Khí phách Nguyễn Tài
TS PHAN VĂN HOÀNG
NGUYỄN TÀI
- Tên thật: Nguyễn Tài Đông.
- Bí danh: Tư Trọng, Tư Duy, Ba Sáng.
- Sinh năm 1926.
- Quê quán: làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
- Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng (cha là nhà văn Nguyễn Công Hoan, đảng viên; chú là Nguyễn Công Miều (tức Lê Văn Lương), Ủy viên Bộ Chính trị; chú là Nguyễn Công Bông bị đày lên Sơn La; anh ruột là Nguyễn Tài Khoái hy sinh năm 1947…). Trong kháng chiến chống Pháp, gia đình có 6 người hy sinh.
- Tham gia cách mạng khá sớm, vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 3-1945.
- Trong kháng chiến chống Pháp, làm Trưởng ty Công an Hà Nội, rồi Giám đốc Sở Công an đặc khu Hà Nội.
- Tháng 9-1958, ông là Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị (Bộ Công an).
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có hàng trăm ngàn người Việt Nam yêu nước bị Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt bớ, giam cầm, tù đày, nhưng ông Tài là người được các tác giả Mỹ đề cập tới nhiều nhất.
Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) ứng dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào phương pháp thẩm vấn và khai thác thông tin từ những người bị bắt. Họ không thể tin rằng một người Việt Nam ở tuổi tứ tuần, có sức khỏe trung bình, lại có thể chịu đựng nổi những nhục hình và nhất là những tra tấn về tinh thần và tâm lý ở Trung tâm thẩm vấn quốc gia trong hơn 4 năm trời. “Cuối cùng - như tác giả Otterman kết luận - Tài đã đánh bại các phương pháp của KUBARK [mật danh của CIA] vì đã giữ vững thế chủ động cả về thể chất lẫn tinh thần”(6, trang 66)(1). Tuy không chia sẻ lập trường chính trị của ông, các tác giả Mỹ vẫn dành cho ông nhiều từ tốt đẹp như “một cán bộ Cộng sản tận tâm” (a dedicated Communist cadre)(4), “kiên quyết” (determined)(10), “một người từng trải, thông minh, được đào tạo tốt” (sophisticated, intelligent, well-educated man)(11), “một người cứng cỏi không dễ gì làm suy yếu” (a tough nut to crack)(9)…
Cách đây vài năm, đoàn cựu cán bộ chiến sĩ Ban An ninh T4 từ TP.Hồ Chí Minh ra Hà Nội thăm thủ trưởng Nguyễn Tài. Ở tuổi gần 90, ông ngồi trên xe lăn tiếp chúng tôi. Đầu óc vẫn minh mẫn, trí nhớ vẫn tốt, ông hỏi thăm những người từng hoạt động với ông trong kháng chiến. Trước lúc chúng tôi ra về, ông viết thư đề nghị ban lãnh đạo Công an thành phố quan tâm đến những cán bộ chiến sĩ An ninh đã nghỉ hưu đang gặp khó khăn. Tính ông là vậy, luôn chăm lo chu đáo mọi người. Đối với địch, ông kiên quyết bao nhiêu thì đối với đồng đội, ông luôn thân ái, nghĩa tình.
Chúng tôi vẫn thường nói: Đúng như bí danh TƯ TRỌNG của anh Tài, anh có bốn đức tính khiến mọi người đều quý trọng anh, đó là: suốt đời hy sinh vì dân vì nước, sống trong sáng mẫu mực, có năng lực nghiệp vụ an ninh và khí phách anh hùng.
Hôm nay, hay tin ông thanh thản ra đi, trong niềm tiếc thương vô hạn, chúng tôi xin nói về khí phách của người thủ trưởng đáng kính.
Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA) ứng dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại vào phương pháp thẩm vấn và khai thác thông tin từ những người bị bắt. Họ không thể tin rằng một người Việt Nam ở tuổi tứ tuần, có sức khỏe trung bình, lại có thể chịu đựng nổi những nhục hình và nhất là những tra tấn về tinh thần và tâm lý ở Trung tâm thẩm vấn quốc gia trong hơn 4 năm trời. “Cuối cùng - như tác giả Otterman kết luận - Tài đã đánh bại các phương pháp của KUBARK [mật danh của CIA] vì đã giữ vững thế chủ động cả về thể chất lẫn tinh thần”(6, trang 66)(1). Tuy không chia sẻ lập trường chính trị của ông, các tác giả Mỹ vẫn dành cho ông nhiều từ tốt đẹp như “một cán bộ Cộng sản tận tâm” (a dedicated Communist cadre)(4), “kiên quyết” (determined)(10), “một người từng trải, thông minh, được đào tạo tốt” (sophisticated, intelligent, well-educated man)(11), “một người cứng cỏi không dễ gì làm suy yếu” (a tough nut to crack)(9)…
Cách đây vài năm, đoàn cựu cán bộ chiến sĩ Ban An ninh T4 từ TP.Hồ Chí Minh ra Hà Nội thăm thủ trưởng Nguyễn Tài. Ở tuổi gần 90, ông ngồi trên xe lăn tiếp chúng tôi. Đầu óc vẫn minh mẫn, trí nhớ vẫn tốt, ông hỏi thăm những người từng hoạt động với ông trong kháng chiến. Trước lúc chúng tôi ra về, ông viết thư đề nghị ban lãnh đạo Công an thành phố quan tâm đến những cán bộ chiến sĩ An ninh đã nghỉ hưu đang gặp khó khăn. Tính ông là vậy, luôn chăm lo chu đáo mọi người. Đối với địch, ông kiên quyết bao nhiêu thì đối với đồng đội, ông luôn thân ái, nghĩa tình.
