại lạo xạo, lạo xạo trên đường rải sỏi.
- Ách-tơ-la! Ki-vi? (Ai, đứng lại)
Một người lính ở một chòi canh kêu lên. Lập tức có tiếng trả lời cụt lủn:
- Rông ! (Đội tuần)
Sau đó là những câu trao đổi ngắn gọn về mật hiệu. Rồi bước chân đốc canh đi đến các chòi canh khác. Lại những câu ngắn vang lên. Sau khi hết các chòi canh của khu nhà tù, đội trực tuần lại quay về cổng lớn. Người lính canh ở cổng lớn quay về phía đồn canh nằm trong nhà tù, gọi to:
- Sếp đơ pốt! Vơ-nê rơ-con-net (sếp bốt, hãy đến tiếp nhận)
Chỉ một lát sau, có tiếng mở khóa loảng xoảng: gác-điêng đã ra, đưa đội trực tuần vào ghi nhận trong sổ kiểm tra về tình hình canh gác của tốp canh đêm đó.
Trong khu nhà tù có một cái “cu-loa” (đường bao quanh) hẹp nằm giữa bức tường bao ngoài và những khu trại giam bên trong. “Cu-loa” này cũng rải sỏi. Đôi khi, đội tuần tra cũng đi một lượt khắp “cu-loa”.
Trong cái “cu-loa” của những bước tuần tra đơn điệu ấy, ít ai chú ý đến một ngách riêng biệt, gần chỗ ngoặt, ăn sâu vào tường bên trong của nhà tù. Đó là một cái buồng giam nhỏ hình tam giác, sàn xi-măng, có một cửa sổ chấn song sắt hình bán nguyệt và cửa ra vào bằng sắt. Nó tách biệt với tất cả các khu buồng, trại giam khác bởi một bức tường xây bằng gạch và đá đồng thời cách biệt hẳn với bên ngoài qua một mét đường “cu-loa” tiếp giáp với bức tường chắn bằng đá hộc vây quanh cả khu nhà tù. Đây là nơi trước kia dùng để tạm xác chết tù nhân. Ngay cạnh buồng giam đó là cửa sau của hai hố xí ăn vào bên trong. Và, một cây đào đang tuổi lớn mọc từ kẽ nứt của chân tường, những cành lá non tơ của nó xòe ngang ngực một người tầm thước. Những người tù mỗi sáng tập hợp điểm danh trước cổng doanh trại lớn để đi làm cỏ-vê (công việc khổ sai nặng nhọc) nhìn sang trái, thấy cây đào lớn từ bao giờ vẫn thường ngạc nhiên và thầm trao đổi với nhau về sự sống của nó. Một cây đào mọc dưới chân tường đá, lại ở trên đường tuần hàng ngày của cai, đội hay những người đốc canh thật không dễ dàng gì. Chỉ cần một sự ngứa mắt nào đó là a-lê-hấp! cây đào sẽ đi tong. Nhưng điều đó cuối cùng cũng không thể xảy ra. Khi có tên cai khố xanh ton hót lên Tòa Sứ tin tức giật gân này, anh em tù chính trị được thông báo ngay lập tức. Và trước khi Công sứ kịp nổi giận, Ban đối ngoại của Ủy ban hàng trại Chi bộ đã cử người đến Tòa Sứ tuyên bố cho y biết: Nếu như tính mạng của cây đào không được đảm bảo, toàn bộ anh em sẽ đình công- có nghĩa là tất cả những công việc nặng nhọc trong và ngoài nhà tù như xe nước, làm gạch, chăm vườn rau, giặt giũ cho gia đình công sứ, dọn chuồng ngựa, v.v, sẽ bị ngừng trệ vô thời hạn. Sau đó không thấy động tĩnh gì cả. Hình như rồi cả tên cai xấu bụng kia cũng nhắm mắt làm ngơ, hay quen với sự có mặt của cây đào. Một cây đào mọc ở đấy thì có ảnh hưởng gì đến lối đi, đến sự an toàn của bức tường kiên cố? Hơn nữa, trong số lính khố xanh có những kẻ mê tín rỉ tai nhau: cây đào này hình như là hiện thân của một vị thần rừng nào đó, chớ nên động vào!

Tác giả Nguyễn Anh Tuấn bên cây đào Tô Hiệu!

Cây đào cứ thế lớn dần, vững chãi, với tất cả bản tính tự nhiên và vẻ đẹp mà rừng núi đã ban cho nó. Nhưng đúng cái lúc cây đào bước vào thời kỳ sung sức, người sống gần gũi nhất với nó lại lâm vào một cảnh ngộ hoàn toàn trái ngược. Trong gian tối hình tam giác, người Bí thư chi bộ trẻ tuổi đã yếu lắm rồi. Anh không còn đủ sức lê ra tới cây đào. Những trận ho đột ngột và dữ dội kéo dài như ném quật cái thân hình còm cõi của anh xuống sàn xi-măng rắn lạnh. Tiếng thở của anh giống như tiếng kéo bễ, có lúc lại giống tiếng thổi qua một ống sắt tây dài hun hút hay tiếng những mảnh vụn kim loại nghe rờn rợn khi xóc lên trong một cái bình thủy tinh. Anh thở hết sức khó nhọc, dường như trái đất này đang thiếu dưỡng khí một cách trầm trọng. Nhưng đôi mắt của anh muốn nói rằng xung quanh anh đang tràn đầy ánh sáng, và như vậy có nghĩa thực ra dường khí không phải là hiếm hoi! Mỗi lần nhìn ánh mắt Tô Hiệu muốn nói điều đó, những người tù đeo số vuông [1][1] Tù chính trị CS, phân biệt với tù thân Nhật đeo số hình thoi. ngồi bên anh đều thấy lòng quặn thắt. Những ngày Tô Hiệu lên cơn sốt nặng và ho ra những tia máu, ai cũng muốn tới chăm sóc anh, chi bộ CS nhà tù phải ra nghị quyết về chế độ luân phiên đến với Tô Hiệu. Mới đầu Tô Hiệu cương quyết không đồng ý bất kỳ ai trông nom anh, hay ngồi bên anh quá lâu. Nhưng điều đó đã thành quyết định của chi ủy, Tô Hiệu mới đành chịu. Mọi người đều cảm thấy rõ rệt những ngày cuối cùng của bạn tù đã tới… Nhưng không ai nói ra và cố gắng xua đuổi ý nghĩ khủng khiếp đó ra khỏi tâm trí mình. Còn nước còn tát. Những cặp mắt thâm quầng ngơ ngác vì lo âu, vì thiếu ngủ. Số lương thực dự trữ và số thuốc dự trữ quý nhất trong “Quỹ cứu tế” của chi bộ được đem ra cho người ốm sử dụng. Không còn một chút bóng dáng của sự ngại ngùng, e sợ. Sự sống của Tô Hiệu lúc này là trên hết. Quý giá biết bao một giấc ngủ tạm yên, một hơi thở nhẹ nhàng của Tô Hiệu. Những cặp mắt ghé nhìn vào và những tiếng thở dài nhè nhẹ an tâm. Những yêu sách về sức khỏe người tù đặc biệt này được liên tiếp gửi đến tòa Sứ. Có lần một y tá dân tộc đến khám và tiêm cho Tô Hiệu vài ống thuộc rẻ tiền. Người y tá cũng phải lắc đầu buồn bã. Một người tù “đặc biệt nguy hiểm” ở giữa rừng rú mịt mùng này lấy đâu ra những loại thuốc đặc hiệu mà y học lúc đó cần đến để có thể trị được cái bệnh được liệt vào một trong “tứ chứng nan y” - thứ bệnh được mệnh danh một cách ghê sợ là bệnh “cô lập” (Isolé) với mọi người! Siêu vi trùng Kốc (tên một nhà khoa học đã phát hiện ra vi trùng lao) đang hoành hành trên cơ thể thư sinh của Tô Hiệu. Nhìn vẻ đăm chiêu và cái lắc đầu chậm rãi của người y tá, những người tù đứng quanh nhìn nhau lòng tê tái.

Giờ đây Tô Hiệu không còn làm bí thư chi bộ nữa, bệnh của anh đã quá nặng, khi ra khỏi buồng giam thường phải có hai người dìu hai vai. Nhưng đã từ lâu, mọi người vẫn quen coi Tô Hiệu như linh hồn của các cuộc đấu tranh chính trị trong và ngoài tù. Những buổi hội ý, trao đổi với chi ủy vẫn diễn ra trong căn buồng giam riêng biệt. Những tài liệu quý báu vẫn được viết ra và giấu ở một nơi kẻ thù không sao ngờ tới.
Những tiếng mõ cầm canh lại vang lên đơn điệu. Bóng tối chụp lên những chòi canh nhô cao khỏi dãy tường đá trông đen trùi trũi. Người ta dễ có cảm tưởng khung cảnh đó giống một tòa lâu đài của một lãnh chúa thời Trung cổ Châu Âu. Một đôi chim từ quy kiên nhẫn khắc khoải, tiếng kêu của nó như rơi vào một nơi xa vắng mênh mông - đại dương của sự im lặng. Có điều, sự im lặng đó là sự im lặng trước một cơn giông lớn đang tới gần. Một không khí ngột ngạt bao trùm lên tất cả. Những ngọn đèn đường vốn tù mù lại bị khoác thêm những cái chụp phòng không. Cái thị xã nhỏ bé của cảnh tù đày lại càng thêm ảm đạm…

