Hội thảo khoa học “Đồng chí Lê Văn Lương với cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng Yên”
_ Hồ Quang Lợi _❖Ủy viên BTV Thành ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội.
Đồng chí Lê Văn Lương tên thật là Nguyễn Công Miều, sinh ngày 28/3/1912 trong một gia đình nho học yêu nước tại làng Xuân Cầu, nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Năm 15 tuổi, khi đang học trường Bưởi đồng chí đã giác ngộ cách mạng và gia nhập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (VNCMTN). Sau Đại hội Kỳ bộ Bắc kỳ của Hội VNCMTN (năm 1928), thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, đồng chí được phân công vào Sài Gòn, hoạt động trong phong trào công nhân dưới sự chỉ đạo của đồng chí Ngô Gia Tự. Ngày 23/3/1931, đồng chí trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh của hơn 400 công nhân Hãng dầu Sô-cô-ny (Nhà Bè), sau đó, bị địch bắt. Chúng giam các đồng chí trong khám Lớn (Sài Gòn) và kết án tử hình trong vụ án Đảng cộng sản Đông Dương (5/1933). Do sự vận động và đấu tranh của nhân dân ta, đặc biệt là của các nghị sĩ tiến bộ Pháp, thực dân Pháp phải giảm xuống án chung thân (tháng 1/1934) và đầy các đồng chí đi Côn Đảo.
Suốt 11 năm bị giam ở Côn Đảo, đồng chí liên tục tham gia chi ủy nhà tù, đóng góp trí tuệ quý báu cho việc xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và giữ vững ngọn lửa đấu tranh nơi gông xiềng tàn bạo nhất của đế quốc Pháp ở Đông Dương. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23/9/1945, đoàn tầu của Ủy ban hành chính Nam Bộ rời Côn Đảo, đón 2.000 chiến sĩ cách mạng bị tù đầy trở về với đồng chí, đồng bào, trong đó có đồng chí Lê Văn Lương .
Tháng 10/1945, đồng chí Lê Văn Lương được cử làm Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam bộ; hai tháng sau, đồng chí được cử ra Hà Nội, giúp đồng chí Trường Chinh chỉ đạo Báo Sự thật và Nhà xuất bản Sự thật.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Văn Lương đã đảm trách nhiều nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Dù ở cương vị công tác nào, đồng chí Lê Văn Lương luôn là một người cộng sản kiên cường, trong sáng, mẫu mực. Viết về đồng chí Lê Văn Lương, đồng chí Hoàng Tùng trân trọng: “Anh là người có bản lĩnh, không bao giờ khuất phục trước uy quyền, cần cù, giản dị, thận trọng từ việc nhỏ đến việc lớn, đối xử công bằng, có trách nhiệm, tình cảm đồng chí đối với mọi người. Sức thuyết phục của anh là sự chân thành, thẳng thắn, nghiêm khắc và thông cảm, hiểu thấu cả những chỗ yếu của con người mà đối xử khoan dung” [1][1] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng. Nxb. CTQG; H.2000, tr.103..
Đất nước hòa bình, thống nhất, xây dựng Hà Nội xứng với tầm vóc, vị trí Thủ đô của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ cách mạng mới, là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, cũng là vinh dự, tự hào của Đảng bộ và nhân dân Hà Nội. Tin tưởng vào năng lực, đức - tài của người cán bộ xuất sắc, sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), Bộ Chính trị đã phân công đồng chí Lê Văn Lương làm Bí thư Thành ủy Hà Nội. Suốt 10 năm, từ 25/5/1977 đến 23/10/1986, đồng chí liên tục được Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tín nhiệm bầu làm Bí thư Thành ủy từ khóa VII đến hết khóa IX.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, 10 năm đứng mũi chịu sào trong điều kiện hết sức khó khăn mọi mặt, vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, cải thiện đời sống nhân dân; vừa từng bước xây dựng Hà Nội cho xứng với vị thế mới. Sự lãnh đạo toàn diện và những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô của đồng chí Lê Văn Lương thể hiện đậm nét qua một số vấn đề sau:
1. Nỗ lực và chủ động tháo gỡ khó khăn, duy trì và phát triển kinh tế - văn hóa, bảo đảm đời sống nhân dân:
Ngay từ đầu năm 1977, chuẩn bị cho Đại hội VII Đảng bộ thành phố, đồng chí đã nêu ý kiến, cần phát triển kinh tế Hà Nội theo hướng: Phát triển công nghiệp mà trọng tâm là công nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng và tiểu thủ công nghiệp để phát huy nội lực, đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, đồng thời coi trọng cải tiến phân phối lưu thông; Nông nghiệp phải sản xuất thực phẩm là chính, thực hiện chuyên canh và đẩy mạnh thâm canh, tạo nên vành đai thực phẩm cho thành phố.
Nắm vững quan điểm, chủ trương của Trung ương và vận dụng sáng tạo vào đặc thù riêng Hà Nội, đồng chí Lê Văn Lương luôn giữ vững luận điểm “phát huy nội lực Thủ đô”, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tiềm năng và sức sáng tạo to lớn của các tầng lớp nhân dân Hà Nội. Hiểu sâu sắc thế mạnh của Hà Nội là nơi tập trung đội ngũ công nhân và thợ kỹ thuật, thợ thủ công lành nghề, tiềm năng ở trong dân rất lớn, đồng chí đã nêu hai ý kiến xác đáng của thực tiễn của Hà Nội với Thường vụ Hội đồng Chính phủ:
- Thúc đẩy nền sản xuất, tăng cường nắm nguồn hàng, xây dựng lực lượng dự trữ về lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng đến mức cao nhất, hợp tác với các tỉnh miền Bắc, miền Nam và thành phố Hồ Chí Minh, đẩy mạnh hơn nữa công tác ngoại thương của thành phố; phải kiện toàn các ngành lương thực, thương nghiệp, kiện toàn các phường, quận; tăng cường sự chỉ đạo sát sao của Thành ủy và Uỷ ban nhân dân thành phố. Đây là những việc mà địa phương phải nỗ lực làm, không thể ỷ lại cấp trên làm thay được.
- Có chính sách giữ giá cung cấp gạo cho xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp bán sản phẩm cho Nhà nước để khuyến khích xã viên tích cực sản xuất, không nên thả lỏng theo giá kinh doanh thương nghiệp [2][2] Ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương gửi Thường vụ Hội đồng Chính phủ. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
Trong một bút tích để lại (tháng 6/1983), đồng chí Lê Văn Lương đã thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo của mình: “Khi Trung ương xác định nhiệm vụ xây dựng Thủ đô không chỉ là nhiệm vụ của địa phương mà là trách nhiệm của cả Trung ương và Trung ương phải tập trung đầu tư cho Thủ đô, chúng ta vẫn không được ỷ lại. Tôi nghĩ rằng, đặc biệt trong bước đi ban đầu ở nước ta càng phải hết sức phát huy tiềm năng của địa phương, trên cơ sở đó mới tính đúng được phần đầu tư của Trung ương, tuy phần đầu tư này rất to lớn” [3][3] Tài liệu về đồng chí Lê Văn Lương. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội..