Chúng tôi vẫn thường nói: Đúng như bí danh TƯ TRỌNG của anh Tài, anh có bốn đức tính khiến mọi người đều quý trọng anh, đó là: suốt đời hy sinh vì dân vì nước, sống trong sáng mẫu mực, có năng lực nghiệp vụ an ninh và khí phách anh hùng.
Hôm nay, hay tin ông thanh thản ra đi, trong niềm tiếc thương vô hạn, chúng tôi xin nói về khí phách của người thủ trưởng đáng kính.
❀ ❀ ❀
Năm 1964, tổng thống mới của Mỹ là Lyndon B. Johnson bắt đầu leo thang chiến tranh ở miền Nam và chuẩn bị mở rộng chiến tranh ra miền Bắc.
Đang làm Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị (Bộ Công an), Nguyễn Tài xin vào miền Nam trực tiếp chiến đấu (21-3-1964). Ông “là người có cấp cao nhất trong ngành công an từ trước đến lúc đó đi Nam”(1, tr.153).
Vào miền Nam, ông trở thành Ủy viên Ban An ninh của Trung ương cục miền Nam, trực tiếp làm Phó (1965), rồi Trưởng (1966) ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định, Ủy viên, rồi Ủy viên Thường vụ Thành ủy. Trong các cương vị đó, ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định thành một lực lượng vững mạnh, được Nhà nước khen thưởng danh hiệu Đơn vị anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân.
Trong các trung tâm thẩm vấn của Thiệu (12/1970 - 10/1971)
Không may, ngày 23-12-1970, trên đường đi dự một cuộc họp của Thường vụThành ủy Sài Gòn - Gia Định, ông bị bắt trong địa phận tỉnh Bến Tre. Địch phát hiện giấy căn cước giả nên đưa ông đi thẩm vấn nhiều nơi: Bến Tre, Cần Thơ, My ̃Tho.
Về sau, để không ảnh hưởng tới tổ chức và nhân sự của Thành ủy và Ban An ninh T4, ông đánh lạc hướng đối phương bằng cách tạo ra một lý lịch giả, tự nhận là Nguyễn Văn Hợp, đại úy tình báo miền Bắc, mới vào Nam tháng 11-1970 [một tháng trước khi bị bắt], bị bắt trên đường đi Hồng Ngự để được Cục tình báo giao nhiệm vụ cụ thể.
Vì vậy, ngày 7-1-1971, Nguyễn Tri Tông “làm việc ở Phủ đặc ủy trung ương tình báo, từng được CIA huấn luyện thành thẩm vấn viên (…) được lệnh sử dụng trực thăng riêng của đại sứ Bunker dẫn độ[ông] từ trại Đồng Tâm (Mỹ Tho) về Sài Gòn (…) trong một chuyến bay đêm”(3), đưa về giam tại Trung tâm thẩm vấn quốc gia, số 3, bến Bạch Đằng (nay là đường Tôn Đức Thắng).
Se Portland viết: “Người [của chính quyền] Nam Việt Nam tra tấn ông hàng tháng trời nhưng vẫn không tìm ra được điều gì thêm về lý lịch của ông”(10).
Merle L. Pribbenow, một chuyên viên CIA, cũng thừa nhận những lời khai của ông “chẳng tiết lộ bất cứ điều gì có thể làm hại đến sự nghiệp của ông ta”(11).
Frank Snepp, một chuyên viên CIA khác, nhận xét: “Phần lớn những gì ông khai báo chỉ la ̀những thông tin giả của một câu chuyện che giấu được ông dựng lên một cách khéo léo”(12).
Giữa lúc ông thành công trong việc che giấu lý lịch của mình thì các đồng chícủa ông bên ngoài vô tình làm lộ tung tích của ông.
Lê Thanh Vân (bí danh Ba Tâm, Sáu Ngọc), Phó trưởng ban An ninh T4, gửi thư cho Hai Tân, cán bộ điệp báo trong nội thành Sài Gòn, yêu cầu tìm nơi ông đang bị giam giữ và dùng tiền để ông được tự do, “mấy triệu đồng cũng đưa”. Không may, Hai Tân bị bắt cùng với bức thư.
Qua sự cố này, Mỹ- Thiệu rút ra hai nhận định: ông là người của ngành an ninh (chứ không phải của ngành tình báo) và là cán bộ quan trọng nên tổchức của ông sẵn sàng chi một số tiền lớn.
Địch không còn tin ở lý lịch “Đại úy tình báo Nguyễn Văn Hợp” nữa. Chúng đưa ông sang trụ sở ban U trên đường Trần Bình Trọng để tra tấn. Pribbenow kể: “Chúng cho điện giật, dùng dùi cui đánh ông, đổ nước vào mũi trong khi nhét giẻ vào miệng (…), cho nước nhỏ từng giọt chầm chậm xuống mũi trong nhiều ngày liên tục, trói ông vào một ghế đẩu nhiều ngày không cho ăn uống, trong khi vẫn hỏi cung suốt ngày đêm”(11). Song song với việc dùng nhục hình, chúng ra sức dụ dỗ, lừa phỉnh như hứa sẽ gửi ông sang Nhật Bản để chữa bệnh và cấp cho ông một số tiền lớn cùng một ngôi biệt thự ở Thụy Sĩ… Mọi thủ đoạn đều không mang lại hiệu quả.