*
*   *

Một buổi sáng Tô Hiệu gắng gượng ngồi dậy. Anh lê ra khỏi khung cửa sắt buồng giam đã gỉ loang lổ. Lúc này, mặt trời còn nằm ở bên dưới tường phía ngoài, nên toàn bộ vẫn còn là bóng râm mát lạnh. Sương mù vẫn chưa tan hết. Những người tù đã đi làm cỏ-vê cả. Các khu trại giam vắng lặng. Chỉ có tiếng chim rừng lảnh lót và tiếng mõ trâu lốc cốc ven đồi vẳng lại. Tô Hiệu ngồi trên đường rải sỏi. Anh ngước mắt nhìn cây đào. Nó đã cao được gần một phần ba bức tường ngoài có gắn mảnh chai và chằng chịt dây điện trần. Lớp vỏ cây sần sùi đã hình thành, bao quanh thân hình mỏng mảnh làm nên vẻ cứng cáp. Tô Hiệu vừa ốm dậy, người anh mỏng dính, tiều tụy. Duy còn đôi mắt là vẫn sáng một cách lạ lùng, vẫn linh hoạt đón nhận những màu sắc của bên ngoài. Mấy tháng ròng, người dán chặt xuống sàn xi-măng, giờ anh mới lại được thấy cây đào. Nó thay đổi nhanh chóng quá! Sự khắc khổ đã hiện hình, len lỏi đằng sau màu xanh non của lá và màu hồng phơn phớt của hoa. Lần đầu tiên cây đào ra hoa! Tô Hiệu lặng người. Cây đào đã ra hoa! Cái điều đơn giản ấy cứ thầm thì bên tai anh. Tô Hiệu không thể chạy đến cây đào, nâng niu từng cánh hoa đầu mùa và hôn lên cái sắc hồng thoáng dịu của nó. Anh chỉ biết ngồi đúng cái vị trí mà từ đó, ánh mắt đầu tiên của anh bắt gặp cây đào nở hoa. Nhìn khuôn mặt hiền hiền hơi ngây ra vì sung sướng và ngạc nhiên lúc ấy, ai có thể nghĩ rằng con người đó vừa trải qua những cuộc vật lộn với thần chết, với những ngày tháng giá lạnh của mùa đông Tây Bắc!
Nắng đã tràn ngập đường “cu-loa”. Cây đào được tắm trong nắng sớm và dường như cũng tự tỏa một thứ ánh sáng lung linh nào đó của riêng mình. Nó làm cho màu đá xám xung quanh bớt đi cái nhức mắt quen thuộc. Thế là, màu hoa đàu đơn sơ, nguyên thủy lần đầu tiên xuất hiện trong cái nhà tù nổi tiếng được dựng lên từ năm 1908. Tô Hiệu không làm thơ bao giờ, anh thuộc về những người ưa trào phúng và thiên về lý lẽ hơn cảm xúc trữ tình, nhưng giây phút đó, anh lâng lâng trong một trạng thái tinh thần đặc biệt. Tâm trí đầy hứng khởi dẫn anh quay về những năm tháng chưa xa…
Một buổi sáng tinh sương, như thường lệ, tiếng kèn la-vầy (hiệu lệnh báo thức) dội lên từ phía trại lính khố xanh, những người tù vội vàng chạy ra sân, trước cổng lớn nhà tù tập hợp để đi làm cỏ-vê. Tiếng khóa xích cổng nhà tù kêu loảng xoảng. Ở ngoài cổng lớn có tiếng hô tập hợp của trại lính khố xanh. Những đội lính đi coi tù đã vào sân nhà tù nhận tù đi làm. “Sếp” ngục Ga-bô-ri đọc danh sách tù. Một người tù đại diện nói to:
- Ông “sếp” ngục, anh em chũng tôi có ba người lên cơn sốt rét.
Ga-bô-ri xua tay:
- Đi làm “tú”!
Đúng lúc đó, một người tù bỗng ngã lăn ra. Mọi người đổ xô lại. Vài tiếng gọi: “Mạnh! Mạnh ơi!”
Một người tù giơ hai tay lên, giọng thảm thiết:
- Trời! Mạnh… Nó đi đái ra máu[2][2] Tức là bệnh sốt rét sưng gan đặc biệt nguy hiểm đối với người tù Sơn La. hai hôm nay rồi!
Một người khác ngỡ ngàng:
- Hôm qua nó còn trèo cây đào ngoài kia mang về một vạt áo đầy cho anh em mà!
Một người ghé sát vào ngực người bạn tù nằm dưới đất, rồi lắc đầu, đứng lên, ngậm ngùi lau nước mắt. Mọi người đứng yên lặng, cúi đầu bên xác bạn tù. Ga-bô-ri vung roi gân bò:
- A-lê! Chúng mày còn đứng đây làm gì! Nó chết thì đưa ra nghĩa địa Gốc Ổi! Lính đâu, khiêng xác! Còn chúng mày, đứa nào phận nấy!
Những người tù nặng nề lê bước ra khỏi cổng nhà tù. Sân nhà tù trống không. Tô Hiệu lần từng bước trên đường “cu-loa”, đến chỗ người tù vừa ngã xuống. Anh nhìn thấy quả đào cắn dở lăn ra từ túi áo Mạnh. Anh nhặt lên và ngậm ngùi… Chốn này, hầu như chưa một ai mắc bệnh sốt rét đái ra máu mà qua khỏi. Mạnh ơi, chắc mẹ và vợ cậu đang mong cậu mỏi mắt đây. Ngày nào cậu cũng nhắc tới mẹ già… Quả đào anh nắm chặt trong tay là đồ vật duy nhất Mạnh để lại cho cuộc đời…
Tên chúa ngục đã quay trở lại, nhìn thấy Tô Hiệu, hắn sủa nhặng lên:
- Lại mày, trông thấy mày tao ngứa mắt! Mày lê la khắp các xó xỉnh trong “cu-loa”. Nhưng liệu có ích gì? Có kéo dài tuổi thọ cho mày, hoặc cho mày nghĩ âm mưu gì đó để lật đổ chúng tao hở? - Hắn cười hô hố, nhưng chợt im bặt khi nhìn vào tay Tô Hiệu, hắn xông tới giật quả đào trong tay người tù ốm yếu một cách quá dễ dàng - Cái gì thế này, mày cầm cái gì, tài liệu mật trong này hả?... Ồ, rừng Sơn La có quả này ngon đấy, lại nhiều, không phải mất tiền mua. Chỉ tội khắp khu đồi này chỉ có mỗi cây ở vườn rau nhà Tòa Sứ. Này, thứ quả này chúng mày làm thế nào ăn được ngon hơn, bổ hơn? Có nấu được rượu không, hả? Sao mày im lặng vậy, khinh tao chắc - Chợt Ga-bô-ri lùi lại - Mày nhìn tao bằng con mắt căm hờn thế kia, hở tên “Thống sứ đỏ”! Đã vào tay chúng tao thì chỉ nên ngoan ngoãn thôi, may ra còn giữ được thân mà về với vợ con.
Tô Hiệu nhổ một bãi nước bọt xuống đất, anh vẫn giữ nguyên cái nhìn làm tên chúa ngục quan hống hách phải hoang mang. Hắn làm rơi quả đào cắn dở và như người bị thôi miên.
- Này, “sếp” Ga-bô-ri! Tốt hơn cả, mày hãy về ngày với con vợ mày đi (Ga-bô-ri có cô vợ người Việt), nó đang chửi ầm lên là mày đang làm nhục nước Pháp đấy; vì hôm qua, cái việc mày ăn bẩn của tù chính trị hai ký gạo, cả tòa Sứ và trại lính khố xanh cũng đều biết cả.
Tức nổ mắt, Ga-bô-ri gào lên:
- Im mồm! Mày dám bôi nhọ tao à! - Hắn giơ roi định quật xuống, nhưng nhìn ánh mắt của người tù hắn rụt tay lại, rồi quay đi hậm hực, không quên giơ roi lên hoa tít - Liệu chừng!

Nhưng Tô Hiệu, không thèm để ý đến lời đe dọa của Ga-bô-ri, chính lúc đó đã để lòng mình vào nỗi nhớ thương u uất khôn cùng… Mạnh ơi, vĩnh biệt! Cậu yên nghỉ. Anh em chúng mình sẽ tiếp tục cuộc đấu tranh. Chỉ thương cho cậu, mẹ già gần đất xa trời đang bấm đốt tính từng ngày mong cậu trở về, vợ cậu một nách hai con không biết rồi sẽ sống sao?... Mình sẽ tìm cách báo cáo với tổ chức đề nghị giúp đỡ gia đình cậu. Mai sau, anh em sẽ đưa gia đình cậu trở lại nơi này, thăm mộ cậu. Yên lòng ra đi, Mạnh ơi, cậu đã sống xứng đáng…


