II.1 CHUYỆN VỀ CÁC DANH NHÂN

Monday, March 18, 2013

DANH NHÂN



Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết


PHAN VĂN ÁI

(Ghi theo lời kể của nhà thơ, nhà báo Phạm Như Tiên)

Thân thế và sự nghiệp
Phan Văn Ái sinh năm canh tuất (1850) niên hiệu Tự Đức thứ ba, mất năm 1898, là con ông Phan Văn Chạch, cháu nội ông Phan Văn Chỉnh, ông còn có tên là Phan Văn Tâm, hiệu là Đồng Giang, người làng Đồng Tỉnh.

Năm 27 tuổi, đỗ cử nhân, hạng thủ khoa, khoa thi Hương, năm Bính Tí, đời Tự Đức thứ 29 (1876), được lĩnh mũ áo nhậm chức tri huyện, huyện Hương Trà, là huyện sở tại của kinh thành Huế. Ông là một ông quan liêm khiết thẳng thắn, cương trực và có khí phách, khi làm Tri huyện Hương Trà, ông đến xem nhà một ông quan đã nghỉ hưu vì nghe tiếng dị nghị ông này là một tham quan. Chủ nhân ngỏ ý mời ông ăn cơm và nói: "Nhà có nhiều món quý, ông thích ăn món gì để sai người nhà làm cơm", ông trả lời: Ông thích món ngô rang; chủ nhà thấy khác ý song vẫn cố nói: "Tôi không còn răng, ngô rang ăn sao được?" Cụ Ái đốp thẳng: "Bạc nén rắn như thế cụ còn gặm được huống hồ ngô rang, làm sao không ăn được?" thế rồi chủ khách tạm biệt nhau.

Tuy làm quan, bận rộn việc công, chăm lo cho dân bản huyện, nhưng ông vẫn tu thân ôn luyện, học hành đêm tối, gặp khoa thi Hội năm Canh Thìn (1880) niên hiệu Tự đức thứ... ông đỗ phó bảng (ất tiến sĩ). Được bà từ dụ gán gả công nương Tôn Thị Phan cho theo ông làm kế thất (Công nương Tôn Thị Phan là con gái vua Thiệu Trị).

Có sách chép rằng: Ông đã ra lệnh cho lính đánh chú ruột vua là đức ông Lạng quận công Hồng Dật, vì đã vi phạm luật của triều đình đề ra khi ấy là bất kì ai khi đi ra đường trong đêm tối đếu phải cầm đèn.
Năm 1883 vua Tự Đức mất, di chiếu cho Ứng Chân nối ngôi, lấy hiệu Dực Đức, được hai ngày thì ông vua này bị truất, Nguyễn Văn Trường và Tôn Thất Thuyết đề nghị bà từ dụ - Hoàng Thái hậu đưa Lãng quốc công là con thứ 29 của vua Thiệu Trị lên thay lấy hiệu Hiệp Hoà. Hiệp Hoà lên ngôi, vì mối thù bị Phan Văn Ái phạt đánh 30 trượng khi trước, triều đình đã thuyên chuyển Phan Văn Ái đi nhậm chức Tri huyện Quảng Điền.
Hiệp Hoà âm mưu cấu kết với Pháp, bị Thuyết và Trường phế đi, lấy Dưỡng Thiện lên thay, hiệu là Kiến Phúc, do vua tuyên bố sẽ chống lại Thuyết và Trường lên bị đầu độc chết, Ưng Lịch được nối ngôi lấy hiệu Hàm Nghi.
Con đường tiến thân của Phan Văn Ái sẽ gặp nhiều trắc trở, bởi Thuyết tuy là người thân, nhưng cũng khó che chở được, nên Thuyết đã cử ông ra Bắc nhậm chức Tri Phủ phủ Lý Nhân (thống hạt 5 huyện, Nam Sang, Duy Tiên, Bình Lục, Kim Bảng và Thanh Liêm).
Ra làm tri phủ chưa được bao lâu, lại được phong giữ chức tham biện Toà kinh lược Bắc Kỳ, với nhiệm vụ trông coi việc học, chủ bút tờ Đồng văn Nhật báo, là tờ báo bằng chữ Hán, đồng thời ông còn viết sách và viết văn.

Có lần con trai Hoàng Cao Khải là Hoàng Trọng Phu đi du học ở Pháp, đỗ tú tài tây, Khải mở tiệc ăn mừng, đến dự tiệc có các quan tuần phủ, án sát đứng đầu các tỉnh, trong nha môn có Tư vụ, Nguyễn Khuyến, và Phan Văn Ái, khi bữa ăn gần tàn, tuần phủ Hải phòng là Phạm Văn Tuấn đọc bốn câu thơ.