Với quan điểm trên, đồng chí đã chỉ đạo các ngành kinh tế nỗ lực tích cực, chủ động liên kết với các tỉnh, thành phố để khai thác nguyên vật liệu cho sản xuất và tăng nguồn hàng từ nhiều địa phương bổ sung quỹ hàng hóa, giải quyết từng bước những tồn đọng, trì trệ, những tiêu cực phát sinh của ngành phân phối lưu thông. Đặc biệt, chủ trương tạo điều kiện để tăng xuất khẩu trong các ngành nghề thủ công tinh xảo ở nông thôn, đã phát huy được thế mạnh nông nghiệp ngoại thành, góp phần quan trọng tăng thu nhập lương thực, thực phẩm và ngoại tệ cho Thành phố. Một số cơ sở kinh tế mũi nhọn được thành phố chỉ đạo điểm, đã bắt đầu tự “cởi trói” theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 - khóa IV (ngày 20/9/1979) có hiệu quả tốt. Đó là những thực tế sinh động, cũng là những căn cứ quan trọng, góp phần cho Trung ương ban hành Chỉ thị 100-CT/TW (ngày 13/1/1981) “về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/CP của Hội đồng Chính phủ (ngày 21/1/1981) “về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất - kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh”.
Có thể nói, Hà Nội là một tronmg những địa bàn quan trọng nhất đã được Trung ương chọn để khảo nghiệm các nghị quyết trên, từng bước cởi trói cơ chế quản lý quan liêu bao cấp không còn phù hợp để thúc đẩy và mở đường cho sản xuất phát triển.
Đại hội VIII (từ ngày 05 đến ngày 10/2/1980) và Đại hội IX của Đảng bộ thành phố (từ ngày 11 đến ngày 16/6/1983) là những đại hội của tinh thần cách mạng, tiếp nhận những nhân tố mới từ đòi hỏi cấp bách, khách quan, từng bước tiến tới đổi mới mà linh hồn của các đại hội chính là người Bí thư dầy dạn kinh nghiệm lãnh đạo và luôn đi sâu, đi sát cơ sở, nhạy bén đưa ra những chủ trương kịp thời, phù hợp với yêu cầu nóng bỏng của thực tiễn.
Sau Đại hội IX của Đảng bộ thành phố, với khí thế mới, quyết tâm mới, đồng chí Lê Văn Lương đã chỉ đạo những công tác cụ thể, để phát huy tốt hơn nữa tiềm năng và thế mạnh của thành phố, tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành phố khác; lập kế hoạch sử dụng tốt vốn vay ngoại tệ. Đặc biệt, trong lúc chúng ta đang thiếu nguồn vốn đầu tư, nhất là ngoại tệ, đồng chí đã nêu ý kiến chỉ đạo việc huy động vốn từ Việt kiều để mở rộng liên kết, làm nhiều hàng công nghệ xuất khẩu… Đặt trong bối cảnh lúc đó, những chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội là hết sức mạnh dạn, chủ động, nhằm huy động tiềm năng của mọi tầng lớp nhân dân. Nhờ từng bước áp dụng cơ chế quản lý mới và kiên quyết tập trung chỉ đạo sửa đổi một số chính sách kinh tế đã lỗi thời, nên kinh tế - văn hóa Hà Nội qua mỗi giai đoạn đều có sự khởi sắc rõ nét: Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp có những chuyển biến đáng kể; xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại bước đầu có tiến bộ; nhà ở, trường học được chăm lo xây dựng nhiều hơn trước...
Đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá-giáo dục-khoa học kỹ thuật, đồng chí Lê Văn Lương cũng thường xuyên dành sự quan tâm, chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố, các sở, ban, ngành “phải có kế hoạch phấn đấu để Thủ đô Hà Nội xứng đáng là trung tâm văn hoá - khoa học kỹ thuật tiêu biểu của cả nước” [4][4] Một số ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương bổ sung về nhiệm vụ công tác của Thành phố năm 1984. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy..
Năm 1977, đồng chí chỉ đạo thành phố cần thành lập lại Ban Khoa học kỹ thuật. Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Hà Nội được thành lập, sớm hơn một số tỉnh, thành phố khác. Để tập hợp và thực hiện công tác lãnh đạo, sự quan tâm đến đội ngũ văn nghệ sỹ Thủ đô và Trung ương đang sinh sống trên địa bàn thành phố, Đồng chí yêu cầu tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quan tâm hơn nữa đến đời sống và sự nghiệp sáng tạo văn hóa – văn nghệ Thủ đô, củng cố Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố. Giai đoạn này, các văn nghệ sĩ cả của Trung ương và Hà Nội đang sống trên đất “Rồng thiêng”, luôn gắn bó, tâm huyết với sự nghiệp văn hóa của đất nước và Thủ đô đã sáng tác được nhiều tác phẩm vượt qua thử thách thời gian, góp phần cho văn hiến Thăng Long luôn tỏa sáng như tác phẩm văn học: Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu; vở kịch: Tôi và chúng ta, Khoảnh khắc và vô tận, vở chèo Nàng Si Ta của Lưu Quang Vũ, Bài ca giữ nước của Tào Mạt; phim: Người tử tế của đạo diễn Trần Văn Thủy, Bao giờ cho đến tháng Mười của đạo diễn Đặng Nhật Minh, v.v...
Mặc dù Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội đã rất cố gắng, chủ động, nhưng do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, nên một số mục tiêu của Đại hội IX Đảng bộ thành phố đưa không được thực hiện đầy đủ. Những mặt được, chưa được đã bộc lộ tập trung nhất, rõ rệt nhất hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do đó, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa V), cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền ngày 14/9/1985 dưới sự chỉ đạo sát sao, trực tiếp của Trung ương, dù không đạt kết quả mong muốn nhưng là cuộc khảo nghiệm, nhằm đi tới nhất quán trong Đảng chủ trương: kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, trì trệ. Đó cũng chính là một thực tiễn để Đảng ta quyết tâm mở ra đường lối đổi mới.
Luồng gió mới - cách mạng thổi tới mọi miền, bắt đầu từ Thủ đô, trung tâm chính trị của đất nước. Bộ chỉ huy của công cuộc đổi mới: Các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng đã tập trung về chỉ đạo Đại hội X của Đảng bộ Thành phố (từ ngày 17 đến ngày 23/10/1986). Đồng chí Lê Văn Lương, Người Bí thư đã vững tay chèo trong suốt 10 năm gian nan, thử thách, với bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ lão thành cách mạng, người cán bộ tận trung với nước, tận hiếu với dân, kiên định và chủ động, là linh hồn xây dựng nên bản Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội, trong đó nêu rõ phương châm hành động cho toàn Đảng bộ và nhân dân Thủ đô: “Mọi công việc phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm mục tiêu; coi trọng tổ chức công tác thực tiễn, kiên quyết chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu, bao cấp sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa... nâng cao sức chiến đấu của Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất ra khỏi Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh” [5][5] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ X (1986)..