Sực nghĩ đến điều gì đó, Tô Hiệu lần đến chân tường đá. Trên đường “cu-loa” này, anh thuộc từng dấu vết nhỏ. Anh lúi húi bên một kẽ nứt chân tường, tìm cách cho quả đào cắn dở xuống chỗ đó, bới đất dưới lớp sỏi dày và phủ kín quả đào. Từ hôm đó, hàng ngày Tô Hiệu để giành ít nước trong chiếc ca nhỏ vừa dùng để uống, vừa dùng để rửa ráy, tưới xuống phía dưới chân tường…
Hồi ấy, bệnh lao của anh đã phát nặng. Nơi giam biệt lập của anh, những tên quan Tây không bao giờ tới. Chúng gọi đấy là “Dinh thự của tên Thống sứ đỏ”, vì thế cả cái “cu-loa”, đặc biệt là gần nửa “cu-loa” bên này chỉ có bước chân của người lính tuần và Tô Hiệu. Anh được tự do đi lại trong toàn “cu-loa”, thỉnh thoảng cũng được ra ngoài cổng lớn. Nhưng kẻ thù không thể ngờ được rằng con người mang cái tử bệnh bị giam cô lập kia lại là người nắm toàn bộ những hoạt động bí mật của nhà tù và trực tiếp điều khiển những hoạt động đó. Chính tại cái sàn xi-măng hình tam giác, Tô Hiệu đã ngồi viết những dòng chữ li ti trên những mẩu giấy báo, vỏ diêm, giấy nháp, giấy cuốn thuốc - đó là những tài liệu huấn luyện chính trị. Những đêm không ngủ được vì bệnh tật dày vò cũng là những đêm thức trắng gò lưng ngồi viết tài liệu dưới ánh sáng của một ngọn đèn leo lét (Dầu thắp anh có được là nhờ một vài người lính khố xanh có cảm tình với tù số vuông mua ở thị xã).
Và một ngày kia, điều kỳ diệu tự nhiên đã xảy ra: từ hốc đá, một màu xanh đã nhô lên đón nắng và không khí. Chiều chiều, lúc đi làm khổ sai trở về, anh em tù chính trị Cộng sản đến thăm Tô Hiệu đều say sưa ngắm nghía cây đào nhỏ xíu đang vươn lên. Những người lính khố xanh cũng trầm trồ khen cây đào đẹp và mau lớn. Mỗi buổi, hết giờ làm khổ sai, những người tù rẽ thăm Tô Hiệu và cây đào có người mang cả một gói đất trong túi áo đổ vun vào gốc cây:
- Đi làm vườn rau nhà tòa Sứ, thấy đất tốt quá, lấy trộm về một ít đây. Cảm ơn quan chánh nhé! Ở đây toàn đá với sỏi thôi
Rồi mỗi người một câu vỗ về cây:
- Đào ơi, đào ơi, mày cố mà sống nhé! Số mày thật vất vả, phải lớn lên ở một nơi khắc nghiệt thế này.
- Bao giờ nó ra hoa nhỉ?
- Hai năm rồi còn gì. Có lẽ phải sang năm. Thường là ba, bốn năm đào mới bói ra lứa quả đầu tiên.
- Mình nóng lòng muốn biết hoa và quả của cái cây này nó ra sao.
- Cậu không nghĩ đến điều này à: đã chắc gì mình con ở đây cho đến khi đào ra hoa, bói quả?
Khi mọi người đã tản đi hết, người tù trẻ mang gói đất lúc nãy còn chần chừ, đứng nán lại bên cây đào. Linh tính báo cho Tô Hiệu.
- Mình chú ý từ nãy tới giờ cậu có điều gì khang khác?
Người tù trẻ không dám nhìn thẳng vào Tô Hiệu, anh vịn tay vào gốc đào, nói như sắp khóc:
- Anh Tô ơi, em rất thương và quý các anh… Nhất là đối với anh.
Tô Hiệu dịu dàng nói, anh đoán lòng người bạn trẻ có điều uẩn khúc:
- Ừ, cậu thương mình thì đi ăn cơm đi, chiều nay còn làm cỏ-vê chuồng ngựa kia mà. Cậu mệt hay sao?
- Không, anh cho em ở lại một chút với anh, với cây đào…
Tô Hiệu cảnh giác
- Cậu định đi đâu? Tạm biệt đấy à? Này tôi bảo thật, cậu đừng giở trò nhé! Định vượt ngục vô tổ chức à? Anh em đang tổ chức vượt ngục có kế hoạch hẳn hoi. Cậu quên cái đầu anh Lý treo trên cọc sắt cổng nhà tù à? Trời ơi!...
- Em không sao chịu được nữa rồi! Em đã có kế hoạch chu đáo, không làm ảnh hưởng đến ai. Em xin anh, em van anh. Em rất tin anh nên mới thổ lộ với anh. Anh đừng ngăn cản em, đừng nói với em những lời đau lòng như thế…
Tô Hiệu thấy cần phải cương quyết. Anh nhìn sát vào đôi mắt chàng trai:
- Cậu bị ảnh hưởng quá nhiều tiểu thuyết lãng mạn, phiêu lưu mạo hiểm. Không được!
Người tù trẻ bật khóc rưng rức lên cây đào.
Tô Hiệu lắc cái đầu ái ngại, anh cảm thấy rõ rệt ở trong mình cái tình thương và trách nhiệm của người anh.
- Cậu định một mình vượt núi cao rừng thẳm, vượt bao lưới bủa vây bằng thứ nghị lực yếu hèn kia. Tôi tưởng cậu phải lì lợm hơn đấy.
Người tù trẻ gạt ngước mắt:
- Trước anh, em không thể giấu được con người thật của mình. Em lì lợm sao nổi?
- Chính trong những lúc này, chúng ta phải kết thành một khối thống nhất. Phải kiên nhẫn chứ!
Người tù trẻ nhìn Tô Hiệu, chỉ nói được câu: “Anh nằm nghỉ đi, anh Tô”, rồi chạy đi.
Tô Hiệu nhớ lại một sự kiện cũng trong năm ấy… Con gái của viên giám binh Len-nê tên là Mac-gơ-rit (Margueritte) học ở Hà Nội, vào dịp nghỉ hè lên Sơn La. Khi được vào nhà tù (sau một thôi một hồi thuyết phục và giận dỗi ông bố) để xem những người tù Cộng sản bản xứ có kinh khủng như những lời đồn đại hay không, điều làm cô bé ngạc nhiên và thích thú hơn cả có lẽ là cây đào. Len-nê đã sai chúa đất tuần phủ Cầm Ngọc Phương dẫn con gái vào thăm nhà tù. Mac-gơ-rit túm váy đi dò dẫm, nhìn quanh, rồi dừng lại trước cây đào nhỏ.
- Ôi, gì thế này? Cây gì vậy? Này ông tuần phủ, ông có biết cây gì đây không?
Tuần phủ cũng ngỡ ngàng nhìn cây đào một lát
- Thưa tiểu thư, nếu hạ quan không lầm thì nó là một cây đào, tiếng dân tộc Thái gọi là co má cai. Chúng mọc đầy ngoài kia.
- Từ ngày bước chân sang xứ sở nhiệt đới này theo cha ta, cứ mỗi mùa xuân, ta lại được ban bè con quan lại An - Nam tặng những cành đào tuyệt đẹp. Nhưng lần đầu tiên ta mới được nhìn thấy cả một cây đào. Mà một cây đào mọc ở một nơi như thế nào chứ? Chao, đến Vec-len[3][3] Paul Verlaine, thi sĩ lãng mạn Pháp thế kỷ XIX. cũng không có được một tứ thơ như vậy!
Hai bàn tay trắng trẻo như những cánh hoa hồng bạch của thiếu nữ châu Âu chắp lại, vặn vẹo theo nhún nhảy cả thân hình kiều diễm trước cây đào non nớt được mọc lên một cách kỳ lạ. Mac-gơ-rit xuýt xoa. Đôi mắt xanh lơ ngời lên niềm vui sướng, vừa ngây thơ, vừa có gì hoang dã. Cô đã từng biết tời bầu trời xứ Náp-lơ, những đỉnh tuyết vùng Ban-căng, và bây giờ là vùng sơn cước bí hiểm của Đông Nam Á… Chợt thấy một người áo tù gầy gò, xanh xao ngồi bệt ở góc tường đang nhìn mình, Mac-gơ-rit sợ hãi rú lên, nép người vào tên tuần phủ. Khuôn mặt choắt của lão dê già nhăn lại:
- Tiểu thư kính mến, sao vậy? - Hắn nhìn theo tay chỉ của Mac-gơ-rit - À, đây là tên “Thống sứ đỏ” bị nhốt biệt lập bởi vi trùng Kốc và bởi những tư tưởng nguy hiểm đang đục rỗng con người hắn.
- Phải, cha ta đã nói trước rồi, thế mà ta vẫn cứ nghĩ là ma hiện hình. Này, mi là ai?
Câu hỏi trẻ con mang vẻ trịch thượng rơi tõm vào im lặng. Cầm Ngọc Phương sấn đến, giọng sừng sộ:
- Đây là con gái yêu của quan giám binh. Ít nhất mi cũng phải biết kính trọng phụ nữ Tây Âu đã hạ cố đến thăm mi chứ! Đứng dậy!
“Bóng ma” lên tiếng:
- “An nha”! (một cách gọi chúa đất Thái) Đề nghị ông đừng làm ầm ĩ lên như vậy, điều đó không phù hợp với ông đâu, nhất là khi đi bên một người đẹp như thế này.
Mac-gơ-rit reo lên - bản năng hồn hậu của người thiếu nữ trong cô ta chưa bị thói hợm hĩnh ngu xuẩn giết chết:
- A, hắn đã cất tiếng nói rồi! Mà không phải tay vừa đâu nhé. Ông tuần phủ thế là thua một keo rồi nhé! Thôi, cảm ơn ông, ông có thể đi làm việc riêng của ông. Tôi muốn nói chuyện với tên tù này - Thấy Cầm Ngọc Phương chần chừ, Mac-gơ-rit hét lên:
- Ông đi đi, tôi không cần đến ông nữa!
Tên chúa đất hơi khom lưng xuống.
- Thưa tiểu thư, mong tiểu thư xin nhớ lời căn dặn của quan giám binh…
Mac-gơ-rit giẫm chân bành bạch:
- Thôi đi, ta đã có quá nhiều gia sư và bảo mẫu rồi. Ta cần được tự do!
Cầm Ngọc Phương đành quay trở ra, không quên chỉ tay dọa người tù:
- Liệu hồn đấy, mi mà xúc phạm đến tiểu thư thì sẽ mất xác!
Vừa khuất bóng tên tuần phủ, Mac-gơ-rit đã nói bằng giọng mềm mại, trong vắt:
- Ông nói và nghe được tiếng Pháp chứ? - Người tù gật đầu miễn cưỡng - Xin lỗi ông vì sự khiếm nhã vừa rồi của tôi. Xin được hỏi ông: Cây đào này là do ông trồng?
- Vâng, do chúng tôi trồng, bằng chính hạt của nó. Để giải trí thôi mà!
- Tôi rất vui sướng được chiêm ngưỡng cây đào này của ông. Chắc là ông muốn tên tuổi lưu truyền hậu thế bằng cây đào này?
Tô Hiệu lắc đầu,
- Không phải. Xin lỗi, cô đã tỏ ra thông minh không đúng chỗ. Chúng tôi làm điều đó chỉ vì nó cần và có thể mọc được ở nơi này.
Mac-gơ-rit nhún gót đi quanh cây đào, thản nhiên hỏi:
- Các ông sống ở đây thế nào?
- Cảm ơn, cũng tàm tạm đấy, nếu cái sàn xi-măng mà chúng tôi đang nằm được thay bằng nệm bông thì có lẽ tốt hơn, và nếu mùa đông lạnh lẽo đến, mỗi chúng tôi được một chiếc áo ấm thì cũng không đến nỗi nào. Dĩ nhiên là lòng tốt của những người gần gũi cô đối với chúng tôi - nếu như quả là có thì cũng chỉ là ít ỏi, thông thường đó chỉ là sự mua chuộc giả dối và đê tiện. Chúng tôi trong phần lớn trường hợp thường chỉ trông vào bản thân mình.
- Thế cây đào của ông cũng là một trong những trường hợp đó?
- À, cái này thì… không đơn giản chỉ như vậy.
- Tôi hỏi thế này xin ông tha lỗi: liệu những công việc mà ông làm sẽ được đồng bào của ông đánh giá thế nào? Ví như cây đào này chẳng hạn?
- Thú thực là tôi chưa hề nghĩ đến điều này
- Các ông tin rằng, các ông sẽ chiến thắng?
Tô Hiệu nhìn về phía cây đào. Anh mỉm cười và nghiêng mình tỏ vẻ lịch sự:
- Cây đào này có thể có sức thuyết phục hơn những lời nói của tôi, thưa tiểu thư.
Mac-gơ-rit lắc đầu, vẻ hoài nghi và ái ngại:
- Nhưng liệu ông có sống nổi đến lúc ấy không?
- Điều đó đối với chúng tôi lại không thành vấn đề. Con cháu chúng tôi sẽ đến thăm cây đào trong một cảnh ngộ hoàn toàn khác chúng tôi hiện giờ. Chắc chắn vậy.
- Xin lỗi ông, ông đã lập gia đình hay chưa? Ông có thể cho biết bà ấy làm gì, nếu ông vui lòng?
Tô Hiệu đã cảm thấy chối trong cuộc đối thoại chẳng đâu vào đâu này; vả lại anh cũng đã thấm mệt. Nhưng cứ thử xem con bé tinh quái này tuân lệnh bố nó, hoặc công sứ, chúa ngục, sẽ giở những trò gì đây? Anh đã được nghe một người lính khố xanh kể qua về đứa con gái này của viên thượng cấp “Trại gác bản xứ”. Những điều anh nói liệu có lọt tai một đứa con gái đang sống trong sự xa hoa phè phỡn trên mồ hôi xương máu của đồng bào anh? Một cảm giác hầu như ghê tởm dâng lên làm anh nghẹt thở. Những ý nghĩ của anh chợt bùng ra:
- Cảm ơn cô đã hỏi về chuyện riêng tư của tôi. Đây này, nếu tôi có vợ, thì người vợ của tôi sẽ là… một trong rất nhiều người phụ nữ đau khổ vì những chính sách thực dân tàn bạo, phải đứng dậy chống bọn xâm lược Pháp. Trong số kẻ thù không đội trời chung của chúng tôi, có ông bố tốt bụng của cô đấy!
Tô Hiệu ôm ngực ho. Tuần phủ và “sếp” ngục bước tới, chúng đã nghe được những lời vừa rồi.
- Thưa quan “sếp” ngục, quả là không phải là tôi đặt điều đấy nhé!
Ga-bô-ri vung roi gân bò quật người tù và rống lên:
- Này, đây là ngục Sơn La này! Đồ khốn kiếp!
Mac-gơ-rit ôm mặt, kêu lên:
- Thế này là thế nào? Người tù này đang bệnh tật, ốm yếu. Ga-bô-ri, yêu cầu ông không được đụng đến người ta. Tôi không hề bị xúc phạm, ông nghe rõ chứ!
Ga-bô-ri vẫn không ngừng quật roi túi bụi, trút hận thù đã tích tụ từ lâu của hắn xuống thân hình tơi tả của người tù. Tô Hiệu ngã dúi xuống, lại gượng đứng lên, rồi anh không đủ sức đứng lên được nữa, chỉ ôm ngực quằn quại.
Ga-bô-ri vừa đánh vừa nói:
- Cần cho chúng những bài học đích đáng, thưa tiểu thư.
Mac-gơ-rit chạy đến giằng roi từ tay tên chúa ngục đang say máu.
- Tôi phản đối! Tôi sẽ kể lại hành vi tàm bạo, bỉ ổi này của ông trên báo chí Hà Nội.
Tên đao phủ nhe cả hàm răng cải mả ra cười khi có một người “phái đẹp” định tô điểm thêm cho cái sức lực trâu bò của hắn.
- Ấy, thưa tiểu thư kính mến, tiểu thư quá nóng nảy rồi. Không sao, lúc tiểu thư tỏ cơn giận dữ thì càng đẹp mê hồn…
Mac-gơ-rit vênh mặt lên:
- Ông đừng giở giọng dân hạ lưu xứ Cooc-xơ ra với tôi. Mời ông đi ra khỏi đây! Tôi sẽ kể lại chuyện này với ngài công sứ.
Không hiểu do quyền lực của người đẹp hay do uy phong của công sứ, tên chúa ngục khét tiếng hung bạo trở nên khúm núm, nhã nhặn.
- Xin vâng lệnh tiểu thư. Cũng mong tiểu thư sớm ra khỏi đây ngay - Hắn giơ roi về phía người tù - Cấm mày không được nói chuyện với tiểu thư ! Liệu cái thân xác mày!
Hắn khệnh khạng bước đi, không quên quật roi túi bụi vào cây đào. Cành lá rụng tơi tả. Mac-gơ-rit giơ cả hai tay ôm lấy mặt.
- Trời ơi! Tàn bạo! Tàn bạo khủng khiếp. Tôi không sao chịu đựng nổi.
Cầm Ngọc Phương hốt hoảng:
- Chết, mong tiểu thư bình tâm lại. Xin mời tiểu thư đi ra ngay cho.
Mac-gơ-rit nhìn tên quan bản xứ từ đầu đến chân, vẻ khinh miệt ra mặt:
- Các ông là những con thú chứ không phải là con người. Tại sao Thượng đế chưa trừng phạt những con quỷ Sa- tăng trong con người các ông!
Lời của Tô Hiệu bỗng nhẹ nhàng cất lên từ một góc chân tường đá:
- Thưa cô, chúng tôi rất thông cảm với cô, không oán trách gì cô cả. Nhưng… cô đã sang đây theo chân những tên lính viễn chinh xâu xé một đất nước bé nhỏ đáng thương. Và những hành động tàn bạo của chúng cũng đang bảo vệ cho sự an toàn của cô trên mảnh đất này đấy thôi!

 ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀





Hiện giờ, cây đào này được gọi là "Cây đào Tô Hiệu", ở ngay sát phòng giam ông Tô Hiệu, nằm trong di tích lịch sử Nhà tù Sơn La - là nơi đang hàng ngày thu hút nhiều đoàn khách các lứa tuổi của nhiều địa phương toàn quốc tới tham quan, nghiên cứu. Đã có nhiều người viết về cây đào này (kể cả người nước ngoài ), và tất cả đều cố gắng tìm hiểu lai lịch thật sự của nó. Song việc gắn nó với ông Tô Hiệu- trong hầu hết các trường hợp chỉ thuần túy mang ý nghĩa biểu tượng, thậm chí, có những cựu tù nhân chính trị ở Sơn La đã phủ nhận sự tồn tại của cây đào có từ trước Cách mạng, hoặc khẳng định rằng: nó không phải là do ông Tô Hiệu trồng! Vậy sự thật ở đâu? Tác giả thiên truyện lịch sử này, sau nhiều tìm hiểu, cân nhắc, qua nhiều nguồn tư liệu điền dã- đặc biệt là qua một người số người từng là cai, đội, quản cũ của trại lính khố xanh có cảm tình với tù chính trị (nhất là phó quản Mười- sau là nhà thơ, nhà giáo Lò Văn Mười sống ở Thuận Châu), đã đi đến một phương án lý giải khá chắc chắn: cây đào này đích thực là do ông Tô Hiệu trồng. Tuy nhiên, sự thực cuối cùng vẫn đang còn chờ đợi các nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử...