Chúng bèn chụp hình ông rồi đưa đến các nhà lao như Tân Hiệp (Biên Hòa), Côn Đảo, Phú Quốc… cho những người tù từng công tác trong ngành an ninh của ta xem. Một tên đầu hàng, từng làm việc dưới quyền ông, xác nhận người trong hình là Nguyễn Tài, cho biết bí danh và chức vụ của ông trong Ban An ninh T4 và trong Thành ủy. Tên phản bội liền được đưa về Sài Gòn để nhận diện ông.
Nhưng, theo Pribbenow, “Tài vẫn giữ nguyên câu chuyện che giấu của ông”(11), chỉ nhận mình là Nguyễn Văn Hợp. Địch lại tiếp tục tra tấn ông.
Tháng 6-1971, chúng trưng thêm hai chứng cứ mới: thư do ông viết vào đầu năm 1970 gửi cho Lê Thanh Vân (mà chúng tịch thu được trong một trận càn vào xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) và tấm hình ông đi trong phái đoàn của Bác Hồ thăm đền Borobudur (Indonesia).
Địch nói: chúng chỉ cần ông xác nhận lý lịch nhằm thực hiện việc trao đổi ông để nhận lại mấy đại tá tình báo của chúng bị ta bắt giữ.
Đến lúc đó, ông mới nhận những chi tiết mà địch đã biết: “Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, cấp bậc đại tá, đang phục vụ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam”(1, tr.114). Thật ra, vào thời điểm đó, cán bộ an ninh của ta chưa có quân hàm, cấp bậc đại tá là do địch gán cho ông, ông nhận một điều không đúng sự thật nhằm buộc địch công nhận ông là tù binh.
Vẫn theo Pribbenow, chúng đòi “ông cung cấp thêm chi tiết về tiểu sử và quá trình hoạt động của ông. Ông từ chối và chúng tiếp tục tra tấn”(11). Ngoài các biện pháp nhục hình cũ, chúng dùng nhiều thủ đoạn mới độc hại hơn nhằm làm ông kiệt sức, lả người, rơi vào trạng thái mê sảng. Lợi dụng lúc ông không còn làm chủ suy nghĩ, chúng bắt đầu hỏi cung, hy vọng ông có thể lỡ lời tiết lộnhững bí mật có hại cho tổ chức và đồng đội của ông. Michael Otterman kể: “Bất chấp tra tấn, Tài vẫn im lặng”(5, tr.65). Về sau, ông nghĩ ra cách đối phó: trả lời tất cả các câu hỏi cung bằng một câu duy nhất: “Quên rồi”.
Chúng càng tra tấn dữ dội hơn, nhưng theo Alfred W. McCoy, “ngay cả như vậy, các thẩm vấn viên [của chính quyền] Nam Việt Nam đã thất bại”(4, tr.70).
Đối mặt với CIA
Otterman kể tiếp: “Tài có thể đã chết vì bị tra tấn như thế, nhưng mùa thu năm 1971, chính phủ Bắc Việt Nam đề nghị trao đổi ông với một viên chức ngoại giao Mỹ bị bắt từ 1966. Bỗng dưng Tài trở thành một con bài sáng giá trong các cuộc thương thuyết về con tin của Mỹ”(6, tr.65).
Người thực hiện đề nghị này là Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Gia Định Trần Bạch Đằng. Ngày 9-10-1971, ta phóng thích John Sexton để viên trung sĩ Mỹ này chuyển cho đại sứ Ellsworth Bunker bức thư đề nghị trao đổi ông Tài với Douglas K. Ramsey. Sau khi cân nhắc, phía Mỹ không chịu, vì họ cho Tài, “sĩ quan cao cấp nhất của đối phương bị Mỹ bắt”(12) có giá trị cao hơn Ramsey nhiều.
Qua đề nghị trao đổi này của ta, Cơ quan Tình báo trung ương của Mỹ “nhận thức được giá trị của Tài”(12) nên giành lấy quyền thẩm vấn ông từ tay tổ chức tình báo của Thiệu. Lần lượt CIA cử hai chuyên viên thẩm vấn có trình độ cao là Peter Kapusta và Frank Snepp(2) từ Mỹ sang để trực tiếp tiến hành việc hỏi cung ông Tài.
Khác với các thẩm vấn viên của Thiệu, các chuyên gia CIA không dùng nhục hình làm biện pháp duy nhất. Theo McCoy, CIA sử dụng “những kỹ thuật tra tấn tinh vi”(5, tr.221), “kết hợp các kỹ thuật cả về thể xác lẫn tâm lý trong một phương pháp cùng cực”(4, tr.71).
Việc đầu tiên của CIA là xây một xà lim đặc biệt ngay trong khuôn viên Trung tâm thẩm vấn quốc gia, một xà lim có một không hai trong chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam.