Bốn cọc trơ trơ đứng giữa trời
Anh thì bay ngước, chú bay khơi
Sinh sôi nảy nở đàn con cháu
Cặp chả dâng thầy đénh chén chơi
.

bốn câu thơ vừa có ý tán tụng, vừa có ý gần như nguyền rủa, thấy vậy Cao Khải nói luôn:
xin các quan có lòng mừng cho gia đình, xin các quan hướng vào mấy chữ trong kinh thi “Thiên hà ngôn tai”. Có một người đọc nối vào hai câu “tứ thời hành yên. Vạn vật sinh yên” có nghĩa “Ông trời có nói đâu nào” với bốn mùa làm yên, mọi vật sinh sôi nảy nở. Rồi người đó đọc bài thơ tán tụng họ Hoàng. Phan Văn Ái có tính thẳng thắn và cương trực đọc luôn 4 câu đúng đầu đề mà Khải đã đề ra:

Tao ngồi chót vót mãi trên cao
Mày thử xem tao có nói nào
Da tao xanh ngắt pha đen trắng
Bởi tại dì Oa vá váy vào

với hàm ý: Trời ngồi cao thấy suốt mọi thứ ở dưới đất, bán nước hại dân trời biết cả, nhưng trời không nói. Ngay gian lẫn lộn, đen trắng lẫn lộn đều biết cả. Ác hơn, Phan Văn Ái đã lấy cả hình ảnh cái váy của đàn bà đập vào bữa tiệc, làm cho không khí trầm lặng hẳn xuống, mọi người đang im lặng thì ông tư vụ cũng đọc một bài chung chung cốt xoa dịu đôi bên, rồi ông quay qua mời cụ Yên đổ làm một bài, sao cụ lại ngồi như phỗng đá. Cụ Yên đồ liền đứng lên đọc một bài ”Ông phỗng đá” trong đó cũng có những câu mỉa mai, châm biếm nhưng không dám đả mạnh vì còn là gia sư, (giam lỏng).

“Thôi thôi đừng chấp chuyện đâu đâu
Tái vũ trụ mặc đàn sau gánh vác
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác
Chén chú chén anh chén tôi chén bác
Cuộc tỉnh say. Say tỉnh cùng nhau
Nên chăng đá cũng gật đầu”

Phan Văn Ái cũng đọc tiếp một bài gần như hoạ lại

Non thiêng khéo đúc nên người
Trong chừng sành sỏi khác trần gian
Trải bao gió táp mây ngàn
Đã già già sức, lại gan, gan lì.
Gan lì con cóc
Há non chi mà sợ cóc gì ai
Người là người tớ cũng là người
Ngẫm cho kỹ vẫn chênh vênh đầu giốc
“Tương chi tằng thức năng công ngọc (1)
Mạc luyện như hà tả bổ thiên(2)”
Thôi mặc ai rằng trắng rằng đen
Thế như thế cẵng (3) ngồi yên như thế vậy
Còn trời còn đất, còn tai mắt ấy
Lặng mà coi hoạ thấy lúc nào chăng
Hãy về giã gạo ba trăng.



Tư dinh của Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà gần gò Đống Đa, nơi có miếu Trung Liệt thờ ba ông đã hi sinh vì Hà Nội là Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, và Đoan Thọ. Hoàng Cao khải đổi tên là miếu Trung Lương, có ý định sau này bắt dân thờ mình vào đó. Một hôm ông lên thăm miếu, không rõ nghĩ thế nào lại đề trên vách bài thơ như sau.

Núi Thái lông hồng đọ với nhau
Nước đau nào quản đến thân đau
Một nền chính khí trơ mưa gió
Ba khối hùng tâm chọi bể dâu.
Nợ với giang sơn đành phải trả
Người mà sà huỷ(1) kể vào đâu
Lòng trung chỉ có lòng trung biết
Đỗ Phủ(2) ngày xưa khóc Vũ Hầu(3)

Bài thơ trên đến tai Hoàng Cao Khải nên y không dám cải tên miếu nữa, nhưng một hôm ngồi nói chuyện, y bảo Phan Văn Ái rằng:
- Quan Tham Đồng Tỉnh muốn bắt chước Đỗ Phủ à, thì sẽ được như Đỗ Phủ.
Thời điểm này, giặc pháp đã dẹp yên được việc triều đình chống lại sự đô hộ của Pháp, Phan văn ái là chỗ tin cậy của Tôn Thất Thuyết cũng mất liên lạc 5-6 năm trời, nên ông cáo từ chức Tham biện toà kinh lược về quê hương, chủ trương xây dựng một khu căn cứ quân sự lấy một khu trung tâm giữa bãi sậy dốc sức khai phá, lập dinh điền, chiêu mộ nông phu khai khẩn mở rộng địa trang. Trong thời gian ở nhà, ông viết sách binh thư, soạn thảo kế sách “Việt bộ thuỷ đình”. Công việc đang trong giai đoạn phôi thai, Hoàng Cao Khải đã cho một toán lính, đóng giả kẻ cướp, nhân cơ hội đêm xuống đến dinh trại của ông để cướp, mà chỉ cướp sách vở không lấy tài vật.