     (Tiếp theo và hết)
Như bị một cái tát bất ngờ, Mác-gơ-rít quay phắt lại nhìn trừng trừng, chỉ một lát sau mới nói được như trong mê sảng:
- Trời, sao ông lại nói những lời nhẫn tâm như vậy?
Tô Hiệu chua chát:
- Có gì lạ, họ còn nói chúng tôi là khát máu, là cuồng tín, là những kẻ không gia đình, không quê hương, không Tổ quốc nữa kia!
Mác-gơ-rít chợt nhớ lại không sót một lời của bố trước khi cô vào đây: “Đó là một chốn nguy hiểm, đáng lẽ con không được bén mảng đến…Nhưng con đã nhất quyết thì ta đành nhượng bộ. Con phải cảnh giác nếu gặp một tên Cộng sản bị lao nặng, hắn đã từng làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Thực ra, con cần biết hắn làm gì, khi qua ngón tay xinh đẹp của con, lật trang sách, sẽ hiện lên chân dung thật sự của hắn - “Mặt nạ Cộng sản”? (đó là tên cuốn sách của một tác giả Pháp được lưu hành rộng rãi trước Cách mạng).
Lập tức, như một phản xạ, Mac-gơ-rit gay gắt hỏi:
- Ông muốn gì ở tôi?
Người đáng được thương hại bây giờ chính là cô gái kiều diễm kia chứ không phải là anh. Tô Hiệu hiểu rõ điều đó, giọng của anh không còn lạnh lùng như vừa nãy:
- Đừng sợ cô gái ạ. Tôi chỉ muốn nói lên một vài sự thật giúp cô và những người lương thiện ở nước cô hiểu rõ hơn về đất nước chúng tôi. Còn cô là một người biết thương xót cho một cành đào vô tội, chắc sẽ biết thương xót và muốn bảo vệ cho một đất nước nhỏ bé đang bị bọn xâm lược đọa đày.
Tên tuần phủ không còn giữ được bình tĩnh vốn có của hắn nữa:
- Câm ngay, thằng tù ruỗng phổi! Mày lảm nhảm những gì vậy?... Thưa tiểu thư, nó là một thằng bị lao nặng, rồi biến chứng thành mất trí đấy. Tiểu thư không nên nán lại ở đây phút nào nữa!
Nhưng Mac-gơ-rit không nghe thấy một lời nào của tên tuần phủ. Cô sống trong một nỗi hốt hoảng chưa từng thấy. Lần đầu tiên trong đời cô được nghe những lời như vậy. Người tù và cây đào bồng trở nên thật xa lạ, thật khó hiểu đối với tri giác và suy nghĩ thông thường của cô. Như mọi khi, cô sẽ thấy rằng những lời lẽ của người tù là điên rồ, là láo xược mà cô có thể “hạ cố” lắng nghe để thỏa mãn lòng hiếu kỳ. Nhưng có một sức mạnh gì đó toát ra từ những lời nói bằng thứ tiếng Pháp còn ngượng nghịu của người tù ốm yếu kia buộc cô phải khuất phục một cách vô ý thức. Trong cuộc sống đầy sự thỏa mãn, chán ngấy lên vì sự thỏa mãn, thêm một lần Mac-gơ-rit cảm thấy một sự khao khát trong sạch mơ hồ mà tuổi thiếu nữ của cô ít khi được biết đến. Cô nói với người tù, giọng run run:
- Xin lỗi ông, tôi thấy sợ. Sao ông lại nỡ nói những lời đầu độc tâm hồn tôi đến như vậy?
Nói rồi cô quay lưng và đi như chạy ra khỏi nhà tù, Cầm ngọc Phương theo sát gót.
Tô Hiệu sau một phút đứng lặng, tới bên cây đào, nhặt lên một cành đào gãy và cúi đầu trầm ngâm. Thêm mấy chiếc lá rụng về cội nguồn…
Hồi còn đi học ở làng, sau ra thị xã Hải Dương học trường tiểu học Pháp - Việt, nhất là hồi phải ra Hà Nội học trường tư vì bị cố tình đánh trượt tiểu học, Tô Hiệu đã ngấm ngầm nuôi một lòng thù địch đối với tất cả bọn con Tây và con nhà giàu. Cuộc sống là lượt, cùng những kiểu cách lố bịch và thái độ hống hách nhìn đời bằng nửa con mắt của chúng đã in hằn trong trí nhớ sôi bỏng của Tô Hiệu một mối khinh bỉ, căm ghét tột độ. Nhưng cái cô “đầm” non mặt bự phấn kia đã vô tình gợi lại trong anh một cái gì gần như là vết thương lòng. Vết thương anh tưởng đã chôn sâu mãi mãi trong dĩ vãng… Dạo đó bà mẹ có hỏi cho anh một người cùng làng nhưng buôn bán tận Hải Phòng. Bà cụ đã mang trầu cau đi hỏi. Người con gái ấy phục Tô Hiệu rồi đến chỗ yêu anh. Nhưng Tô Hiệu đã cam lòng viết một bức thư khước hôn. Về sau anh có tâm sự với một số đồng chí thân thiết về nội dung bức thư ấy. Đại khái là anh trình bày rõ hoàn cảnh bệnh tật của anh, rồi những trắc trở khác nữa mà hai người khó có thể khắc phục được. Lý do trên là chủ yếu. Song, Tô Hiệu chẳng dễ quên người con gái đáng lẽ trở thành vợ anh - chị cũng là một cơ sở cách mạng tích cực. Những năm Tô Hiệu được phụ trách miền Duyên Hải và trực tiếp làm bí thư Thành ủy Hải Phòng, do những yêu cầu công tác và để đảm bảo bí mật, hai người gần như không gặp mặt nhau lần nào. Tin Tô Hiệu bị sa vào lưới địch, bị tra tấn dã man chắc các anh đã báo cho chị hay. Biền biệt từ đó đến nay đã bốn năm ròng. Không một địa chỉ, không một dòng tin tức về nhau. Kí ức về người con gái ấy, thường chỉ thoáng qua trong tâm trí Tô Hiệu, nhưng đọng lại nhiều dư âm khó tả….

Nơi từng giam giữ Tô Hiệu!

Tô Hiệu nhìn ra bên ngoài cổng lớn nhà tù. Mây và nắng bao phủ trên những dải núi điệp trùng. Anh yêu những buổi sớm, buổi chiều sương rừng buông dày đặc. Anh thường thả tâm hồn theo tiếng nhị réo rắt của người con trai dân tộc trên đường đến vơí người yêu trong những đêm trăng vọng từ phía Chiềng Lề. Vẻ đẹp nới xứ sở của thung lung không chỉ một lần khiến anh mải mê. Hồi còn là học sinh tiểu học, anh có đọc một cuốn tiểu thuyết nói về miền thượng du rùng rợn và những người sơn nữ bí ấn…Thế mà giờ đây anh lại đang sống giữa vùng đất này - dĩ nhiên là trong một hoàn cảnh đặc biệt. Tô Hiệu bất giác mỉm cười. Không, ngay cả lúc đi bộ trên con đường mang tên một công sứ Pháp[4][4] Xanh Pu-lôp tự lấy tên mình đặt cho con đường Quốc lộ 6 hồi làm Công sứ ở Sơn La. ngổn ngang đá rải cấp phối, tay bị xích chuỗi cùng đoàn tù mệt mỏi bơ phờ, Tô Hiệu cũng không hề cảm thấy cái điều thường gặp trên sách báo công khai viết về miền ngược. Hầu hết bạn tù cùng tâm trạng như anh. Miền Tây hùng vĩ ùa ngập vào những tâm hồn khoáng đạt quen vẫy vùng giữa thử thách gian nguy. Chốn tù đày đâu có mất đi cảnh sao Hôm sao Mai long lanh đính trên nên trời thung lung. “Sao Hôm”, “Sao Mai” lại biến thành biệt danh do những người tù số vuông4 đặt cho hai cô gái Thái. Những người dân nghèo khổ áo chàm có tâm hồn bình dị, chất phác tìm thấy ở những người “tù áo sạch” một sự cảm thông và trìu mến lạ kỳ. Và bất cứ người tù số vuông nào khi bị chuyển đi nới khác cũng đều có thể thốt lên câu thơ của bạn tù thi sĩ: “Ta đi ta nhớ Sơn La”… Mỗi lần anh em hết buổi làm lao dịch về rẽ qua thăm Tô Hiệu, anh đều rủ rỉ hỏi han về tình hình bên ngoài. Giá gạo hôm nay bao nhiêu? Những người buôn bán chuyến ở phố Chiềng Lề có mang những tin tức gì mới nhất ở xuôi lên? Cô Sao Mai có còn giận dỗi người yêu- anh chàng lính khố xanh của cô ta nữa hay không?… Rồi sự nóng lòng lớn nhất của Tô Hiệu mà các bạn tù dễ thấy khi nhìn vào con mắt dò hỏi chờ đợi của anh: Đã bắt được liên lạc với Trung ương? Muôn vàn sợi dây vô hình gắn bó Tô Hiệu với cuộc đời bên ngoài. Trong khi đó, cây đào cứ dần dần lớn lên…

*
*   *

Đêm tối như bưng.
Trời đã sang xuân từ lâu, nhưng đêm đến miền Tây Bắc còn rất lạnh. Trong gian tù hình lăng tam giác có bốn người ngồi xổm bó gối trên sàn xi-măng được rải một manh chiếu - nơi Tô Hiệu đang nằm. Lại một đêm nữa, những người tù số vuông đến bên nâng giấc cho Tô Hiệu. Không biết anh có qua khỏi đêm nay? Giá có thể đem được sự sống bản thân đổi lấy tính mệnh của Tô Hiệu đang bị cướp đi từng phút, từng giờ! Họ nhìn mãi vào trong đêm tối, như muốn xóa tan cái bóng đen đang đè nặng lên hơi thở nhọc nhằn của bạn tù.
Tô Hiệu từ từ mở mắt. Anh hơi ngóc cổ lên:
- Ờ, ờ các anh… sao đến đông thế này? Không nể cái thằng Kốc trong ngực tôi đang hành quân ra từng binh đoàn à?... Tôi đã chết đâu mà như đưa đám cả lượt thế… Buộc tôi phải tuân theo nghị quyết chi bộ… mà chính các anh lại vi phạm nghị quyết thế là không được đâu nhé! Bất công!
- Không ai nỡ bất công với cậu đâu, Tô ạ. Chúng mình đang cùng nhau đạp đổ mọi áp bức bất công kia mà!
Tô Hiệu cố gắng vượt ngồi dậy gạt mấy cánh tay định đỡ anh.
- Để tôi tự ngồi lấy xem nào… Nói thật với các anh, tôi biết là tôi không còn sống được bao lâu nữa. Chỉ ngày một ngày hai… Các anh chịu khó trông nom cây đào nhé!
- Bậy nào, Tô, đừng có nghĩ linh tinh!
- Cậu có định chết thì cố gắng đợi đến ngày mùng Tám tháng Ba hãy chết nhé, để chị em còn tưởng nhớ đến cậu.
Tô Hiệu lắc đầu:
- Không, tôi tính từng ngày như thế để phân phối thời gian cho bản kinh nghiệm dân vận ở vùng dân tộc ít người…Viết gần xong rồi, nó lộn xộn lắm…Nhờ các anh bổ sung sắp xếp cho hoàn chỉnh…Còn bây giờ, thời gian còn lại, tôi muốn viết một bức thư cho u tôi… U tôi già yếu và đang mong tôi lắm…Nhất định phải an ủi bà cụ….
Mọi người im lặng, có người quay mặt đi.
- Anh Tô, em sẽ giúp anh viết.
- Không, tôi còn tự viết được… Tôi muốn u tôi nhìn thấy nét chữ cuối cùng của tôi… bà cụ thương tôi lắm….
- Tô, cậu nằm xuống đi cho đỡ mệt. Rồi lát nữa viết thư.
Tô Hiệu đã nằm xuống bỗng ngượng nhổm dậy, cố lấy hết sức tàn để nói:
- Các cậu phải tuyệt đối cẩn thận nhớ! Lúc này… chúng mà đánh hơi thấy mình rục rịch chuẩn bị cho… khởi nghĩa vũ trang ngoài kia… Chúng sẽ lập tòa án quân sự “tiêu” mình đi ngay…
- Yên chí, tay phó quản biết lính cho tù mượn súng tập quân sự nhưng cũng làm ngơ đi. Bọn này đã vận động anh ta rồi mà. Buồn cười, lính bản xứ nhà ta lại thích cho anh em mình mượn súng chứ, vừa không bị mất súng, lại vừa sạch sẽ, bớt được cái khoản lai chùi vất vả! Chiều nay, lúc hết giờ làm việc, đợi mãi không thấy mấy “ngài” canh gác đến lấy súng, hóa ra là các ngài đánh một trận thẳng cẳng ở góc đồi, bọn này phải đến lay dậy để cùng về. Vui thật!