2. Chỉ đạo có hiệu quả công tác quy hoạch và mở rộng đô thị, gắn công tác quản lý đô thị với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền quản lý ở ba cấp.
Ngay khi mới về Hà Nội nhận công tác, để chuẩn bị tốt nội dung của Đại hội VII Đảng bộ thành phố (từ 25/5 đến 02/6/1977), đồng chí Lê Văn Lương đã đề xuất với Thành ủy: nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch, bước đi của sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô. Sau đó, tháng 6/1978, đồng chí thay mặt Thành ủy, trình Bộ Chính trị ý kiến về mở rộng quy hoạch thành phố. Trên cơ sở đó, ngày 29/12/1978, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ tư đã phê chuẩn việc mở rộng Thành phố Hà Nội lần thứ hai. Hà Nội lúc đó có 4 khu phố nội thành, 11 huyện, 1 thị xã ngoại thành với gần 2.500.000 dân.
Suốt 11 năm bị giam ở Côn Đảo, đồng chí liên tục tham gia chi ủy nhà tù, đóng góp trí tuệ quý báu cho việc xây dựng, củng cố tổ chức Đảng và giữ vững ngọn lửa đấu tranh nơi gông xiềng tàn bạo nhất của đế quốc Pháp ở Đông Dương. Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23/9/1945, đoàn tầu của Ủy ban hành chính Nam Bộ rời Côn Đảo, đón 2.000 chiến sĩ cách mạng bị tù đầy trở về với đồng chí, đồng bào, trong đó có đồng chí Lê Văn Lương .
Tháng 10/1945, đồng chí Lê Văn Lương được cử làm Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam bộ; hai tháng sau, đồng chí được cử ra Hà Nội, giúp đồng chí Trường Chinh chỉ đạo Báo Sự thật và Nhà xuất bản Sự thật.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí Lê Văn Lương đã đảm trách nhiều nhiệm vụ quan trọng của Đảng. Dù ở cương vị công tác nào, đồng chí Lê Văn Lương luôn là một người cộng sản kiên cường, trong sáng, mẫu mực. Viết về đồng chí Lê Văn Lương, đồng chí Hoàng Tùng trân trọng: “Anh là người có bản lĩnh, không bao giờ khuất phục trước uy quyền, cần cù, giản dị, thận trọng từ việc nhỏ đến việc lớn, đối xử công bằng, có trách nhiệm, tình cảm đồng chí đối với mọi người. Sức thuyết phục của anh là sự chân thành, thẳng thắn, nghiêm khắc và thông cảm, hiểu thấu cả những chỗ yếu của con người mà đối xử khoan dung” [1][1] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng. Nxb. CTQG; H.2000, tr.103..
Đất nước hòa bình, thống nhất, xây dựng Hà Nội xứng với tầm vóc, vị trí Thủ đô của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ cách mạng mới, là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, cũng là vinh dự, tự hào của Đảng bộ và nhân dân Hà Nội. Tin tưởng vào năng lực, đức - tài của người cán bộ xuất sắc, sau Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976), Bộ Chính trị đã phân công đồng chí Lê Văn Lương làm Bí thư Thành ủy Hà Nội. Suốt 10 năm, từ 25/5/1977 đến 23/10/1986, đồng chí liên tục được Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố tín nhiệm bầu làm Bí thư Thành ủy từ khóa VII đến hết khóa IX.
Thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, 10 năm đứng mũi chịu sào trong điều kiện hết sức khó khăn mọi mặt, vừa phải khắc phục hậu quả chiến tranh, cải thiện đời sống nhân dân; vừa từng bước xây dựng Hà Nội cho xứng với vị thế mới. Sự lãnh đạo toàn diện và những đóng góp to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô của đồng chí Lê Văn Lương thể hiện đậm nét qua một số vấn đề sau:
1. Nỗ lực và chủ động tháo gỡ khó khăn, duy trì và phát triển kinh tế - văn hóa, bảo đảm đời sống nhân dân:
Ngay từ đầu năm 1977, chuẩn bị cho Đại hội VII Đảng bộ thành phố, đồng chí đã nêu ý kiến, cần phát triển kinh tế Hà Nội theo hướng: Phát triển công nghiệp mà trọng tâm là công nghiệp hàng tiêu dùng, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng và tiểu thủ công nghiệp để phát huy nội lực, đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân, đồng thời coi trọng cải tiến phân phối lưu thông; Nông nghiệp phải sản xuất thực phẩm là chính, thực hiện chuyên canh và đẩy mạnh thâm canh, tạo nên vành đai thực phẩm cho thành phố.
Nắm vững quan điểm, chủ trương của Trung ương và vận dụng sáng tạo vào đặc thù riêng Hà Nội, đồng chí Lê Văn Lương luôn giữ vững luận điểm “phát huy nội lực Thủ đô”, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tiềm năng và sức sáng tạo to lớn của các tầng lớp nhân dân Hà Nội. Hiểu sâu sắc thế mạnh của Hà Nội là nơi tập trung đội ngũ công nhân và thợ kỹ thuật, thợ thủ công lành nghề, tiềm năng ở trong dân rất lớn, đồng chí đã nêu hai ý kiến xác đáng của thực tiễn của Hà Nội với Thường vụ Hội đồng Chính phủ:
- Thúc đẩy nền sản xuất, tăng cường nắm nguồn hàng, xây dựng lực lượng dự trữ về lương thực, sản xuất hàng tiêu dùng đến mức cao nhất, hợp tác với các tỉnh miền Bắc, miền Nam và thành phố Hồ Chí Minh, đẩy mạnh hơn nữa công tác ngoại thương của thành phố; phải kiện toàn các ngành lương thực, thương nghiệp, kiện toàn các phường, quận; tăng cường sự chỉ đạo sát sao của Thành ủy và Uỷ ban nhân dân thành phố. Đây là những việc mà địa phương phải nỗ lực làm, không thể ỷ lại cấp trên làm thay được.
- Có chính sách giữ giá cung cấp gạo cho xã viên hợp tác xã thủ công nghiệp bán sản phẩm cho Nhà nước để khuyến khích xã viên tích cực sản xuất, không nên thả lỏng theo giá kinh doanh thương nghiệp [2][2] Ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương gửi Thường vụ Hội đồng Chính phủ. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
Trong một bút tích để lại (tháng 6/1983), đồng chí Lê Văn Lương đã thể hiện rõ quan điểm chỉ đạo của mình: “Khi Trung ương xác định nhiệm vụ xây dựng Thủ đô không chỉ là nhiệm vụ của địa phương mà là trách nhiệm của cả Trung ương và Trung ương phải tập trung đầu tư cho Thủ đô, chúng ta vẫn không được ỷ lại. Tôi nghĩ rằng, đặc biệt trong bước đi ban đầu ở nước ta càng phải hết sức phát huy tiềm năng của địa phương, trên cơ sở đó mới tính đúng được phần đầu tư của Trung ương, tuy phần đầu tư này rất to lớn” [3][3] Tài liệu về đồng chí Lê Văn Lương. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội..