Mối quan hệ giữa Tôn Thất Thuyết và Phan Văn Ái.
Tôn Thất Thuyết họ nội nhà vua, là quan phụ chính, trụ cột của triều đình, thấy Phan Văn Ái học rộng, tài cao, có nhân cách, thiên tính của một trung thần, lại lấy công chúa đương triều, trở thành con rể của hoàng gia nên mối quan hệ giữa hai người càng được thắt chặt thêm.
Hai người lại có chung tư tưởng và quan điểm trong cuộc kháng pháp, nên khi binh lực trong tay Tôn Thất Thuyết suy yếu dần, phải lẩn ẩn tránh khỏi vũ đài chính trị đương triều. Khi hoàng cao khải dâng sớ xin phong làm Phó Quốc Vương, Tôn thất htuyết đến đồng tỉnh và cất nhắc Phan văn ái lên Án Sát Sơn Tây kiêm nhiệm, thống hạt 6 tỉnh với nhiệm vụ “Vệ Quốc an dân xứ Bắc Kỳ”, chưa được bao lâu, Hoàng Cao Khái mua chuộc được đám hầu cận của ông và tiến hành đầu độc, sát hại (cho thuốc độc vào một quả đào) ông mất tháng 6 năm 1896. Sau khi ông mất, Khải ra lệnh cho tỉnh Sơn Tây phải đưa tang ông về Đồng Tỉnh, cứ khoảng 10 km phải có nhà tạm quàn thi hài ông, và hào lý các địa phương đoàn đưa tang qua phải tổ chức “Tế Điếu”. Từ Sơn Tây về tới Đồng Tỉnh phải qua 5 nhà quàn như thế.. gia đình và bạn bè ông cùng giới sĩ phu đương thời rất hài lòng.
Khi ông làm án sát Sơn tây thì công việc lập dinh điền và khai phá bãi sậy vẫn được các gia nhân tiếp tục, 3 xóm ấp được gọi là xóm trại”.

Các di vật
  • Khi đậu phó bảng được vua ban mũ áo và biển vinh quy có 4 chữ “Ân tứ vinh quy”
  • Sắc được thụ phong: Sắc phong chánh tứ phẩm quang lộc tự khanh
  • Sắc phong ông thân sinh (cụ Trạch) chánh ngũ phẩm Hàn lâm viện thị độc.
  • Sắc phong bà chánh thất (bà tám) tứ phẩm cung nhân
  • Sắc phong bà kế thất (bà Phan) tức bà hoàng cô - tứ phẩm cung nhân

Tỉnh Sơn tây có khắc bia kỷ niệm công trạng của ông, trong bia còn lại hai bài lục bát như sau:

Anh hùng trí dũng tứ ân
Hà Tây vọng bái nhớ ơn nghìn đời
Sắc hộ quốc muôn đời ghi sử
Ngàn thu còn để dấu anh hùng.,...

Hiện nay tại miếu thờ thần hoàng còn lưu hai câu đối của cụ Phan Văn Ái
Cửu Tỉnh....


Chuyện cụ đốc Đông

(Ghi theo lời kể của nhà thơ Tô Hùng Long)

Tô Huân sinh năm 1817, mất năm 1896, năm 43 tuổi ứng thí khoa thi thi Mậu Thìn năm Tự Đức thứ 21 (1868), đỗ phó bảng, được triều đình nhà Nguyễn bổ dụng làm Tri huyện Thanh Trì, sau đó được điều về kinh (kinh thành Huế) giữ chức phó đô ngự sử, rồi được thăng đến chức phó quản đạo ở Hà Tĩnh coi việc học hành thi cử.

Khi những đội quân viễn chinh Pháp tiến đánh thành Hà Tĩnh, lực lượng trong thành ít, vũ khí chiến đấu thô sơ dẫn tới sự thất thủ hoàn toàn thành Hà Tĩnh về tay Pháp, Tô Huân cùng một số các quan giữ thành bị triều đình bãi chức. Tuy thoát được tội trọng nhưng vì muốn giữ tròn danh tiết của kẻ sĩ, ông nhân cơ hội đó xin được về quê nhà an trí và mở lớp dạy chữ thánh hiền tại trường làng cho con em quanh vùng.

Sau một thời gian được triều đình phục chức, phong làm đốc học tỉnh Đông, dân trong vùng thường gọi là cụ Đốc Đông. Vốn hay chữ và nổi tiếng uyên thâm trong giới nho đạo, ở tại nơi cụ dạy học cụ cho treo hai câu đối thể hiện rõ chức phận của mình:

Đốc chư sinh phụng thiên tử chiếu
Học hà sự độc thánh nhân thư

........

Có nghĩa:

Được làm thầy theo chiếu vua ban
Dạy học trò đọc sách thánh hiền.


Trong giới nho sĩ, cụ Đốc Đông nổi tiếng tận tình với trách nhiệm làm thầy của mình, lại tận tâm chỉ bảo rèn cặp chu đáo cho mỗi học trò, tiếng thơm bay xa, học trò các nơi về theo học nơi cụ rất đông, nhiều người thành đạt, có quyền cao chức trọng. Tiêu biểu là ông Tuần phủ Nam Định Phan Đình Hoè, nhớ ơn thầy học cũ khi thầy mất, đã cung tiến một bức hoành phi đại tự và một đôi câu đối ca ngợi công đức của cụ Đốc Đông, bức hoành phi này được các con cháu trong dòng họ của cụ Đốc Đông Tô Huân trang trọng treo ở gian giữa nhà tiền tế từ đường có 4 chữ:

THANH MÔN VĂN THÁI

Tạm dịch: Cửa thanh bạch nhưng trọng văn chương

Và hai bên cột chính treo hai câu đối:

Đại gia khoa bảng truyền giang bắc.
Ngô bối cầm thư đáo hải nam.