Tô Hiệu muốn nói nhưng không thể nói được nữa. Một con quái vật đang cấu xé lồng ngực anh. Nhưng toàn bộ con người anh lúc này đã tập trung vào một điểm chói sáng ở đâu đó trong tâm hồn. Tô Hiệu âu yếm nhìn những người bạn tù thân thiết quá chừng đối với anh. Họ đã sống cùng anh qua những trận sốt rét rừng, những buổi sương mù, những bữa cơm nếp mỡ lợn ghê người, những công việc khổ sai, những lần tuyệt thực, làm reo (grève - một hình thức đấu tranh gần như bãi công, đình công) đòi quyền lợi của tù chính trị… Trong bóng đêm, chỉ cần anh đưa bàn tay ra là gặp những bàn tay xương xẩu của bạn tù riết chặt mãi không rời, truyền cho anh một nghị lực sống mới mẻ. Nhưng đêm nay, Tô Hiệu đã thấy mình khó thở ghê gớm. Anh cố vận dụng những tàn lực cuối cùng để khỏi sai lệch trong cảm giác, để quên đi chút ít sự đau đớn giày vò của cơ thể. Tuy vậy, anh lại thấy mình tỉnh táo lạ thường. Anh biết rõ, đối với anh, đấy là dấu hiệu của sự tận cùng… Thỉnh thoảng lại có tiếng hỏi: “Tô, cậu thấy bây giờ thế nào?” Hay: “Uống nước không?”... Anh chỉ trả lời bằng cái nắm tay vụng về lạnh buốt. Cuộc sống sao cần thiết và đáng yêu! Bóng đêm ghê rợn, sàn xi-măng rắn lạnh, cái nhà tù nặng nề, cả cái chết đang đến với anh, chẳng có nghĩa lý gì hết! Tâm trí sáng láng của Tô Hiệu trong những giây phút đó đưa anh trở về nơi chôn rau cắt rốn - cái làng Xuân Cầu bé nhỏ mà anh xa đã bao năm nay. Ít khi Tô Hiệu có dịp hồi tưởng về quê hương nhiều và da diết như bây giờ. Cái làng có nhiều người phiêu bạt tứ xứ để buôn bán, làm thuê, đi phu. Cái làng phụ nữ nổi tiếng về nhuộm thâm bằng lá bàng và buôn bán giỏi, có đặc sản là thứ bánh mỡ không đâu có. Hồi Mặt trân Dân chủ hoạt động ở Hà Nội, chủ nhật Tô Hiệu hay đạp xe về Xuân Cầu, đánh chim choi choi, bắt chuột đồng, và khi ra không quên đem theo một bọc tướng bánh mỡ cho anh em cùng ăn. Thấy ở trong làng có nhiều em đến tuổi đi học mà không có đủ trường lớp, Tô Hiệu nhân một dịp về thăm quê đã vận động bà con cho tre nứa và góp sức xây dựng trường học. Chỉ trong vài ngày, những lớp học mới đã được dựng lên: chính anh cũng là người chôn cây cột đầu tiên cho đến lúc buộc những nút lạt cuối cùng. Nhà Tô Hiệu mùa nước lụt, nước tràn vào đến nửa vách - sân nhà trở thành một nơi bơi lội thú vị cho bọn trẻ trong làng. Dạo còn học ở trường làng, Tô Hiệu cùng một số học trò tai quái lập nhóm chuyên đi bẻ trộm roi - trong đó có một cây roi lớn sai quả ở trước nhà Tô Hiệu, rồi làm vè chế giễu chánh tổng, kỳ hào. Một lần nhân có người cố nông chết trong làng, nhóm học trò ấy vẽ một cái xác trương phềnh - trên đó là chánh tổng, lý trưởng ngồi ăn uống no say, rồi đem treo ở cổng làng… Những đứa trẻ tinh nghịch đó lớn lên đều đi thoát ly hoạt động cách mạng. Tô Hiệu không thể quên được những gì đã đến với tuổi trẻ nồng nhiệt của anh trong những năm còn là học sinh tiểu học thị xã Hải Dương. Dường như còn vẹn nguyên niềm rạo rực của những người thanh thiếu niên yêu nước buổi truyền tay nhau tờ sớ “Thất điều trần” (Bài văn gồm bảy điều kết tội Khải Định do cụ Phan Chu Trinh viết năm 1922 tại Pháp, nhân dịp Khải Định sang Pháp dự đấu xảo), lúc dự các lễ tang cụ Phan Châu Trinh, cụ Lương Văn Can và đòi thả cụ Phan Bội Châu. Như còn hiển hiện Nam Kỳ chói nắng và Sài Gòn sôi động thời bỡ ngỡ theo anh Tô Chấn vào hoạt động Việt Nam Quốc dân đảng. Rồi ngục tù Côn Đảo. Rồi những năm hoạt động ở Hà Nội và Hải Phòng. Những xóm thợ nghèo anh đã sống... Những tiếng ồn ào, náo nhiệt, những tấm lưng trần bốc vác… Những lần cơ sở bị phá vỡ, lại chắp nối, gây dựng… Và hình ảnh người mẹ hiền từ, nghiêm nghị khắc khổ đã hiện trong tâm trí anh tự lúc nào. Hình như kí ức về người mẹ là nơi quy tụ của mọi ý nghĩ, mọi gian lao vất vả, mọi thể nghiệm, cũng như mọi nỗi buồn vui trong đời một người con. Tô Hiệu bùi ngùi nhớ mẹ… Bao nỗi đắng cay, tủi nhục đã rơi trên mái đầu bạc trắng của bà. Bà là con gái cụ Tán Ngô - cánh tay phải của người anh hùng Bãi Sậy Tán Thuật năm xưa, người đã bị thực dân Pháp kết án khổ sai chung thân và đày đi Côn Đảo vì “tội” yêu nước. Tô Chấn, người con thứ hai của bà cũng bị đày đi Côn Đảo. Tô Chấn tìm cách vượt biển nhưng bè bị đắm… Bu ơi, chắc bu vẫn chờ tin anh Chấn và đếm từng ngày mong con trở về. Có lẽ giờ bu vẫn chưa biết tin gì về anh Chấn. Anh Chấn còn đâu nữa hở bu! Thằng con út ít của bu cũng sắp vĩnh biệt bu ở một góc rừng xa. Chắc bu đang mỏi mắt trông tin những đứa con đi biệt xứ. Con không sao về được nữa rồi để phụng dưỡng thân mẫu lúc tuổi già…

Trên bàn thờ, bu sẽ lại khấn thờ cho cha con và hai anh em con. Chắc bu sẽ ân hận nhiều vì không được vuốt mắt cho con, không được nge lời dối giăng của con chứ gì. Thằng còn út-ít-khụt-khịt cả ngày của bu đang nằm đây, bu ơi! Con hẹn bu sau năm năm sẽ trở về với bu, theo bản án của chúng nó quàng lên cổ một thằng bệnh tật như con. Nhưng làm sao được hả bu?... Dù sao, con cũng mong có ngày trở về gục đầu vào dải yếm bạc phếch của bu, ăn bát canh riêu của bu nấu riêng cho thằng Tô-gầy-còm ăn.