Xà lim hình vuông, mỗi cạnh 2 mét. Các bức tường đều sơn trắng toát khiến tinh thần người tù luôn bị căng thẳng; trần gắn 5 ngọn đèn thắp sáng choang 24/24 giờ nhằm làm cho người tù mất khái niệm về thời gian. Xà lim kín mít khiến người tù “không bao giờ thấy ánh sáng bình minh của ngày mới”(12), chỉ có một lỗ nhỏ trên cánh cửa ra vào để đưa thức ăn. Tường và cửa đều dày, cách âm, người bên trong không nghe tiếng động bên ngoài. Trên trần có gắn máy thu âm và thu hình ngày đêm truyền hình ảnh và âm thanh sang phòng bên cạnh để các cai ngục có thể bí mật theo dõi mọi hành động và cử chỉ của người tù. Ngoài ra, còn có hệ thống máy lạnh mở ở công suất cao(12) vì CIA biết ông Tài chịu lạnh kém.
Snepp gọi ông là “Người trong xà lim trắng toát” (The Man in the Snow White Cell), xem xà lim đặc biệt đó là “môi trường làm mất phương hướng” (disorienting environment)(12). Theo McCoy, bị biệt giam ở đó trong thời gian dài, người tù bị “một sức ép tâm lý mãnh liệt”(5, tr.221) khiến nhận thức của họ bị rối loạn và có thể tiết lộ thông tin một cách vô ý thức.
Snepp kể: Nhằm “làm cho Tài mất phương hướng nhiều hơn nữa, tôi thay đổi giờ ăn điểm tâm của ông ta sang nửa đêm, dời bữa ăn trưa vào buổi sáng sớm, bởi vì Tài đã tự thích nghi với thế giới của ông [tức xà lim đặc biệt] nên có thể biết được giờ giấc nhờ hệ hóa học trong thân thể của ông.
Tôi dùng một kỹ thuật thẩm vấn theo đó tôi cắt ngang một cuốn phim rồi cho nhảy từ cảnh này sang cảnh khác, đột ngột thay đổi từ đề tài này sang đề tài khác không có liên quan gì với nhau, nhằm khiến ông ta không thể biết chắc sắp tới là cái gì, hay không thể nhớ những gì ông ta đã nói hay chưa nói với tôi”(12).
McCoy còn cho biết thêm: “Snepp thay đổi giờ giấc thẩm vấn một cách lộn xộn để làm sai lạc đồng hồ nội tâm của Tài”(4, tr.70).
So với các nhục hình của các thẩm vấn viên của Thiệu, cách hỏi cung bằng tra tấn tinh thần và tâm lý của các chuyên viên CIA tinh vi hơn, độc ác hơn.
Nguyễn Tài tìm cách chống lại các thủ đoạn “làm mất phương hướng” của các thẩm vấn viên CIA. Theo Otterman, “ông tự động thức dậy lúc 6 giờsáng mỗi ngày. Lúc đó, ông hát thầm quốc ca của Bắc Việt Nam, tập các động tác thể dục đơn giản, sáng tác các bài thơ, bài hát trong đầu, chào một ngôi sao mà ông vẽ trên tường xà lim tượng trưng cho quốc kỳ của Bắc Việt Nam. Ông lặp đi lặp lại những sinh hoạt đó trong ngày và đi ngủ vào lúc 10 giờ tối mỗi ngày”(6, tr.66). Otterman kết luận: “Cuối cùng, Tài đã đánh bại các phương pháp của KUBARK [mật danh của CIA] vì đã giữ vững thế chủ động cả về thể chất lẫn tinh thần”(6, tr.66).
Pribbenow cho rằng Tài đã chơi “một trò chơi trí tuệ thông minh”(11). Trong hồi ký của mình, ông Tài thuật lại: “Bề ngoài, tôi trả lời hỏi cung, nhưng về nội dung, từ nhân vật cho đến công việc, tôi đều cố ý bịa đặt khác với sự thật để đánh lạc hướng địch, gây rối cho chúng”, ông gọi đó là cách “trả lời hỏi cung để tung tin giả”(2, tr.210).
McCoy thừa nhận điều đó: “Phần lớn những thông tin mà ông khai cólẽ chỉ là những thông tin bị làm sai lạc một cách có tính toán”(5, tr.221). Do đó, theo Otterman, “trong ba năm… các thẩm vấn viên CIA vật lộn với Tài nhưng không thu được hiệu quả”(6, tr.66).
Frank Snepp kết luận: cho đến 30-4-1975, “Tài đã trải qua hơn bốn năm bị biệt giam trong xà lim nhưng ông chưa từng khai nhận một cách đầy đủ ông là ai”(8).
Từ cõi chết, chiến thắng trở về
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký. Một tuần lễ sau, ngày 3-2, Snepp mới báo cho ông Tài biết. “Ông ngồi một lát, run rẩy vì hơi lạnh của máy điều hòa không khí, rồi nói với Snepp bằng tiếng Pháp: ‘Nếu điều anh nói với tôi là thật thì đây là ngày hạnh phúc nhất của đời tôi’”(6, tr.66).
Theo Hiệp định Paris, hai bên trao trả cho nhau tù binh và tù dân sự. Nhưng Mỹ- Thiệu vi phạm trắng trợn hiệp định, tiếp tục giam giữ nhiều người (trong đó có ông Tài) đến tận 30-4-1975, tức thêm 2 năm 3 tháng nữa(3). Ông gọi đùa những năm tháng đó là thời gian “bị tù dư”(1, tr.223).