Với quan điểm trên, đồng chí đã chỉ đạo các ngành kinh tế nỗ lực tích cực, chủ động liên kết với các tỉnh, thành phố để khai thác nguyên vật liệu cho sản xuất và tăng nguồn hàng từ nhiều địa phương bổ sung quỹ hàng hóa, giải quyết từng bước những tồn đọng, trì trệ, những tiêu cực phát sinh của ngành phân phối lưu thông. Đặc biệt, chủ trương tạo điều kiện để tăng xuất khẩu trong các ngành nghề thủ công tinh xảo ở nông thôn, đã phát huy được thế mạnh nông nghiệp ngoại thành, góp phần quan trọng tăng thu nhập lương thực, thực phẩm và ngoại tệ cho Thành phố. Một số cơ sở kinh tế mũi nhọn được thành phố chỉ đạo điểm, đã bắt đầu tự “cởi trói” theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 - khóa IV (ngày 20/9/1979) có hiệu quả tốt. Đó là những thực tế sinh động, cũng là những căn cứ quan trọng, góp phần cho Trung ương ban hành Chỉ thị 100-CT/TW (ngày 13/1/1981) “về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định 25/CP của Hội đồng Chính phủ (ngày 21/1/1981) “về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất - kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh”.
Có thể nói, Hà Nội là một tronmg những địa bàn quan trọng nhất đã được Trung ương chọn để khảo nghiệm các nghị quyết trên, từng bước cởi trói cơ chế quản lý quan liêu bao cấp không còn phù hợp để thúc đẩy và mở đường cho sản xuất phát triển.
Đại hội VIII (từ ngày 05 đến ngày 10/2/1980) và Đại hội IX của Đảng bộ thành phố (từ ngày 11 đến ngày 16/6/1983) là những đại hội của tinh thần cách mạng, tiếp nhận những nhân tố mới từ đòi hỏi cấp bách, khách quan, từng bước tiến tới đổi mới mà linh hồn của các đại hội chính là người Bí thư dầy dạn kinh nghiệm lãnh đạo và luôn đi sâu, đi sát cơ sở, nhạy bén đưa ra những chủ trương kịp thời, phù hợp với yêu cầu nóng bỏng của thực tiễn.
Sau Đại hội IX của Đảng bộ thành phố, với khí thế mới, quyết tâm mới, đồng chí Lê Văn Lương đã chỉ đạo những công tác cụ thể, để phát huy tốt hơn nữa tiềm năng và thế mạnh của thành phố, tăng cường hợp tác với các tỉnh, thành phố khác; lập kế hoạch sử dụng tốt vốn vay ngoại tệ. Đặc biệt, trong lúc chúng ta đang thiếu nguồn vốn đầu tư, nhất là ngoại tệ, đồng chí đã nêu ý kiến chỉ đạo việc huy động vốn từ Việt kiều để mở rộng liên kết, làm nhiều hàng công nghệ xuất khẩu… Đặt trong bối cảnh lúc đó, những chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà Nội là hết sức mạnh dạn, chủ động, nhằm huy động tiềm năng của mọi tầng lớp nhân dân. Nhờ từng bước áp dụng cơ chế quản lý mới và kiên quyết tập trung chỉ đạo sửa đổi một số chính sách kinh tế đã lỗi thời, nên kinh tế - văn hóa Hà Nội qua mỗi giai đoạn đều có sự khởi sắc rõ nét: Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp có những chuyển biến đáng kể; xuất nhập khẩu và kinh tế đối ngoại bước đầu có tiến bộ; nhà ở, trường học được chăm lo xây dựng nhiều hơn trước...
Đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá-giáo dục-khoa học kỹ thuật, đồng chí Lê Văn Lương cũng thường xuyên dành sự quan tâm, chỉ đạo Ủy ban nhân dân thành phố, các sở, ban, ngành “phải có kế hoạch phấn đấu để Thủ đô Hà Nội xứng đáng là trung tâm văn hoá - khoa học kỹ thuật tiêu biểu của cả nước” [4][4] Một số ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương bổ sung về nhiệm vụ công tác của Thành phố năm 1984. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy..
Năm 1977, đồng chí chỉ đạo thành phố cần thành lập lại Ban Khoa học kỹ thuật. Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Hà Nội được thành lập, sớm hơn một số tỉnh, thành phố khác. Để tập hợp và thực hiện công tác lãnh đạo, sự quan tâm đến đội ngũ văn nghệ sỹ Thủ đô và Trung ương đang sinh sống trên địa bàn thành phố, Đồng chí yêu cầu tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quan tâm hơn nữa đến đời sống và sự nghiệp sáng tạo văn hóa – văn nghệ Thủ đô, củng cố Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật thành phố. Giai đoạn này, các văn nghệ sĩ cả của Trung ương và Hà Nội đang sống trên đất “Rồng thiêng”, luôn gắn bó, tâm huyết với sự nghiệp văn hóa của đất nước và Thủ đô đã sáng tác được nhiều tác phẩm vượt qua thử thách thời gian, góp phần cho văn hiến Thăng Long luôn tỏa sáng như tác phẩm văn học: Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng, Thời xa vắng của Lê Lựu; vở kịch: Tôi và chúng ta, Khoảnh khắc và vô tận, vở chèo Nàng Si Ta của Lưu Quang Vũ, Bài ca giữ nước của Tào Mạt; phim: Người tử tế của đạo diễn Trần Văn Thủy, Bao giờ cho đến tháng Mười của đạo diễn Đặng Nhật Minh, v.v...
Mặc dù Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hà Nội đã rất cố gắng, chủ động, nhưng do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, nên một số mục tiêu của Đại hội IX Đảng bộ thành phố đưa không được thực hiện đầy đủ. Những mặt được, chưa được đã bộc lộ tập trung nhất, rõ rệt nhất hậu quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Do đó, thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa V), cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền ngày 14/9/1985 dưới sự chỉ đạo sát sao, trực tiếp của Trung ương, dù không đạt kết quả mong muốn nhưng là cuộc khảo nghiệm, nhằm đi tới nhất quán trong Đảng chủ trương: kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, trì trệ. Đó cũng chính là một thực tiễn để Đảng ta quyết tâm mở ra đường lối đổi mới.