Tô Hiệu chìm trong những kỷ niệm lắng sâu về người mẹ chưa một lần được anh nâng giấc lúc ốm đau... Hồi Tô Hiệu được thả ra khỏi Côn Đảo, anh đã mắc bệnh lao. Trở về làng, anh giấu kín mẹ về bệnh tình. Bà mẹ không hiểu vì sao cứ đến bữa, Tô Hiệu lại ăn bát riêng, dừng hai đôi đũa. Bà thắc mắc và lắm lúc tủi thân. Bà nhiều lần thúc Tô Hiệu lấy vợ, nhưng anh chỉ trả lời bà bằng những câu đùa ý vị, dí dỏm - thói quen từ khi anh còn nhỏ. Rồi bà cũng chẳng thành công trong việc “mối mai” cho đứa con trai út... Những trưa hè nắng như rang như thiêu, một người mẹ già lọm khọm với cái giỏ bên hông bắt cua cáy ở những thửa ruộng chiêm ngập nước. Mắt anh hoa lên những vòng quáng nắng. Cái chõng tre đã lung lay. Cái phiên nhà đã mọt. Cái chổi cùn trong xó bếp lạnh tạnh… Đất nước nghèo trong bùn lầy, vách nát, buồn trong từng câu ca, trong mỗi cái nhìn và mỗi đường gân trên bàn tay răn deo của người mẹ già. Tô Hiệu thấy sống mũi cay cay… Thôi đừng buồn và thương con nhiều nữa bu ạ. Các đồng chí của con sẽ làm nốt phần việc con bỏ dở. Những gì chúng con đã nuôi dưỡng và phấn đấu không thể nào chết được, cũng không kẻ nào vùi dập được… Tô Hiệu bồi hồi và lưu luyến nhìn khắp căn buồng đã chứng kiến những trận ho dữ dội bật máu tươi của anh, những đêm chống chọi với giá lạnh sương muối và cái chết rình mò. Kia là cái cọc sắt gần cổng trại lớn - địch đã bêu đầu một đồng chí ta vượt ngục. Kia là nơi dựng bàn bán “căng-tin” ngày Tết của tù số vuông. Kia là nơi ra báo bí mật “Suối Reo”. Kia là nhà bếp mà ra đã tranh giành được quyền tự xử dụng. Kia là nơi cậu Mạnh đã ngã xuống và để rơi một quả đào ăn dở…Và đây, cây đào của anh, cây đào đã lớn lên giữa bao hằn thù và bao tình đùm bọc. Lòng anh chợt dào lên một tình thương tấm thía, xót xa. Cái hoàn cảnh nó sinh ra và lớn lên thật quá khắc nghiệt! Số phận của nó thật đầy ngẫu nhiên và bất trắc! Nhiều khi chính anh cũng không hiểu vì sao cây đào lại có thể sống được. Trong những ngày anh em tù số vuông bị cuốn vào những cuộc đấu tranh sinh tử, mà anh thì nằm bẹp trên sàn xi-măng, có ai nhòm ngó đến cây đào! Hồi những người tù tuyệt thực bị nhốt dưới hầm ngầm, anh đã dành toàn bộ những giọt nước tiếp tế hiếm hoi cho những bạn tù đang ngắc ngoải - qua một lỗ thông hơi bí mật ở mép đường “cu-loa”. Còn cây đào, lúc đó mới chưa đầy một gang tay, đã không bị héo khô đi cùng với chủ của nó trong cái nắng gắt của tháng Năm, vì may thay, dưới chân tường đá hộc vẫn còn chất ẩm…

Có những đêm hè trời đầy sao và ngập tiếng côn trùng, anh lê ra ngồi bên gốc cây đào nhỏ, cùng nó uống cho thỏa cái vị ngọt lành lạnh của sương đêm. Trong những ngày mùa đông, nhìn cây đào non nớt trụi lá khẳng khiu có một vẻ gì như thách thức nghịch ngợm, Tô Hiệu thường cảm thấy lòng mình chợt ấm áp. Sang xuân, cây đào vào tuổi mới lớn trở nên e ấp, những giọt sương mai đọng trên lá non dịu dàng của nó vẫn làm anh thoáng ngẩn ngơ. Và có những lúc nhìn thân cây bé nhỏ cố vươn lên, bất chấp những rủi may, lòng anh từng se lại vì thương cảm. Đúng là anh đã gieo hạt, thầm mong từng ngày nó nảy mầm, nhưng khi nó thành hình thì chính anh cũng không hiểu mình nên buồn hay nên vui… Tạo ra một sự sống đã khó, nhưng bảo vệ sự sống ấy còn khó hơn nhiều. Và cũng khó chẳng kém việc phải chịu đựng thon thót từng ngày, từng giờ cái ý nghĩ: sự sống ta tạo ra đó sẽ bị hủy diệt không biết lúc nào, còn ta thì sẽ bất lực đến đau đớn! Hàng ngày cây đào vẫn sống bên anh, ít khi anh nghĩ đến sự tồn tại của nó. Nhưng lúc này, anh nghĩ tới cây đào với toàn bộ cảm giác của da thịt và trí não, với toàn bộ tiềm thức. Hơn lúc nào hết anh đang sống với cây đào bằng tất cả nỗi đau của sự sinh thành và li biệt. Cây đào này sẽ là cái nhịp nối giữa cõi chết vĩnh hằng với sự sống lớn lao mà anh mắc nợ; là một hiện hữu vật chất không tầm thường mà dù muốn hay không anh đã để lại cho đời…

Chợt một giấc mơ lạ lùng đến với anh: có nhiều người cầm dao dựa, dao quắm đang mím môi mím lợi giang tay chặt cây đào của anh! Một dòng máu tươi vọt ra cùng tiếng rên rỉ thương tâm làm anh lạnh toát người. Anh thét to lên một tiếng, chạy lại gần, thì thấy trong số những kẻ đó, bên cạnh tên công sứ Cút-xô, tên chúa ngục Ga-bô-ri, tên cai khố xanh, lạ chưa, có cả một vài người đồng chí thân yêu của anh!... Thật đau lòng hơn gấp nhiều lần việc cây đào bị chặt! Mồ hôi toát ra khắp người, Tô Hiệu nhắm mắt lại, lắc đầu liên tục, cố xua đi cái hình ảnh tưởng tượng ghê sợ đó, và cuối cùng ý chí tàn kiệt của anh cũng làm được điều ấy. Rồi, từ cây đào, anh lại miên man trong những cảm xúc và ý nghĩ về các bạn tù - điều đó bao giờ cũng làm cho lòng anh dịu lại… Đã từ lâu nay, binh lính, những người phục dịch và vợ con của bọn quan lớn, quan bé trên cái ngọn đồi “tử khí” này mệnh danh những người tù số vuông là “tù ông, tù cha”, họ tỏ thái độ khâm phục và kính nể không chút giấu diếm. Tính kỷ luật cao độ, sự tôn trọng nhân dân, thái độ bất khuất cương trực trước mọi kẻ quyền lực hống hách, lòng thương người và sự giúp đỡ mọi người vô điều kiện, những bộ quần áo tàng được giặt giũ sạch sẽ và vá víu cẩn thận[5][5] Đồng bào các dân tộc quanh thị xã Sơn La hồi ấy (và cho đến cả hôm nay) vẫn quen gọi tù chính trị của ngục Sơn La là “tù áo sạch" vì những bộ quần áo tù bao giờ cũng được vá víu tươm tất sạch sẽ và đặc biệt có thái độ rất hòa nhã, gần gũi, thông cảm sâu sắc với dân nghèo... , sự thông thạo và ngăn nắp trong mọi công việc lao động… tất cả những cái đó đã được truyền tụng trong dân chúng như những truyền thuyết đẹp đẽ nhất của họ, đã sưởi ấm và rọi sáng cho biết bao số phận u tối, bất hạnh…
Một-thị-xã-nhà-sàn heo hút chìm trong sương chiều. Những ngọn núi mờ lam chướng. Một chiếc thuyền độc mộc tã nát bên sông. Những ngọn lau xám phất phơ, hiu hắt. Những nóc sàn bạc phếch, đơn độc. Một cánh chim đại bàng lượn trên khoảng trời xanh hun hút của rừng đại ngàn. Một con đường đất đá lổn nhổn, nắng chang chang - con đường tù đày. Những công-voa tù xích chuỗi dài dằng dặc. Những lời ca cách mạng vang lên, giọng trầm khỏe, những bàn tay chắp lại giơ cao để cảm ơn và đáp từ lại những sự giúp đỡ, cùng những giọt lệ tiễn biệt của đồng bào đứng hai bên đường Quốc lộ miền thượng du… Những chiếc roi gân bò vụt xuống vun vút. Những khuôn mặt xạm đen kiên nghị và bất khuất ngẩng cao… Cứ mỗi lần hồi tưởng hay nghe những người mới bị đưa lên kể lại những cảnh đó, Tô Hiệu đều thấy rưng rưng một nỗi xúc động khôn tả… Ký ức vụt qua như một cuốn phim đen trắng đầy những hình ảnh tương phản đã kích thích mãnh liệt tâm trí Tô Hiệu. Anh thiếp đi, mê man, hơi thở vẫn không nhẹ hơn một chút nào.

*
*   *

Người bó gối, người dựa lưng vào tường. Không gian lặng lẽ. Chỉ còn tiếng thở khò khè của Tô Hiệu là âm thanh duy nhất của khu nhà ngục trong đêm... Chợt một người còn tỉnh ngủ lay ba người kia đang gật gù trong cơn buồn ngủ trĩu mắt.
- Các cậu! Các cậu ơi! Anh Tô… Anh Tô làm sao rồi!
Tất cả choàng dậy, cuống cuồng.
- Tô, Tô! Sao thế này hở Tô? Giời ơi!
Một người ghé sát miệng, mũi Tô Hiệu tìm cái hơi thở khò khè yếu ớt quen thuộc của anh. Một người vội vã làm hô hấp nhân tạo cho anh. Nhưng thân hình Tô Hiệu chỉ còn là một cái xác lạnh ngắt, lạnh như cái sàn xi-măng anh đang nằm duỗi thẳng trên đó. Trời đã sắp sáng.
- Hai cậu ra ngay chỗ gác-điêng, đề nghị được lên gặp “sếp” ngục và công sứ vào sáng hôm sau, yêu cầu họ cho một cái quan tài và những đồ khâm liệm cần thiết, còn tôi sẽ lo điếu văn bây giờ. Báo với họ là chúng ta sẽ cho mai táng ngay buổi sớm - người tù lớn tuổi nhất nói vội vã.
Hai người liền chạy vụt ra ngoài “cu-loa”, đến thẳng đồn canh. Hai người còn lại quỳ bên xác Tô Hiệu. Người tù trẻ - người đã từng một lần tạm biệt Tô Hiệu để tìm cách vượt ngục một mình đang nấc lên những tiếng xé lòng:
- Anh Tô - gày ơi! Sao vội đi thế, hở anh Tô - gày ơi!...
Chợt anh vùng dậy, đứng trên cái sàn xi-măng, đấm những nắm đấm vào mặt tường đá, báo hiệu các buồng và trại giam xung quanh. Người tù kia cũng đứng dậy làm theo, cả hai người vừa đấm vừa kêu lên những tiếng kêu lạc giọng trong sương mù: “Tô...ô…ô chế…t... rô…ồ…i…ì!” Sương mù buông đầy làm mờ ảo mọi cảnh vật, như làm nghẹn lại những tiếng kêu. Cả khu nhà tù bỗng ồn ào, náo động. Những tiếng đập cửa sắt thình thình. Những tiếng la hét khản giọng. Tiếng kẻng ngắn, kẻng dài, tiếng mõ ở tất cả các chòi canh đánh ngũ liên báo động. Những tiếng chân người chạy thình thịch. Bên trại lính khố xanh đã thổi kèn sắp-măng (lệnh tập hợp - Rassemblement).