Dịch nghĩa:

Nhà có nhiều người đỗ đạt lừng danh vùng Giang Bắc.
Nhiều sĩ tử túi đàn cặp sách nổi tiếng miền Nam Hải
.



Hiện nay trên mảnh đất thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ là nơi cụ Tô Huân sinh sống, còn có ngôi từ đường thờ cụ làm cụ tổ trong chi họ, đã qua nhiều lần trùng tu, nâng cấp, sửa chữa với quy mô thờ tự nhỏ gọn nhưng vẫn toát lên vẻ khang trang, thu hút con cháu hàng năm về dự ngày giỗ kị.

Lịch sử tồn tại của ngôi đường này được ghi lại rất rõ qua bản gia huấn của dòng họ do cháu đời thứ 9 của dòng họ nhà thơ Tô Hùng Long còn lưu trữ được:

Từ đường trăm sáu mươi thu
Một lần kiến tạo trùng tu ba lần
Năm MỘT NGHÌN TÁM TRĂM BỐN MỐT
Cụ phong công xây dựng từ đường
Một toà đẹp đẽ khang trang
Tôn nghiêm ngày lễ khói nhang phụng thờ
Cơ nghiệp tổ từ xưa để lại
Rạng “Thanh môn văn thái” nho gia
Tu nhân tích đức nhà nhà
Bốn phương yêu quý ngợi ca thảo hiền
Nổi danh khoa bảng truyền Giang Bắc
Vang tiếng cầm thư khắp Hải Nam
Trải qua bảy chín mùa xuân
Nhà lim mưa nắng cũng dần tàn phai
Ông Tô Nghệ tú tài Đinh Dậu
Bán cầm đi gần mẫu ruộng hương
Cậy nhờ các chú đảm đương
Trông nom tiền hậu cung đường sửa sang
Thêm bảy chín mùa xuân nữa nhỉ
Năm cuối cùng thế kỉ hai mươi
Từ đường lại xuống cấp rồi
Mái hiên dột nát tường hồi mối xông
Con cụ cử là ông Tô Uý
Cùng sáu chi quết chí trùng tu
Một đoàn tiến sĩ kỹ sư
Tô Loan thủ quỹ chi thu rõ ràng
Tô Tần tài vụ làm kế hoạch
Tô Thảo cùng Tô Thạch ra công
Ngày đêm thiết kế mau xong
Tô Dũng, Tô Thế, Tô Long góp phần
Tìm mua sắt thép xi măng
Thi công giám sát khi cần có ngay
Nhà thờ tổ móng xây giằng hộp
Mái bê tông ngói lợp khang trang
Hai bên bia đá bảng vàng
Tô thêm truyền thống vẻ vang từ đường
Nơi thờ phụng tấm gương minh ngọc
Tổ tiên xưa đốc học tỉnh Đông
Cháu con về lễ tổ tông
Đáp đền ân đức gắng công học hành.



Tô Ngọc Vân


Tô Ngọc Vân là một trong những họa sỹ tiêu biểu của giai đoạn khởi đầu nền nghệ thuật tạo hinh hiện thực xã hội. Ông không những đã đào tạo được rất nhiều học trò xuất sắc mà còn thể hiện tài năng hiếm có qua những tác phẩm để đời.
Thủa nhỏ là một cậu bé con nhà nghèo, Tô Ngọc Vân phải đến sống nhờ bà cô, quá tuổi mới được đi học. Tuổi thơ nghèo khó đã tạo cho ông một ý chí tự lập, một cuộc sống nội tâm sâu sắc. Đang học trung học năm thứ 3, ông bỏ học đi theo con đường nghệ thuật. Năm 1926 ông trúng tuyển vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ở trường, ông tiếp nhận những kiến thức tạo hình mới với lòng hăng say không mệt mỏi. Phương pháp tạo hình mới, đặc biệt chất liệu sơn dầu, đã cuốn hút ông một cách mãnh liệt. Hầu hết các tác phẩm của ông đều thể hiện bằng chất liệu sơn dầu. Ông quan niệm: nghệ thuật giúp con người diễn đạt được những tình cảm rạo rực, bừng cháy trước cảnh vật và con người; chất liệu sơn dầu là chất liệu diễn đạt được những tình cảm mạnh mẽ, sự khát khao đến bến bờ hạnh phúc của con người.
Từ trước Cách mạng tháng 8 (1945) Tô Ngọc Vân đã phần nào thể hiện tính hiện thực qua các tác phẩm. Với tác phẩm Bức thư (1931), ông vẽ những cô gái đang say mê làm việc bên khung cửa. Đó là những cô gái thôn quê, chăm chỉ lao động và có một vẻ đẹp thuật khiết đang trao gửu những tình cảm đoan trang, kín đáo. Họa sỹ đã thể hiện sự dè dặt trước một khuynh hướng mới. Sau này, Tô Ngọc Vân đã thể hiện sự sâu đậm hơn hình ảnh của người phụ nữ với những đồng cảm trân trọng. Năm 1931 tranh sơn dầu Bức thư được tặng bằng khen danh dự ở Triển lãm hội họa tại Pháp và được trao huy chương vàng ở triễn lãm thuộc địa tại Pari. Thời gian này, ông cũng vẽ nhiều tác phẩm về cảnh đẹp như Ánh mặt trời, Bụi chuối ngoài nắng, Trời dịu...
Họa sỹ Tô Ngọc Vân tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật năm 1931 và dù nổi tiếng ông vẫn sống thiếu thốn bằng nghề dạy học, vẽ tranh thuê, trình bày và minh họa cho một số tờ báo ở Hà Nội. Năm 1935 ông mới được Pháp bổ nhiệm đi dạy vẽ ở Campuchia. Năm 1938 Tô Ngọc Vân trở về Hà Nội dạy ở trường Bưởi. Đến năm 1939, ông là giảng viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.