Luồng gió mới - cách mạng thổi tới mọi miền, bắt đầu từ Thủ đô, trung tâm chính trị của đất nước. Bộ chỉ huy của công cuộc đổi mới: Các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng đã tập trung về chỉ đạo Đại hội X của Đảng bộ Thành phố (từ ngày 17 đến ngày 23/10/1986). Đồng chí Lê Văn Lương, Người Bí thư đã vững tay chèo trong suốt 10 năm gian nan, thử thách, với bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ lão thành cách mạng, người cán bộ tận trung với nước, tận hiếu với dân, kiên định và chủ động, là linh hồn xây dựng nên bản Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội, trong đó nêu rõ phương châm hành động cho toàn Đảng bộ và nhân dân Thủ đô: “Mọi công việc phải lấy hiệu quả kinh tế- xã hội làm mục tiêu; coi trọng tổ chức công tác thực tiễn, kiên quyết chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu, bao cấp sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa... nâng cao sức chiến đấu của Đảng, kiên quyết đưa những phần tử cơ hội, thoái hóa biến chất ra khỏi Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh” [5][5] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ X (1986)..
2. Chỉ đạo có hiệu quả công tác quy hoạch và mở rộng đô thị, gắn công tác quản lý đô thị với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chính quyền quản lý ở ba cấp.
Ngay khi mới về Hà Nội nhận công tác, để chuẩn bị tốt nội dung của Đại hội VII Đảng bộ thành phố (từ 25/5 đến 02/6/1977), đồng chí Lê Văn Lương đã đề xuất với Thành ủy: nghiên cứu quy hoạch, kế hoạch, bước đi của sự nghiệp xây dựng và phát triển Thủ đô. Sau đó, tháng 6/1978, đồng chí thay mặt Thành ủy, trình Bộ Chính trị ý kiến về mở rộng quy hoạch thành phố. Trên cơ sở đó, ngày 29/12/1978, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ tư đã phê chuẩn việc mở rộng Thành phố Hà Nội lần thứ hai. Hà Nội lúc đó có 4 khu phố nội thành, 11 huyện, 1 thị xã ngoại thành với gần 2.500.000 dân.
Thành phố được mở rộng, có thêm nhiều thuận lợi về nhân tài, vật lực, nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn trong công tác tổ chức guồng máy hoạt động có hiệu quả và chăm lo đời sống nhân dân.
Sau 10 năm dồn sức “tất cả cho tiền tuyến”, hạ tầng đô thị hầu như không được đầu tư, đã lạc hậu trước yêu cầu xây dựng và phát triển Thủ đô trong thời kỳ mới. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Văn Lương, một số công trình hạ tầng giao thông vận tải đã được mở mang, cải thiện: cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Đuống, cảng Phà Đen, sân bay Nội Bài, mở rộng đường năm cửa ô…; ngành vận tải biển pha sông đã được tổ chức để đưa gạo từ đồng bằng Nam Bộ về thẳng cảng Phà Đen và đưa hàng từ Hà Nội vào đồng bằng Nam bộ. Các công trình kiến trúc dân sinh được quan tâm, nhiều ngôi nhà cao tầng đã mọc lên ở nội thành và các cửa ô, đáp ứng một phần nhu cầu nhà ở cho nhân dân.
Để Thành ủy có cơ sở cho việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chính quyền phù hợp giai đoạn mới, đồng chí Lê Văn Lương đã chủ động đề nghị Trung ương, trực tiếp đi khảo sát mô hình xây dựng chính quyền cấp quận và phường ở thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Thành ủy đã chỉ đạo thí điểm một số địa bàn chuyển mô hình hành chính từ tiểu khu thành phường - đơn vị hành chính cấp cơ sở có con dấu riêng. Đây là vấn đề mới và khá phức tạp đối với Hà Nội khi bỏ ban đại diện hành chính tiểu khu, thành lập chính quyền phường, và đổi từ mô hình khu phố thành mô hình quận. Từ thí điểm trên, đồng chí Lê Văn Lương đã không nản chí trước khó khăn, quyết tâm đi theo mô hình mới, phù hợp xu thế phát triển mọi mặt của Thành phố, giữ vững vai trò, vị trí là đầu não đất nước. Đồng chí đã kiên trì thuyết phục Trung ương chấp thuận chuyển đổi mô hình chính quyền đô thị thời kỳ mới. Thực tiễn trên của Hà Nội đã góp phần quan trọng vào Nghị quyết kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI (18/12/1980), đóng góp sửa đổi một số điều của Hiến pháp mới, trong đó, ghi rõ bộ máy chính quyền thành phố tổ chức thành ba cấp: thành phố, quận, phường.
Với mô hình chính quyền mới, việc nâng cao trình độ của cán bộ để đáp ứng yêu cầu của đô thị Hà Nội đã mở rộng càng trở nên cấp bách. Đồng chí chỉ đạo muốn quản lý đô thị tốt, các cấp quận, phường phải đổi mới công tác cán bộ, đổi mới tư duy, biết cải tiến cách làm kế hoạch, thể hiện tính tích cực chủ động trong quản lý đô thị, trong sản xuất và kinh doanh khi đã được trao quyền là một đơn vị kinh tế, kiên quyết chấn chỉnh bộ máy, đổi mới phong cách làm việc có tính thiết thực, chỉ đạo công việc chặt chẽ.
Từ những cán bộ đầu tiên khi mới thành lập phường, quận, đội ngũ cán bộ cấp quận, phường đã dần đáp ứng yêu cầu quản lý, xây dựng của một đô thị với vị trí đặc biệt: là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá của cả nước, mà người góp phần tích cực đặt nền móng đầu tiên, chính là đồng chí Lê Văn Lương.
3. Trong công tác xây dựng Đảng, đồng chí chú trọng nâng cao năng lực chỉ đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ để biến nghị quyết Đảng thành hành động cách mạng và luôn luôn nêu gương là người cộng sản mẫu mực
Trong những năm tháng gieo neo và bối cảnh trì trệ của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, tình trạng khó khăn của đời sống sinh hoạt, đã có một số cán bộ, đảng viên không giữ được phẩm chất, đạo đức người cộng sản; nhiều cơ sở đảng chưa thật sự là hạt nhân lãnh đạo mọi mặt công tác. Do đó, đồng chí Lê Văn Lương đã tập trung lãnh đạo khâu trọng yếu nhất của Đảng bộ là: công tác xây dựng đảng và công tác cán bộ. Do đó, cuộc vận động xây dựng đảng vững mạnh và trong sạch cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao phẩm chất cộng sản cho cán bộ, đảng viên gắn với công tác phát Thẻ Đảng viên từ năm 1980 đã được chỉ đạo sát sao. Năm 1981, trong tình hình khó khăn chồng chất, đồng chí nhận thức sâu sắc rằng: Điều quyết định để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ là nâng cao chất lượng lãnh đạo và tăng cường sức chiến đấu của Đảng, khắc phục những nhân tố tiêu cực trong Đảng, làm cho Đảng trong sạch. Đảng phải đi sâu vào mặt trận kinh tế, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo kinh tế. Đồng chí đã chỉ đạo Thành ủy đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng theo phương pháp: công tác tư tưởng, tổ chức phải gắn liền với thực tiễn sôi động, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên ở cả nơi sản xuất, công tác và nơi cư trú. Nghiêm túc và thẳng thắn, thấy rõ khuyết điểm của Đảng bộ “chưa tập trung đúng mức vào việc cải tạo và xây dựng Thủ đô; chỉ đạo chưa nhạy bén, quản lý mang nặng tính chất hành chính bao cấp” [6][6] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy., Đồng chí đề cao vai trò của tổ chức cơ sở đảng và mỗi đảng viên trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống quan liêu, bảo thủ hoặc hô hào suông: để nghị quyết đi vào cuộc sống, các tổ chức cơ sở đảng và mỗi đảng viên “phải có ý chí chiến đấu kiên cường, nhạy bén với các vấn đề mới do cuộc sống đặt ra, có đủ kiến thức để cụ thể hóa các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thực tế, chứ không chỉ ra nghị quyết, nêu khẩu hiệu. Muốn thế, các đảng viên phải có tinh thần hy sinh tận tuỵ, dũng cảm đấu tranh, bền bỉ học tập để nâng cao trình độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Phải loại ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội trục lợi, sút kém ý chí chiến đấu, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, không quan tâm đầy đủ đến lợi ích của quần chúng” [7][7] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ Đảng là một cuộc sát hạch năng lực, phẩm chất, bản lĩnh người cộng sản trong cuộc chiến đấu chống đói nghèo và chống những viên đạn bọc đường cám dỗ, tư lợi, cậy chức, cậy quyền, quan liêu, không dân chủ với nhân dân.