Địch lấy cớ trao trả tù binh để tiếp tục hỏi cung. Ông kiên quyết phản đối: “Nếu trong việc làm thủ tục để trao trả tùbinh, có gì cần làm thì tôi làm. Ngoài ra, thì không làm gì hết (…). Các ông không còn có quyền hỏi cung tôi nữa. Tôi cũng không chấp nhận việc hỏi cung và không trả lời hỏi cung nữa”(2, tr.219).
Thấy địch không nói tới chuyện trao trả, ông viết thư gửi “nhà đương cục Hoa Kỳ chịu trách nhiệm trao trả tù binh theo Hiệp định Paris… đòi phải tuyên bố rõ việc trao trả… Trong khi chờ đợi trả lời thì tôi giảm ăn”(2, tr.227). Ông tự giảm khẩu phần xuống còn ½, rồi ¼ trong suốt 70 ngày. Khi thấy cách đấu tranh này không hiệu quả, ông mới ăn uống trở lại bình thường.
Cuối năm 1974, ông gửi lá thư thứ hai cho “nhà đương cục Mỹ và Việt Nam Cộng hòa” yêu cầu trao trả theo đúng Hiệp định Paris.
Ngày 26-4-1975, khi 5 cánh quân của ta sắp tiến vào giải phóng Sài Gòn, “một viên chức cao cấp của CIA gợi ýcho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cần làm cho Nguyễn Tài biến mất”(7) để tránh việc “Tài được giải thoát bởi các đồng chí chiến thắng của ông ta”(11). Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh sát quốc gia kiêm Đặc ủy trưởng Phủđặc ủy trung ương tình báo, ra lệnh cho số cầm đầu Trung tâm thẩm vấn quốc gia thủ tiêu ông Tài theo lệnh của CIA. Tuy nhiên, theo Pribbenow, “lệnh đến quá trễ. Tất cả các viên chức cao cấp của Phủ đặc ủy trung ương tình báo đang tìm cách chạy trốn khỏi Nam Việt Nam”(11). Bản thân các viên chức CIA - trong đó có Frank Snepp - cũng lo tháo chạy thoát thân. Hai năm sau, 1977, trong lúc quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang gián đoạn, Snepp hoàn toàn không có tin tức gì về ông Tài, yên chí là Nguyễn Khắc Bình đã thi hành lệnh của CIA, nên anh ta viết trong hồi ký: “Tài bị đưa lên một máy bay và bị ném xuống biển Đông ở độ cao 1.000 feet”(7). Sự thật không phải vậy. Pribbenow cho biết: “Các nhân viên cấp dưới [của Trung tâm thẩm vấn quốc gia] sợ bị trừng phạt nếu những người Cộng sản chiến thắng biết họ đã giết Tài”(11), do đó họ “không dám thi hành [lệnh thủ tiêu] vì sợ mang thêm tội với Cách mạng”(2, tr.260).
Trưa ngày 30-4-1975, một tiểu đoàn thuộc Quân đoàn IV tiến vào Sài Gòn, chiếm Phủ đặc ủy trung ương tình báo. Ông Tài được giải thoát khỏi xà lim trắng toát sau 4 năm 4 tháng 10 ngày bị biệt giam.
Ngay sau đó, ông đi gặp Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, được công nhận đảng tịch liên tục, được phân công làm Ủy viên Thường vụ Thành ủy, phụ trách Trưởng ban An ninh của thành phố Sài Gòn - Gia Định mới giải phóng. Chỉ vài ngày sau, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn (mới ở Hà Nội vào) đã đến thăm ông. Sau mấy tháng ra Bắc rồi sang Cộng hòa Dân chủ Đức để kiểm tra sức khỏe và chữa bệnh, ông về làm việc ở Bộ Công an (lúc đó gọi là Bộ Nội vụ). Đầu năm sau, được đề bạt chức Thứ trưởng.
Ngày 23-12-1988 - đúng 13 năm sau ngày ông bị bắt - Ban Bí thư Trung ương Đảng ra văn bản số570 khẳng định: “Đồng chí Nguyễn Tài đã có tinh thần chịu đựng sự tra tấn dã man của địch, khôn khéo đối phó với địch, bảo vệ cơ sở và những bí mật của Đảng mà mình biết”(4).
Cô ́Thu ̉tướng Võ Văn Kiệt, người từng có thời gian hoạt động chung với ông trên chiến trường miền Nam, nhận định: “Quá trình hoạt động cũng như quá trình đấu tranh kiên trung, mưu trí khi bị địch bắt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của đồng chí Nguyễn Tài cho thấy đồng chí thực sự xứng đáng là một anh hùng”(5).
Nhận định đó được đông đảo đồng bào, đồng chí tán thành.
Giữa năm 2002, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân và sau đó được tặng thưởng Huân chương Hồ ChíMinh.
Đó la ̀những phần thưởng cao quý mà Tổquốc dành cho người cán bộ An ninh cókhí phách anh hùng khiến đối phương cũng phải nể trọng.
_____
(1) Số 6 ứng với cuốn American Torture: From the Cold War to Abu Ghraif and Beyond (xem mục “Sách báo tham khảo” ở cuối bài).