Đề tài sáng tác chủ yếu của Tô Ngọc Vân trước Cách mạng là hình ảnh người đàn bà thành thị. Tác phẩm Dưới bóng nắng vẽ người thiếu nữ mơ màng với cái nhìn lơ đãng dưới hoa trong nắng bên bờ ao. Ông không diễn tả một chân dung cụ thể mà chỉ thể hiện sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ. Bức tranh được mọi người biết đến nhiều nhất là bức sơn dầu Bên hoa huệ (1943). Cô gái ngồi vén tóc bên những đóa hoa huệ ngát thơm. Màu chủ đạo của bức tranh là màu trắng của áo dài và những bông hoa huệ. Người phụ nữ trong tranh của Tô Ngọc Vân luôn được thể hiện với lòng trân trọng chứ không sa vào khoái cảm nhục thể nhưng cũng không quá mơ hồ, ẻo lả hoặc kiêu kỳ như tranh vẽ của các họa sỹ cùng thời.
Các sáng tác của Tô Ngọc Vân luôn đem lại cho người xem nhiều cảm xúc. Đó là điều bất kỳ họa sỹ nào cũng mong ước. Lẽ ra ông còn cống hiến nhiều cho nên hội họa nước nhà nhưng ông đã hy sinh quá sớm khi tài năng đang trong thời kỳ bộc lộ đầy đủ nhất. Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiều tác phẩm đẹp của Tô Ngọc Vân đã bị đánh cắp, mất mát, thất lạc nên hiện nay trong nước chỉ còn lại một số ít tác phẩm sơn dầu, sơn mài. Tô Ngọc Vân xứng đáng được xem như một họa sỹ bậc thầy, một nhà trí thức lớn đã cống hiến tất cả tài năng và cuộc đời cho Tổ Quốc.
Mỹ thuật & Đời sống, 17/2000.





Tô Ngọc Vân (1906-1954) là một họa sĩ Việt Nam nổi tiếng, tác giả bức Thiếu nữ bên hoa huệ. Ông còn có những bút danh Tô Tử, Ái Mỹ.
Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng 12 1908 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội. Một vài tài liệu viết ông sinh năm 1906.
Năm 1926, ông thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thuộc thế hệ đầu tiên của trường, tốt nghiệp khóa 2 năm 1931. Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân đã có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao ở Pháp. Ông đi vẽ nhiều nơi ở Phnom Penh, Băng Cốc, Huế... Ông hợp tác với các báo Phong Hóa và Ngày Nay của Nhất Linh, báo Thanh Nghị... Từ 1935 đến 1939 ông dạy học ở trường trung học Phnom Penh, sau đó ông về dạy ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tới 1945. Thời gian đó ông vừa giảng dạy vừa sáng tác.
Sau cách mạng Tháng Tám, Tô Ngọc Vân tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc.
Tô Ngọc Vân được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Ông còn được xem là một trong những họa sĩ lớn của hội họa Việt Nam, nằm trong "bộ tứ" nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn (Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn).

Tô Ngọc Vân cũng là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã sớm vẽ tem ngay từ thời Pháp thuộc (Postes Indochine). Mẫu tem Apsara được ông thiết kế từ nguồn tư liệu của những chuyến đi vẽ, sáng tác ở khu đền Angkor Wat, Angkor Thom của Campuchia. Hình tượng chính của con tem là nữ thần Apsara, một trong hàng ngàn tượng vũ nữ điêu khắc nổi trên những vách đền đài của nền văn hoá cổ Khmer. Tem Apsara của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân là mẫu tem thứ 23 của Bưu điện Đông Dương kể từ khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng là tem duy nhất ông góp vào nền nghệ thuật tem thư ở Việt Nam.
Ông mất ngày 17 tháng 6 năm 1954 ở Đa Khê, vùng gần sát chiến trường Điện Biên Phủ. Họa sĩ Tô Ngọc Vân được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996). Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Việt Nam.