Đồng chí là tấm gương sáng, quy tụ và đoàn kết tập thể Ban Thường vụ và tập thể Thành ủy. Khi nghe dân phản ánh thiếu nước, mất điện nhiều, đồng chí đã trực tiếp xuống ngay tận nơi cơ sở tìm hiểu nguyên nhân, chỉ đạo bàn cách khắc phục để nhân dân có điện, nước sinh hoạt. Các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy thời kỳ đó đã quen với hình ảnh một đồng chí Bí thư thường xuyên thức khuya để cùng tính toán, cân đối lương thực từng tuần, từng tháng cho các quận, huyện. Đồng chí nói với mọi người thật giản dị, chân thành: “Dẫu ta vất vả đến mấy nhưng lương thực được đảm bảo cho đồng bào, đấy là hạnh phúc”. Đến dự sinh hoạt chi bộ cơ sở, thấy đồng chí bí thư chi bộ thường cáo bận, vắng mặt, đồng chí đề nghị Thành uỷ có biện pháp ngay, do đó, ngày sinh hoạt chi bộ đã được quy định vào ngày 03 hàng tháng. Đến nay, lịch trên vẫn được duy trì trong toàn Đảng bộ thành phố [8][8] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 222..
Đối với cơ quan Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố, để cải tiến lề lối làm việc, đồng chí yêu cầu trước hết, phải đổi mới từ chính lối suy nghĩ “ra nghị quyết là tròn nhiệm vụ”: “Phải chống một quan niệm hình như cho rằng: cơ quan lãnh đạo ra nghị quyết, hoặc tổ chức một hội nghị cán bộ thông báo nghị quyết, thế là đã tròn nhiệm vụ... Vấn đề cơ bản vẫn là phải biến nghị quyết thành hành động cách mạng thực tiễn của đông đảo quần chúng nhân dân để cải biến tình hình, đưa cách mạng tiến lên. Đó là một vấn đề phải dứt khoát để thanh toán hiện tượng một số nghị quyết không thực hiện được hoặc thực hiện “đầu voi đuôi chuột” [9][9] Đề nghị về cải tiến lề lối lãnh đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy..
Từ yêu cầu khách quan của nhiệm vụ và để đưa nghị quyết Đảng vào cuộc sống có hiệu quả, chống bệnh thành tích, phô trương, trong đó công tác cán bộ là yếu tố có tính quyết định, nên được đồng chí hết sức quan tâm. Cẩm nang hành động để đi đến thắng lợi của người cán bộ lãnh đạo mà đồng chí đã tâm huyết đúc rút là:
Những đúc rút trên cũng chính là phẩm chất của người cán bộ suốt đời vì dân, vì Đảng. Đồng chí là tấm gương “phấn đấu sống, làm việc và đấu tranh như một người cộng sản mẫu mực” [11][11] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 80. như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng viết và để lại bao tình cảm ấp áp, nghĩa tình trong lòng đồng chí, đồng bào ở những nơi đồng chí công tác, đến thăm.
Tận tụy, trung thành cống hiến cho dân, cho Đảng, ngày 31/8/1989, đồng chí Lê Văn Lương đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Đồng chí còn được tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác.
Đồng chí Lê Văn Lương, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa 17 năm (Đồng chí từ trần ngày 25/4/1995 tại Bệnh viện Quân y 108, Hà Nội, thọ 83 tuổi), nhưng hình ảnh và đạo đức cách mạng sáng ngời của đồng chí còn đọng lại mãi trong tâm trí mỗi người. Giáo sư Vũ Khiêu đã viết đôi câu đối trước di ảnh của đồng chí:
15 tuổi lên đường chính khí vươn cao trời biển rộng
70 năm cùng Đảng, công huân rực sáng cổ thu soi
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Đồng chí, noi gương người cán bộ ưu tú của Đảng, chúng ta càng thấm thía sâu sắc khi đọc những di cảo Đồng chí để lại nhân kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Đảng 03/2/1990: “Tất cả cán bộ đảng viên chúng ta cần đem những gì tốt đẹp nhất của mình đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của Đảng... Phải nâng cao củng cố Đảng, xây dựng Đảng thật vững mạnh, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng do Đảng đề ra. Đây là thái độ đúng đắn nhất cần xác định nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng quang vinh của chúng ta” [12][12] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 73..
Là một trong những đảng viên cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa II, III, IV, V. Gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Lê Văn Lương thể hiện tấm gương của một chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn trung thành, tận tụy với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng chí là một cán bộ có ý thức tổ chức kỷ luật rất cao, sống trung thực, giản dị, hòa nhã với mọi người, luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng chí, của nhân dân.
Nhân cách cao đẹp của đồng chí: tận tình, gương mẫu, dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân, với đức tính thanh liêm, trung thực, chân thành, bao dung với đồng chí, bạn bè... là một mẫu mực cho mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta học tập và nâng cao đạo đức cách mạng, phát huy tính tiên phong, sức chiến đấu và năng lực của người đảng viên để góp phần thiết thực vào công tác xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Tấm gương sáng của đồng chí Lê Văn Lương về phẩm chất, đạo đức người đảng viên cộng sản, người cán bộ lãnh đạo vẫn đang hết sức có ý nghĩa thời sự, khi mà toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh”, đang chuẩn bị triển khai, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”./.
---------------------
❖ Ủy viên BTV Thành ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội.
[1] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng. Nxb. CTQG; H.2000, tr.103.
[2] Ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương gửi Thường vụ Hội đồng Chính phủ. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[3] Tài liệu về đồng chí Lê Văn Lương. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội.
[4] Một số ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương bổ sung về nhiệm vụ công tác của Thành phố năm 1984. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[5] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ X (1986).
[6] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[7] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[8] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 222.