(2) Sau mấy tháng hỏi cung mà không moi được thông tin gì mới, Peter Kapusta lấy lý do “vợ bị tai nạn ô tô bên Mỹ” để xin về nước. Frank Snepp được cử sang thay.
(3) Trong khi đó, ta trao trả Douglas Ramsey sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực.
(4) (5) Báo điện tử Thể Thao Văn Hóa (thethaovanhoa.vn), ngày 5-6-2010.
Sách báo tham khảo
A. Tiếng Việt:
1. Nguyễn Tài, Về với cội nguồn, NXB Công An Nhân Dân, Ha ̀Nội, 1977.
2. Nguyễn Tài, Đối diện với CIA Mỹ, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1999.
3. Phan Thanh Tâm, Người tù trong phòng giam tuyết trắng, www.gio-o.com/Tet/2014phanthanhtamnguyentai.htm.
B. Tiếng Anh:
4. Alfred W. McCoy, A Question of Torture: CIA Interrogation from the Cold War to the War on Terror, NXB Owl Books, New York, 2006.
5. Alfred W. McCoy, Torture and Impunity: The U.S. Doctrine of Coercive Interrogation, University of Wisconsin Press, Madison, 2012.
6. Michael Otterman, American Torture: From the Cold War to Abu Ghraif and Beyond, Melbourne University Publishing, 2007.
7. Frank Snepp, Decent Interval, an Inside Account of Saigon’s Indecent End Told by the CIA’s Chief Strategy Analyst in Vietnam, NXB Random House, New York, 1977.
8. Douglas Valentine, The Phoenix Program: America’s Use of Terror in Vietnam, NXB Open Road Integrated Media, New York, 2004.
9. Hugh D. S. Greenway, The “White Room” Revisited, báo điện tử The New York Times (nytimes.com), ngày 13-5-2005.
10. Se Portland, The White Cell, báo điện tử Daily Kos (dailykos.com), ngày 27-9-2006.
11. Merle L. Pribbenow, The Man in the Snow White Cell - Limits to Interrogation, trang web của CIA (www.cia.gov/library).
12. Frank Snepp, Tortured by the Past, báo điện tử Los Angeles Times (latimes.com), ngày 27-4-2009.
13. Jason Vest, CIA Veterans Speak Out Against Torture, báo điện tử Government Executive (touch.govexec), ngày 23-11-2005.
-------------------
FRANK SNEPP
* Sinh năm 1943 tại Kinston, bang Bắc Carolina, Mỹ.
* Tốt nghiệp Đại học Columbia.
* Làm việc cho CIA từ 1968, tự nhận là “một trong những chuyên gia của CIA thông thạo nhất về chính sách và chiến lược của Bắc Việt Nam”(12). Được CIA cử sang thẩm vấn Nguyễn Tài từ tháng 10-1972 đến cuối tháng 4-1975. Được thưởng Huân chương công trạng về tình báo (Intelligence Medal of Merit) (16-12-1975).
Hugh D. S. Greenway kể: “Sau chiến tranh [ở Việt Nam], Snepp rời khỏi CIA, nhưng anh ta không thể đưa Tài ra khỏi tâm trí của mình”(9). Có hai lý do:
1. Trong gần 1.000 ngày đêm hỏi cung, Snepp đã sử dụng phương pháp thẩm vấn khủng khiếp của CIA. Trong bài viết nhan đề Bị quá khứ tra tấn (Tortured by the Past) đăng trên báo Los Angeles Times ngày 27-4-2009, Snepp thú nhận “vẫn còn bị ám ảnh bởi những gì tôi đã làm”(12).
2. Cũng trong bài báo ấy, Snepp viết: “Cuộc thẩm vấn Nguyễn Tài là cuộc thẩm vấn nhiều thách thức nhất của tôi”. Năm 1977, Snepp dành hẳn một chương trong hồi ký Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) để viết về ông Tài. Chưa biết chuyện ông Tài đã chiến thắng trở về từ cõi chết, Snepp kể: ông Tài “đã bị hành quyết chỉ vài giờ trước khi lực lượng cộng sản tiến vào Sài Gòn” (tr.571). Vẫn theo Greenway, Snepp “sang Paris để nói với phái bộ Việt Nam [ở Pháp] rằng Tài đã xử sự một cách đáng kính trọng và đã chết một cách dũng cảm”.
Hiếm thấy một người tù nào lại được kẻ hỏi cung giữ nhiều ấn tượng sâu sắc đến thế.
McCoy thừa nhận điều đó: “Phần lớn những thông tin mà ông khai cólẽ chỉ là những thông tin bị làm sai lạc một cách có tính toán”(5, tr.221). Do đó, theo Otterman, “trong ba năm… các thẩm vấn viên CIA vật lộn với Tài nhưng không thu được hiệu quả”(6, tr.66).
Frank Snepp kết luận: cho đến 30-4-1975, “Tài đã trải qua hơn bốn năm bị biệt giam trong xà lim nhưng ông chưa từng khai nhận một cách đầy đủ ông là ai”(8).
Từ cõi chết, chiến thắng trở về
Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký. Một tuần lễ sau, ngày 3-2, Snepp mới báo cho ông Tài biết. “Ông ngồi một lát, run rẩy vì hơi lạnh của máy điều hòa không khí, rồi nói với Snepp bằng tiếng Pháp: ‘Nếu điều anh nói với tôi là thật thì đây là ngày hạnh phúc nhất của đời tôi’”(6, tr.66).