Tô Chấn


Đồng chí Tô Chấn, anh ruột của đồng chí Tô Hiệu thuộc thế hệ cách mạng tiền bối của Đảng ta, sinh năm 1904 trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang.
Cụ nội của đồng chí là cụ Tô Ngọc Nữu, Đốc học Nam Định. Khi triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Thân 1884 gọi là hoà ước, thực chất là hàng ước Patenôtre, đặt đất nước Việt Nam bị chia làm 3 kỳ dưới sự thống trị của thực dân Pháp, cụ đã phản đối bằng cách từ chức về dạy học.
Ông ngoại của đồng chí là cụ Ngô Quang Huy, Đốc học Bắc Ninh, người lãnh đạo có uy tín trong phong trào Bãi Sậy, Hưng Yên, do cụ Nguyễn Thiện Thuật (tức Tán Thuật) đứng đầu. Cũng như Nguyễn Thiện Thuật, cụ được Vua Hàm Nghi phong chức Tán Tương Quân Vụ, thường được nhân dân gọi là cụ Tán Ngô hay cụ Tán Bắc. Bà Ngô Thị Lý, mẹ đẻ của đồng chí Tô Chấn, đã có công lớn trong việc nuôi dưỡng và bảo vệ cán bộ thời kỳ hoạt động bí mật trước 1945. Các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Tử Bình... thường về Xuân Cầu hoạt động, được bà chăm sóc chu đáo.
Phát huy truyền thống cao đẹp của gia đình và quê hương, đồng chí Tô Chấn đã tham gia cách mạng từ rất sớm. Từ năm 1925, đồng chí tích cực tham gia hoạt động cách mạng trong các tổ chức yêu nước cách mạng ở Hà Nội, Sài Gòn và Nam Bộ. Năm 1927, đồng chí tham gia Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu và trở thành đảng viên cốt cán, kiên cường, được cử làm Đảng trưởng kỳ bộ Nam Kỳ.


Tháng 10/1930, khởi nghĩa Yên Bái thất bại. Nguyễn Thái Học bị thực dân Pháp xử tử hình, đồng chí được đề cử thay Nguyễn Thái Học và tiến hành mưu sát toàn quyền Đông Dương, vì chúng đang câu kết đàn áp phong trào cách mạng. Việc chưa thành thì đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội, kết án tử hình, sau đó giảm án xuống chung thân, đày đi Côn Đảo.
Năm 1930-1936, trong nhà tù Côn Đảo, đồng chí đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí hăng hái tham gia đấu tranh kiên cường, tích cực học tập, trở thành một đảng viên nổi tiếng có kiến thức uyên bác và trí nhớ tuyệt vời về lý luận Mác-Lênin, được anh em rất tín nhiệm. Đồng chí đã tham gia ban lãnh đạo nhà tù cùng với các đồng chí Ngô Gia Tự, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng....
Đầu năm 1936, đồng chí được chi bộ nhà tù bố trí vượt ngục Côn Đảo cùng đồng chí Ngô Gia Tự và một số đồng chí khác, chẳng may đều hy sinh trên biển.
Đồng chí Tô Chấn cũng là người đã dìu dắt, giác ngộ đồng chí Tô Hiệu và một số thanh niên của làng Xuân Cầu đi làm cách mạng như các ông: Tô Dĩ (Lê Giản - nguyên Giám đốc Nha Công an TƯ), Tô Quang Đẩu - nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ...


Tô Hiệu


Tô Hiệu (1912-1944) là một nhà cách mạng cộng sản Việt Nam. Tô Hiệu sinh 1912, trong một gia đình nhà nho nghèo ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Năm 1927 Tô Hiệu học tại trường Pháp Việt thị xã Hải Dương và sớm tham gia vào các phong trào yêu nước của học sinh như bãi khoá truy điệu Phan Chu Trinh, tham gia phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu.
Năm 1928, vào Sài Gòn, cùng anh ruột là Tô Chấn tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1929 ông là Đảng viên Quốc dân Đảng, hoạt động tại Sài Gòn. Năm 1930, ông bị bắt và bị kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Những năm tháng tại Côn Đảo, Tô Hiệu đi theo lý tưởng cộng sản và chỉ một thời gian sau, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1934, Tô Hiệu mãn hạn tù. Không chịu được sự quản thúc của chính quyền thực dân ở địa phương, ông trốn đi Hà Nội hoạt động và được phân công xây dựng cơ sở cách mạng ở Thái Nguyên. Mặc dù bị ho lao do kết quả 4 năm tù khắc nghiệt tại Côn Đảo, Tô Hiệu vẫn hăng hái công tác và năm 1936 được cử vào Ban thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách công tác tuyên huấn.
Cuối năm 1938, Tô Hiệu đựơc phân công phụ trách miền Duyên hải Bắc Kỳ. Tại Hải Phòng, Tô Hiệu hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức nhiều cuộc đình công, biểu tình và trực tiếp tham gia đấu tranh. điển hình là cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng, bắt đầu từ tháng 4/1939 đến ngày 21 tháng 5/1939. Tô Hiệu chỉ đạo chi bộ Đảng nhà máy Tơ lãnh đạo tranh đấu, liên hệ với báo Đời Nay, yêu cầu đưa tin ủng hộ, gặp tổ chức Thanh niên dân chủ Pháp và Thanh niên dân chủ Việt Nam yêu cầu giúp đỡ. Cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng gây được tiếng vang lớn, được Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang hoạt động ở nước ngoài quan tâm chú ý.