[9] Đề nghị về cải tiến lề lối lãnh đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[10] Tài liệu về đồng chí Lê Văn Lương. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[11] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 80.
[12] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 73.
Sau 10 năm dồn sức “tất cả cho tiền tuyến”, hạ tầng đô thị hầu như không được đầu tư, đã lạc hậu trước yêu cầu xây dựng và phát triển Thủ đô trong thời kỳ mới. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Lê Văn Lương, một số công trình hạ tầng giao thông vận tải đã được mở mang, cải thiện: cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Đuống, cảng Phà Đen, sân bay Nội Bài, mở rộng đường năm cửa ô…; ngành vận tải biển pha sông đã được tổ chức để đưa gạo từ đồng bằng Nam Bộ về thẳng cảng Phà Đen và đưa hàng từ Hà Nội vào đồng bằng Nam bộ. Các công trình kiến trúc dân sinh được quan tâm, nhiều ngôi nhà cao tầng đã mọc lên ở nội thành và các cửa ô, đáp ứng một phần nhu cầu nhà ở cho nhân dân.
Để Thành ủy có cơ sở cho việc lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng chính quyền phù hợp giai đoạn mới, đồng chí Lê Văn Lương đã chủ động đề nghị Trung ương, trực tiếp đi khảo sát mô hình xây dựng chính quyền cấp quận và phường ở thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Thành ủy đã chỉ đạo thí điểm một số địa bàn chuyển mô hình hành chính từ tiểu khu thành phường - đơn vị hành chính cấp cơ sở có con dấu riêng. Đây là vấn đề mới và khá phức tạp đối với Hà Nội khi bỏ ban đại diện hành chính tiểu khu, thành lập chính quyền phường, và đổi từ mô hình khu phố thành mô hình quận. Từ thí điểm trên, đồng chí Lê Văn Lương đã không nản chí trước khó khăn, quyết tâm đi theo mô hình mới, phù hợp xu thế phát triển mọi mặt của Thành phố, giữ vững vai trò, vị trí là đầu não đất nước. Đồng chí đã kiên trì thuyết phục Trung ương chấp thuận chuyển đổi mô hình chính quyền đô thị thời kỳ mới. Thực tiễn trên của Hà Nội đã góp phần quan trọng vào Nghị quyết kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI (18/12/1980), đóng góp sửa đổi một số điều của Hiến pháp mới, trong đó, ghi rõ bộ máy chính quyền thành phố tổ chức thành ba cấp: thành phố, quận, phường.
Với mô hình chính quyền mới, việc nâng cao trình độ của cán bộ để đáp ứng yêu cầu của đô thị Hà Nội đã mở rộng càng trở nên cấp bách. Đồng chí chỉ đạo muốn quản lý đô thị tốt, các cấp quận, phường phải đổi mới công tác cán bộ, đổi mới tư duy, biết cải tiến cách làm kế hoạch, thể hiện tính tích cực chủ động trong quản lý đô thị, trong sản xuất và kinh doanh khi đã được trao quyền là một đơn vị kinh tế, kiên quyết chấn chỉnh bộ máy, đổi mới phong cách làm việc có tính thiết thực, chỉ đạo công việc chặt chẽ.
Từ những cán bộ đầu tiên khi mới thành lập phường, quận, đội ngũ cán bộ cấp quận, phường đã dần đáp ứng yêu cầu quản lý, xây dựng của một đô thị với vị trí đặc biệt: là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá của cả nước, mà người góp phần tích cực đặt nền móng đầu tiên, chính là đồng chí Lê Văn Lương.
3. Trong công tác xây dựng Đảng, đồng chí chú trọng nâng cao năng lực chỉ đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ để biến nghị quyết Đảng thành hành động cách mạng và luôn luôn nêu gương là người cộng sản mẫu mực
Trong những năm tháng gieo neo và bối cảnh trì trệ của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, tình trạng khó khăn của đời sống sinh hoạt, đã có một số cán bộ, đảng viên không giữ được phẩm chất, đạo đức người cộng sản; nhiều cơ sở đảng chưa thật sự là hạt nhân lãnh đạo mọi mặt công tác. Do đó, đồng chí Lê Văn Lương đã tập trung lãnh đạo khâu trọng yếu nhất của Đảng bộ là: công tác xây dựng đảng và công tác cán bộ. Do đó, cuộc vận động xây dựng đảng vững mạnh và trong sạch cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nâng cao phẩm chất cộng sản cho cán bộ, đảng viên gắn với công tác phát Thẻ Đảng viên từ năm 1980 đã được chỉ đạo sát sao. Năm 1981, trong tình hình khó khăn chồng chất, đồng chí nhận thức sâu sắc rằng: Điều quyết định để hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ là nâng cao chất lượng lãnh đạo và tăng cường sức chiến đấu của Đảng, khắc phục những nhân tố tiêu cực trong Đảng, làm cho Đảng trong sạch. Đảng phải đi sâu vào mặt trận kinh tế, nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo kinh tế. Đồng chí đã chỉ đạo Thành ủy đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng theo phương pháp: công tác tư tưởng, tổ chức phải gắn liền với thực tiễn sôi động, nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên ở cả nơi sản xuất, công tác và nơi cư trú. Nghiêm túc và thẳng thắn, thấy rõ khuyết điểm của Đảng bộ “chưa tập trung đúng mức vào việc cải tạo và xây dựng Thủ đô; chỉ đạo chưa nhạy bén, quản lý mang nặng tính chất hành chính bao cấp” [6][6] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy., Đồng chí đề cao vai trò của tổ chức cơ sở đảng và mỗi đảng viên trong cuộc đấu tranh quyết liệt chống quan liêu, bảo thủ hoặc hô hào suông: để nghị quyết đi vào cuộc sống, các tổ chức cơ sở đảng và mỗi đảng viên “phải có ý chí chiến đấu kiên cường, nhạy bén với các vấn đề mới do cuộc sống đặt ra, có đủ kiến thức để cụ thể hóa các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong thực tế, chứ không chỉ ra nghị quyết, nêu khẩu hiệu. Muốn thế, các đảng viên phải có tinh thần hy sinh tận tuỵ, dũng cảm đấu tranh, bền bỉ học tập để nâng cao trình độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Phải loại ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội trục lợi, sút kém ý chí chiến đấu, thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, không quan tâm đầy đủ đến lợi ích của quần chúng” [7][7] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực trong nội bộ Đảng là một cuộc sát hạch năng lực, phẩm chất, bản lĩnh người cộng sản trong cuộc chiến đấu chống đói nghèo và chống những viên đạn bọc đường cám dỗ, tư lợi, cậy chức, cậy quyền, quan liêu, không dân chủ với nhân dân.