Theo Hiệp định Paris, hai bên trao trả cho nhau tù binh và tù dân sự. Nhưng Mỹ- Thiệu vi phạm trắng trợn hiệp định, tiếp tục giam giữ nhiều người (trong đó có ông Tài) đến tận 30-4-1975, tức thêm 2 năm 3 tháng nữa(3). Ông gọi đùa những năm tháng đó là thời gian “bị tù dư”(1, tr.223).
Địch lấy cớ trao trả tù binh để tiếp tục hỏi cung. Ông kiên quyết phản đối: “Nếu trong việc làm thủ tục để trao trả tùbinh, có gì cần làm thì tôi làm. Ngoài ra, thì không làm gì hết (…). Các ông không còn có quyền hỏi cung tôi nữa. Tôi cũng không chấp nhận việc hỏi cung và không trả lời hỏi cung nữa”(2, tr.219).
Thấy địch không nói tới chuyện trao trả, ông viết thư gửi “nhà đương cục Hoa Kỳ chịu trách nhiệm trao trả tù binh theo Hiệp định Paris… đòi phải tuyên bố rõ việc trao trả… Trong khi chờ đợi trả lời thì tôi giảm ăn”(2, tr.227). Ông tự giảm khẩu phần xuống còn ½, rồi ¼ trong suốt 70 ngày. Khi thấy cách đấu tranh này không hiệu quả, ông mới ăn uống trở lại bình thường.
Cuối năm 1974, ông gửi lá thư thứ hai cho “nhà đương cục Mỹ và Việt Nam Cộng hòa” yêu cầu trao trả theo đúng Hiệp định Paris.
Ngày 26-4-1975, khi 5 cánh quân của ta sắp tiến vào giải phóng Sài Gòn, “một viên chức cao cấp của CIA gợi ýcho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cần làm cho Nguyễn Tài biến mất”(7) để tránh việc “Tài được giải thoát bởi các đồng chí chiến thắng của ông ta”(11). Nguyễn Khắc Bình, Tư lệnh Cảnh sát quốc gia kiêm Đặc ủy trưởng Phủđặc ủy trung ương tình báo, ra lệnh cho số cầm đầu Trung tâm thẩm vấn quốc gia thủ tiêu ông Tài theo lệnh của CIA. Tuy nhiên, theo Pribbenow, “lệnh đến quá trễ. Tất cả các viên chức cao cấp của Phủ đặc ủy trung ương tình báo đang tìm cách chạy trốn khỏi Nam Việt Nam”(11). Bản thân các viên chức CIA - trong đó có Frank Snepp - cũng lo tháo chạy thoát thân. Hai năm sau, 1977, trong lúc quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang gián đoạn, Snepp hoàn toàn không có tin tức gì về ông Tài, yên chí là Nguyễn Khắc Bình đã thi hành lệnh của CIA, nên anh ta viết trong hồi ký: “Tài bị đưa lên một máy bay và bị ném xuống biển Đông ở độ cao 1.000 feet”(7). Sự thật không phải vậy. Pribbenow cho biết: “Các nhân viên cấp dưới [của Trung tâm thẩm vấn quốc gia] sợ bị trừng phạt nếu những người Cộng sản chiến thắng biết họ đã giết Tài”(11), do đó họ “không dám thi hành [lệnh thủ tiêu] vì sợ mang thêm tội với Cách mạng”(2, tr.260).
Trưa ngày 30-4-1975, một tiểu đoàn thuộc Quân đoàn IV tiến vào Sài Gòn, chiếm Phủ đặc ủy trung ương tình báo. Ông Tài được giải thoát khỏi xà lim trắng toát sau 4 năm 4 tháng 10 ngày bị biệt giam.
Ngay sau đó, ông đi gặp Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, được công nhận đảng tịch liên tục, được phân công làm Ủy viên Thường vụ Thành ủy, phụ trách Trưởng ban An ninh của thành phố Sài Gòn - Gia Định mới giải phóng. Chỉ vài ngày sau, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn (mới ở Hà Nội vào) đã đến thăm ông. Sau mấy tháng ra Bắc rồi sang Cộng hòa Dân chủ Đức để kiểm tra sức khỏe và chữa bệnh, ông về làm việc ở Bộ Công an (lúc đó gọi là Bộ Nội vụ). Đầu năm sau, được đề bạt chức Thứ trưởng.
Ngày 23-12-1988 - đúng 13 năm sau ngày ông bị bắt - Ban Bí thư Trung ương Đảng ra văn bản số570 khẳng định: “Đồng chí Nguyễn Tài đã có tinh thần chịu đựng sự tra tấn dã man của địch, khôn khéo đối phó với địch, bảo vệ cơ sở và những bí mật của Đảng mà mình biết”(4).
Cô ́Thu ̉tướng Võ Văn Kiệt, người từng có thời gian hoạt động chung với ông trên chiến trường miền Nam, nhận định: “Quá trình hoạt động cũng như quá trình đấu tranh kiên trung, mưu trí khi bị địch bắt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của đồng chí Nguyễn Tài cho thấy đồng chí thực sự xứng đáng là một anh hùng”(5).