Ngày 30 tháng 5/1939 Tô Hiệu trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước của hàng ngàn công nhân tiểu thương và lao động thành phố Hải Phòng. Thực dân Pháp bắt 72 người biểu tình, trong đó có Tô Hiệu; nhưng Tô Hiệu thoát được ra ngoài. Tháng 10 năm 1939, Xứ uỷ Bắc Kỳ thành lập các khu Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương và vùng mỏ thuộc khu B (sau đó gọi là liên tỉnh B) trong đó Tô Hiệu làm Bí thư Khu uỷ, xúc tiến ra báo Chiến Đấu, cơ quan tuyên truyền của Khu uỷ B.
Trước sự đàn áp của thực dân Pháp đối với phong trào, Tô Hiệu chuyển hướng hoạt động từ công khai rút vào bí mật, sàng lọc cán bộ công khai. Trong suốt thời kỳ hoạt động ở Hải Phòng, Tô Hiệu với cương vị Bí thư Khu uỷ B đã không thành lập Thành uỷ Hải Phòng mà trực tiếp lãnh đạo phong trào.
Ngày 1 tháng 12 năm 1939, Tô Hiệu bị bắt tại một cở sở in ở xóm Hạ Lý, khu vực nhà máy chỉ và bị tra tấn. Bị kết án 5 năm tù, Tô Hiệu bị kết án tù tại nhà tù Sơn La. Tại đây, ông được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, tham gia công tác tuyên truyền cách mạng và đấu tranh cải thiện chế độ nhà tù.
Ông mất ngày 7 tháng 3 năm 1944 tại nhà tù Sơn La. Mộ ông được an tháng tại nghĩa địa Vườn ổi.





Tô Hiệu người làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang. Cha ông làm nghề dạy học. Ông đi học từ năm lên 6 tuổi, nhà nghèo nhưng học rất chăm chỉ.
Những năm 1925-1926 ông theo học trường Pháp - Việt tại thị xã Hải Dương, tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh nên bị đánh trượt trong kỳ thi tiểu học.
Năm 1927 Tô Hiệu lên Hà Nội, vừa học vừa kiếm tiền nuôi thân, vừa tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào học sinh. Sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930 ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt, chúng kết án 4 năm tù giam, đày đi Côn Đảo. Ra tù ông bị bọn mật thám xếp vào loại “nguy hiểm”, phải về quê nhà và bị quản thúc.
Trong những năm tháng sống ở quê, không bỏ phí thời gian, ông tìm mọi cách liên lạc với Đảng và lại lao vào hoạt động. Ông còn vận động bà con thôn xóm góp công sức xây dựng trường học cho con em. Năm 1935 ông được điều lên Thái Nguyên để xây dựng cơ sở cách mạng. Sau chuyển về Hà Nội làm ủy viên Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách tuyên huấn, trực tiếp lãnh đạo phong trào ở Hà Nội. Ông viết bài đăng trên các báo công khai để hướng dẫn công tác và cử cán bộ xuống vùng mỏ hoạt động, nhờ đó phong trào đấu tranh của công nhân mỏ lên mạnh.
Mùa thu năm 1938, ông được Trung ương Đảng phân công phụ trách miền duyên hải Bắc kỳ, trực tiếp làm Bí thư Ban cán sự Đảng Hải Phòng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh được đẩy lên mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi cải thiện đời sống của công nhân các nhà máy xi măng, máy điện, máy tơ, máy nước… đạt kết quả. Điển hình là cuộc đấu tranh của 3000 công nhân nhà máy tơ từ ngày 16 đến 22/4/1939 do Tô Hiệu trực tiếp chỉ đạo, bọn chủ đã phải giải quyết toàn bộ yêu sách của công nhân.
Ngày 30/5/1939, Tô Hiệu lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước. Cảnh sát Pháp đàn áp bắt 72 người, nhờ sự bảo vệ của anh em công nhân, ông trốn thoát. Thời gian này Tô Hiệu bị bệnh lao phổi nặng, sức khoẻ giảm sút. Xứ ủy yêu cầu nghỉ chữa bệnh nhưng ông vẫn thiết tha xin tiếp tục công tác. Ông tổ chức chỉ đạo báo “Chiến đấu” bí mật lưu hành ở Hải Phòng, số đầu tiên ra ngày 7/11/1939 - số đặc biệt kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga. Ông chủ trì hội nghị Trung ương lần thứ 6.