Đồng chí là tấm gương sáng, quy tụ và đoàn kết tập thể Ban Thường vụ và tập thể Thành ủy. Khi nghe dân phản ánh thiếu nước, mất điện nhiều, đồng chí đã trực tiếp xuống ngay tận nơi cơ sở tìm hiểu nguyên nhân, chỉ đạo bàn cách khắc phục để nhân dân có điện, nước sinh hoạt. Các đồng chí trong Ban Thường vụ Thành ủy thời kỳ đó đã quen với hình ảnh một đồng chí Bí thư thường xuyên thức khuya để cùng tính toán, cân đối lương thực từng tuần, từng tháng cho các quận, huyện. Đồng chí nói với mọi người thật giản dị, chân thành: “Dẫu ta vất vả đến mấy nhưng lương thực được đảm bảo cho đồng bào, đấy là hạnh phúc”. Đến dự sinh hoạt chi bộ cơ sở, thấy đồng chí bí thư chi bộ thường cáo bận, vắng mặt, đồng chí đề nghị Thành uỷ có biện pháp ngay, do đó, ngày sinh hoạt chi bộ đã được quy định vào ngày 03 hàng tháng. Đến nay, lịch trên vẫn được duy trì trong toàn Đảng bộ thành phố [8][8] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 222..
Đối với cơ quan Thành ủy và Ủy ban nhân dân thành phố, để cải tiến lề lối làm việc, đồng chí yêu cầu trước hết, phải đổi mới từ chính lối suy nghĩ “ra nghị quyết là tròn nhiệm vụ”: “Phải chống một quan niệm hình như cho rằng: cơ quan lãnh đạo ra nghị quyết, hoặc tổ chức một hội nghị cán bộ thông báo nghị quyết, thế là đã tròn nhiệm vụ... Vấn đề cơ bản vẫn là phải biến nghị quyết thành hành động cách mạng thực tiễn của đông đảo quần chúng nhân dân để cải biến tình hình, đưa cách mạng tiến lên. Đó là một vấn đề phải dứt khoát để thanh toán hiện tượng một số nghị quyết không thực hiện được hoặc thực hiện “đầu voi đuôi chuột” [9][9] Đề nghị về cải tiến lề lối lãnh đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy..
Từ yêu cầu khách quan của nhiệm vụ và để đưa nghị quyết Đảng vào cuộc sống có hiệu quả, chống bệnh thành tích, phô trương, trong đó công tác cán bộ là yếu tố có tính quyết định, nên được đồng chí hết sức quan tâm. Cẩm nang hành động để đi đến thắng lợi của người cán bộ lãnh đạo mà đồng chí đã tâm huyết đúc rút là:
- Phải tích cực làm nhiệm vụ đảng viên, trung thực, đoàn kết.
- Lối ra cơ bản trước khó khăn là: gặp bất kỳ khó khăn nào cũng phát huy trí tuệ của tập thể, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên.
- Hết sức phát huy trí sáng tạo của đông đảo quần chúng, nắm vững phương châm: dựa vào quần chúng sẽ giải quyết được mọi việc.
- Định ra chương trình, kế hoạch làm việc tốt. Chọn đúng mắt xích để giải quyết tập trung dứt điểm, phát huy các điển hình tiên tiến trong địa phương”
Những đúc rút trên cũng chính là phẩm chất của người cán bộ suốt đời vì dân, vì Đảng. Đồng chí là tấm gương “phấn đấu sống, làm việc và đấu tranh như một người cộng sản mẫu mực” [11][11] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 80. như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng viết và để lại bao tình cảm ấp áp, nghĩa tình trong lòng đồng chí, đồng bào ở những nơi đồng chí công tác, đến thăm.
Tận tụy, trung thành cống hiến cho dân, cho Đảng, ngày 31/8/1989, đồng chí Lê Văn Lương đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Đồng chí còn được tặng Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng và nhiều Huân, Huy chương cao quý khác.
Đồng chí Lê Văn Lương, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa 17 năm (Đồng chí từ trần ngày 25/4/1995 tại Bệnh viện Quân y 108, Hà Nội, thọ 83 tuổi), nhưng hình ảnh và đạo đức cách mạng sáng ngời của đồng chí còn đọng lại mãi trong tâm trí mỗi người. Giáo sư Vũ Khiêu đã viết đôi câu đối trước di ảnh của đồng chí:
15 tuổi lên đường chính khí vươn cao trời biển rộng
70 năm cùng Đảng, công huân rực sáng cổ thu soi
Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Đồng chí, noi gương người cán bộ ưu tú của Đảng, chúng ta càng thấm thía sâu sắc khi đọc những di cảo Đồng chí để lại nhân kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập Đảng 03/2/1990: “Tất cả cán bộ đảng viên chúng ta cần đem những gì tốt đẹp nhất của mình đóng góp cho sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp của Đảng... Phải nâng cao củng cố Đảng, xây dựng Đảng thật vững mạnh, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng do Đảng đề ra. Đây là thái độ đúng đắn nhất cần xác định nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng quang vinh của chúng ta” [12][12] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 73..
Là một trong những đảng viên cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa II, III, IV, V. Gần 70 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí Lê Văn Lương thể hiện tấm gương của một chiến sĩ cộng sản mẫu mực, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, luôn trung thành, tận tụy với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào, đồng chí đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng chí là một cán bộ có ý thức tổ chức kỷ luật rất cao, sống trung thực, giản dị, hòa nhã với mọi người, luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến của đồng chí, của nhân dân.
Nhân cách cao đẹp của đồng chí: tận tình, gương mẫu, dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân, với đức tính thanh liêm, trung thực, chân thành, bao dung với đồng chí, bạn bè... là một mẫu mực cho mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta học tập và nâng cao đạo đức cách mạng, phát huy tính tiên phong, sức chiến đấu và năng lực của người đảng viên để góp phần thiết thực vào công tác xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Tấm gương sáng của đồng chí Lê Văn Lương về phẩm chất, đạo đức người đảng viên cộng sản, người cán bộ lãnh đạo vẫn đang hết sức có ý nghĩa thời sự, khi mà toàn Đảng, toàn dân ta đang đẩy mạnh “Học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh”, đang chuẩn bị triển khai, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”./.
---------------------
❖ Ủy viên BTV Thành ủy, Trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội.
[1] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng. Nxb. CTQG; H.2000, tr.103.
[2] Ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương gửi Thường vụ Hội đồng Chính phủ. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[3] Tài liệu về đồng chí Lê Văn Lương. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy Hà Nội.
[4] Một số ý kiến của đồng chí Lê Văn Lương bổ sung về nhiệm vụ công tác của Thành phố năm 1984. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[5] Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ X (1986).
[6] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[7] Bài phát biểu của đồng chí Lê Văn Lương tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[8] Lê Văn Lương, trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 222.
[9] Đề nghị về cải tiến lề lối lãnh đạo của Thành ủy và Ủy ban nhân dân Thành phố. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[10] Tài liệu về đồng chí Lê Văn Lương. Lưu trữ Văn phòng Thành ủy.
[11] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 80.
[12] Lê Văn Lương, Trọn đời vì sự nghiệp của Đảng, tr. 73.
✯✯✯
0 nhận xét:
Post a Comment