Nhận định đó được đông đảo đồng bào, đồng chí tán thành.
Giữa năm 2002, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân và sau đó được tặng thưởng Huân chương Hồ ChíMinh.
Đó la ̀những phần thưởng cao quý mà Tổquốc dành cho người cán bộ An ninh cókhí phách anh hùng khiến đối phương cũng phải nể trọng.
_____
(1) Số 6 ứng với cuốn American Torture: From the Cold War to Abu Ghraif and Beyond (xem mục “Sách báo tham khảo” ở cuối bài).
(2) Sau mấy tháng hỏi cung mà không moi được thông tin gì mới, Peter Kapusta lấy lý do “vợ bị tai nạn ô tô bên Mỹ” để xin về nước. Frank Snepp được cử sang thay.
(3) Trong khi đó, ta trao trả Douglas Ramsey sau ngày Hiệp định Paris có hiệu lực.
(4) (5) Báo điện tử Thể Thao Văn Hóa (thethaovanhoa.vn), ngày 5-6-2010.
Sách báo tham khảo
A. Tiếng Việt:
1. Nguyễn Tài, Về với cội nguồn, NXB Công An Nhân Dân, Ha ̀Nội, 1977.
2. Nguyễn Tài, Đối diện với CIA Mỹ, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1999.
3. Phan Thanh Tâm, Người tù trong phòng giam tuyết trắng, www.gio-o.com/Tet/2014phanthanhtamnguyentai.htm.
B. Tiếng Anh:
4. Alfred W. McCoy, A Question of Torture: CIA Interrogation from the Cold War to the War on Terror, NXB Owl Books, New York, 2006.
5. Alfred W. McCoy, Torture and Impunity: The U.S. Doctrine of Coercive Interrogation, University of Wisconsin Press, Madison, 2012.
6. Michael Otterman, American Torture: From the Cold War to Abu Ghraif and Beyond, Melbourne University Publishing, 2007.
7. Frank Snepp, Decent Interval, an Inside Account of Saigon’s Indecent End Told by the CIA’s Chief Strategy Analyst in Vietnam, NXB Random House, New York, 1977.
8. Douglas Valentine, The Phoenix Program: America’s Use of Terror in Vietnam, NXB Open Road Integrated Media, New York, 2004.
9. Hugh D. S. Greenway, The “White Room” Revisited, báo điện tử The New York Times (nytimes.com), ngày 13-5-2005.
10. Se Portland, The White Cell, báo điện tử Daily Kos (dailykos.com), ngày 27-9-2006.
11. Merle L. Pribbenow, The Man in the Snow White Cell - Limits to Interrogation, trang web của CIA (www.cia.gov/library).
12. Frank Snepp, Tortured by the Past, báo điện tử Los Angeles Times (latimes.com), ngày 27-4-2009.
13. Jason Vest, CIA Veterans Speak Out Against Torture, báo điện tử Government Executive (touch.govexec), ngày 23-11-2005.
-------------------
FRANK SNEPP
* Sinh năm 1943 tại Kinston, bang Bắc Carolina, Mỹ.
* Tốt nghiệp Đại học Columbia.
* Làm việc cho CIA từ 1968, tự nhận là “một trong những chuyên gia của CIA thông thạo nhất về chính sách và chiến lược của Bắc Việt Nam”(12). Được CIA cử sang thẩm vấn Nguyễn Tài từ tháng 10-1972 đến cuối tháng 4-1975. Được thưởng Huân chương công trạng về tình báo (Intelligence Medal of Merit) (16-12-1975).
Hugh D. S. Greenway kể: “Sau chiến tranh [ở Việt Nam], Snepp rời khỏi CIA, nhưng anh ta không thể đưa Tài ra khỏi tâm trí của mình”(9). Có hai lý do:
1. Trong gần 1.000 ngày đêm hỏi cung, Snepp đã sử dụng phương pháp thẩm vấn khủng khiếp của CIA. Trong bài viết nhan đề Bị quá khứ tra tấn (Tortured by the Past) đăng trên báo Los Angeles Times ngày 27-4-2009, Snepp thú nhận “vẫn còn bị ám ảnh bởi những gì tôi đã làm”(12).
2. Cũng trong bài báo ấy, Snepp viết: “Cuộc thẩm vấn Nguyễn Tài là cuộc thẩm vấn nhiều thách thức nhất của tôi”. Năm 1977, Snepp dành hẳn một chương trong hồi ký Decent Interval (Khoảng cách thích đáng) để viết về ông Tài. Chưa biết chuyện ông Tài đã chiến thắng trở về từ cõi chết, Snepp kể: ông Tài “đã bị hành quyết chỉ vài giờ trước khi lực lượng cộng sản tiến vào Sài Gòn” (tr.571). Vẫn theo Greenway, Snepp “sang Paris để nói với phái bộ Việt Nam [ở Pháp] rằng Tài đã xử sự một cách đáng kính trọng và đã chết một cách dũng cảm”.
Hiếm thấy một người tù nào lại được kẻ hỏi cung giữ nhiều ấn tượng sâu sắc đến thế.
❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀ ❀
--------------
Nguồn: Tạp chí điện tử Hồn Việt
Nguồn: Tạp chí điện tử Hồn Việt
TOP
TOP
0 nhận xét:
Post a Comment