Một cuộc nổi loạn phá nhà tù như năm 1909 chăng? (Cuộc khởi nghĩa phá nhà tù Sơn La của những người tù yêu nước do Cai Khạt - người Thái Than Uyên lãnh đạo nổ ra năm 1909). Hay có một cuộc đột nhập đánh cướp tù?
Chỉ sau mấy phút, tất cả những người trong khu nhà tù đều biết rõ sự việc. Trong số những người đứng chật cả một đoạn đường “cu-loa”, có mấy người tù thường phạm vào loại “anh chị” đã được Tô Hiệu cảm hóa. Cái chết đột ngột và bi đát của người tù đâu phải chuyện đặc biệt ở chốn được mệnh danh là “địa ngục dương gian” này! Nhưng cái chết của Tô Hiệu mà ai cũng có thể đoán được sẽ xảy ra bất cứ lúc nào khi ái ngại nhìn thân hình xơ xác tiều tụy của anh, lại gây một chấn động lớn trong tâm não mọi người. Những giọt nước mắt lã chã khôn cầm lăn trên những khuôn mặt hốc hác vì thiếu ăn, đói ngủ đang tê dại đi bởi đau đớn xót thương. Những tấm chăn mỏng do anh em tù góp lại cứu Tô Hiệu thoát khỏi mùa đông sương muối năm 43, giờ đang đắp trên cái thân hình gày guộc và cứng đờ của anh. Đám đông đứng ngoài cửa sắt buồng giam Tô Hiệu bỗng rẽ ra hai bên: Một chiếc quan tài sơn đen đã được đưa tới. Những người đại diện nhóm “trật tự ngoài” của Chi bộ đã xin phép cai ngục lên thẳng công sứ Cút-xô đòi tổ chức tang lễ Tô Hiệu. Lúc này, Cút-xô đã biết nể tù chính trị hơn trước. Thời thế đã thay đổi, y không còn dám hống hách huênh hoang như ngày xưa. Bây giờ Cút-xô thường tỏ ra “nhân đạo” với tù chính trị, lấy lòng anh em.
Chiếc quan tài được nâng lên, trôi chầm chậm ra phía cổng lớn. Vài người lính khố xanh bồng súng đứng nghiêm với vẻ mặt buồn rười rượi. Dòng người áo tù loang lổ chữ P.S (Prison de Sonla) chầm chậm bước đi. Hết khu đồi Khau Cả, lại sang một khu đồi khác…

Nơi đây, dưới những hàng phi lao thưa cằn và những gốc ổi hoang dại, bao thế hệ người yêu nước và chiến sỹ cách mạng đã yên nghỉ. Buổi sáng cuối xuân, sương mù đang dần tan hết. Mặt trời lên trên rừng phi lao, rọi những tia nắng mai qua muôn trùng lá nhọn, tạo nên những luồng ánh sáng thanh thoát. Một cái huyệt được đào khẩn trương. Chỉ có tiếng mai, thuổng thình thịch và tiếng chim hót trong trẻo đây, đó. Chiếc quan tài sơn đen được hạ huyệt. Lúc này, người tù trưởng "Ban trật tự ngoài” đã tới, tay cầm một mảnh giấy nhỏ lem luốc, ghi vội những dòng chữ nguệch ngoạch. Tất cả, không ai nói một lời tự động đứng quanh lỗ huyệt mới đào. Một giọng trầm vang đọc lời vĩnh biệt cất lên giữa đám đông lặng lẽ, giữa khung cảnh yên ắng xa vời của núi rừng… Những lời thống thiết từ đáy con tim mỗi người thốt lên. Đó là máu xương, là hơi thở, là mỗi cuộc đời đã sống. Là hình bóng Tổ Quốc hôm nay và ngày mai. Là giọt lệ của người mẹ và những người thân thích. Là lòng uất hận đang chực bùng lên phá tan mọi cảnh bất công, tù đày, nô lệ… Sau một lúc ngừng lại, người tù thay mặt anh em đọc lời vĩnh biệt đã nói những lời cuối cùng:
- Chúng ta xin hứa với đồng chí Tô Hiệu: Quyết tâm giành lại tự do thiêng liêng cho Tổ Quốc!
Người bí thư chi bộ vốc một nắm đất thả xuống nắp quan tài.
- Xin vĩnh biệt người đồng chí, người anh, người bạn yêu quý!
Tiếp sau đó, từng người làm theo. Những khối đất màu đỏ và da cam rơi xuống huyệt mỗi lúc một nhiều hơn… Rồi một tấm mộ chí sơ sài bằng đá mọc lên với những dòng chữ khắc vội: Tô Hiệu. Sinh: 1912 tại Văn Giang - Hưng Yên. Chết: 7/4/1944 tại Sơn La. Những cái đầu tù cạo trọc nham nhở cúi xuống mặc niệm. Không ai có thể nhớ nổi thời gian trôi đi đã bao lâu. Họ không hát Hồn Tử Sĩ: Chiều nay súng vang. Dưới bóng cờ thiêng… Chỉ có tiếng phi lao ru gió xào xạc. Chỉ có tiếng nức nở cố ghìm lại của một vài người đa cảm. Những người tù mà cái chết và bao sự đàn áp khốc liệt, bao nỗi gian lao đắng cay không hề làm nhụt chí, giữa lúc này đây dang chìm trong một nỗi chạnh lòng sâu thẳm, một nỗi xót thương vô hạn… Nhưng không thể đứng mãi ở đây. Bao công việc quan trọng và cấp thiết đang chờ đợi. Phải giành giật lấy thời gian từng phút, giành giật từng hơi thở, từng mạng sống con người. Mỗi người tù số vuông đều cảm thấy một cách rõ rệt những ngày trọng đại đó đã tới rất gần... Những bàn chân tù lại tản đi khắp nơi làm cỏ-vê, như mọi ngày bình thường.

*
*   *

Trong lúc đó, đường “cu-loa” trong nhà tù vắng tanh. Chủ nhân” của nó đã đi xa mãi mãi, để lại cây đào. Lúc này trên cây đào, hoa đầu mùa đã tàn hết, lá tỏa một màu xanh trơ trọi giữa những bức tường đá xám ngoét, âm thầm. Nhưng kể từ năm ấy trở đi, nó sẽ tiếp tục ra hoa như mọi cây đào trong khắp các cánh rừng Sơn La vào mùa xuân. Nó vẫn đang lớn lên từ chân tường kia, dường như không có sự chết chóc nào đã xảy ra xung quanh nó. Chắc hẳn là nó phải ăn rễ thật sâu xuống đất, đợi tới lúc thật cứng cáp, lớn khỏe, mới bắt đầu phá vỡ những mảnh tường đá bên trong để tiếp tục phát triển. Còn bên ngoài nhà tù, trên khắp đồi Khau Cả lúc này không có một cây đào nào - ngoài cây đào ở vườn rau Tòa Sứ nằm dưới chân đồi. (Theo lời kể lại của những người già xung quanh thị xã, cây đào ấy là do một cô gái - được gọi là “con nuôi” của những người “tù áo sạch” trồng trong một lần đi nhặt củi, khi cô đang ở tuổi tranh nhau với lũ bạn chạy đi nhặt những quả còn lạc của các anh chị trong hội ném còn mùa xuân). Nhưng ngay trong năm đó, cây đào trong nhà tù bói lứa quả đầu tiên, những người tù nhớ Tô Hiệu đã ăn quả ở cây này rồi đem gieo hạt quanh đồi Khau Cả khi đi làm cỏ-vê… Từ đó, cứ độ xuân về, những cây đào trên khắp đồi Khau Cả cùng với cây đào trong nhà tù lại nở hoa và kết quả, như sự nhắc nhở thầm kín về một Con Người.




-----------------------------
[1] Tù chính trị CS, phân biệt với tù thân Nhật đeo số hình thoi.
[2] Tức là bệnh sốt rét sưng gan đặc biệt nguy hiểm đối với người tù Sơn La.
[3] Paul Verlaine, thi sĩ lãng mạn Pháp thế kỷ XIX.
[4] Xanh Pu-lôp tự lấy tên mình đặt cho con đường Quốc lộ 6 hồi làm Công sứ ở Sơn La.
[5] Đồng bào các dân tộc quanh thị xã Sơn La hồi ấy (và cho đến cả hôm nay) vẫn quen gọi tù chính trị của ngục Sơn La là “tù áo sạch" vì những bộ quần áo tù bao giờ cũng được vá víu tươm tất sạch sẽ và đặc biệt có thái độ rất hòa nhã, gần gũi, thông cảm sâu sắc với dân nghèo...



29/02/2012





 ❀ ❀ ❀ ❀ ❀