Ngày 1/12/1939, ông bị bắt trên đường đi in tài liệu ở Hải Phòng. Bọn giặc tra tấn rất dã man nhưng ông tỏ rõ khí phách hiên ngang của người cộng sản. Những lúc hồi tỉnh ông lại tiếp tục tuyên truyền động viên anh em trong nhà lao Hải Phòng giữ vững chí khí cách mạng, đấu tranh chống chế độ nhà tù, tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Đảng 3/2/1940 trong nhà tù đế quốc. Chính quyền thực dân đưa ông ra xét xử ở toà án Kiến An, kết án 5 năm tù.
Năm 1940 ông bị đày lên Sơn La. Tại đây Tô Hiệu được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, ông đã lãnh đạo anh em kiên trì đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù. Ông cùng với mới số đồng chí viết tài liệu, mở lớp chính trị, văn hóa giảng dạy cho bạn tù “biến nhà tù thành trường học” và đào tạo cán bộ cách mạng, tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng ở bên ngoài. Tên công sứ Pháp ở tỉnh Sơn La là Cút - xô thẳng tay đàn áp, chế độ nhà tù ngày một hà khắc. Anh em tù tuyệt thực để phản đối, nhiều người bị chúng giam trong hầm tối.
Do cuộc sống khắc nghiệt của nhà tù cùng với sự tra tấn tàn bạo của kẻ địch, sức khỏe Tô Hiệu ngày một giảm sút, nhưng ông vẫn tin tưởng, lạc quan. Năm 1943, nghe tin Hồng quân Liên Xô thắng lớn ở Lêningrát, tuy đang mệt nhưng ông đã nhận định “Liên Xô sẽ thắng, phát xít sẽ thua, chiến tranh sẽ kết thúc, cách mạng Việt Nam sẽ thắng lợi”. Ngày 7/3/1944 Tô Hiệu qua đời tại Sơn La. Mộ ông được an tháng tại nghĩa địa Vườn ổi.
Ngày nay, đến thăm nhà tù Sơn La, giữa bức tường đá nhà ngục lạnh lẽo, cây đào do ông trồng vẫn xanh tươi đầy sức sống. Cành đào được mang về từ Sơn La cứ mỗi lần xuân về tết đến lại nở hoa đỏ thắm ở làng Xuân Cầu quê hương ông. Nhiều đường phố, trường học, nông trường mang tên Tô Hiệu.

Dương Thị Cẩm

Lê Văn Lương (NGUYỄN CÔNG MIỀU)


Đồng chí Lê Văn Lương (1912-1995), nguyên uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Nho học. Đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, tham gia nhóm Cộng sản Đông Dương từ năm 1929, vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Bị thực dân Pháp bắt giam, kết án tử hình. Do sức ép phong trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước và tiến bộ, thực dân Pháp đã phải giảm án xuống chung thân khổ sai, đầy ra Côn Đảo. Tại nhà tù Côn Đảo, đồng chí đã tham gia Ban chấp hành Đảng bộ nhà tù, biến nhà tù đế quốc thành trường học của người Cộng sản.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng chí đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhiều khoá tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được cử vào Ban Bí thư và Bộ Chính trị. ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần cách mạng, tận tuỵ, trung thành với sự nghiệp của Đảng.

Đồng chí Lê Văn Lương: Vì nước, vì dân
Tất cả những ai từng gặp Nguyễn Công Miều (tên thật của đồng chí Lê Văn Lương) những năm 20 của thế kỷ trước, hẳn sẽ mãi nhớ dáng vẻ nho nhã, lành hiền, thoạt gặp cứ có vẻ như lành lạnh nhưng thực ra lại rất đôn hậu, của cậu học trò trường Bưởi này.
Quê ở làng Xuân Cầu xứ Đông từng đi vào ca dao "Ai về Đồng Tỉnh, Hoa Cầu / Để thương, để nhớ, để sầu cho ai...", anh đã mang về với những bè bạn ở Thăng Long tâm tính chân thành đến độ thẳng thắn, cởi mở đến độ hồn nhiên để cùng nhau giác ngộ cách mạng từ tuổi 15, gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1927. Và từ đấy, lửa thử vàng, gian nan thử sức, người cộng sản Lê Văn Lương cho tới phút cuối cùng của cuộc đời mình vẫn giữ nguyên tính cách quý hiếm của một người hiền chính trực, luôn nói thật và chỉ nói thật trong mọi tình huống. Bác Hồ, như hồi ức của thư ký Vũ Kỳ kể lại, đã nhận thấy trong đồng chí Lê Văn Lương "những đức tính chuẩn mực" ấy để tin cậy và trao đổi những điều tâm huyết nhất trước lúc vĩnh viễn đi xa.
Đồng chí Lê Văn Lương sinh ra trong một gia đình nhà nho hiếu học và nhiều tài năng. Chính từ dòng họ Nguyễn Công đã lớn lên những tên tuổi sáng chói trên nhiều lĩnh vực. Anh ruột đồng chí Lê Văn Lương là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Đồng chí Nguyễn Tài, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, Anh hùng LLVTND, là cháu gọi đồng chí Lê Văn Lương là chú ruột (thân phụ đồng chí Nguyễn Tài là nhà văn Nguyễn Công Hoan)... Họ ngoại của đồng chí Lê Văn Lương là họ Tô với những nhà cách mạng tên tuổi như Tô Hiệu...Như không ít bè bạn cùng thời ở trường Bưởi, cậu học trò Nguyễn Công Miều đến với lý tưởng cách mạng cứu dân cứu nước như một lẽ tự nhiên. Và trong "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" dường như còn có một chút gì lãng mạn cổ kính kiểu tráng sĩ phương Đông, coi cái chết vị nghĩa nhẹ tựa lông hồng. Có lẽ chính vì thế nên chàng thư sinh Nguyễn Công Miều đã đi vào Nam "vô sản hóa".


Và khi phải vào Khám Lớn Sài Gòn ở tuổi 17-18 để chờ thi hành án tử hình vì "tội" làm cách mạng, người chiến sĩ trẻ Lê Văn Lương, cũng như các đồng chí của mình, mới có thể hành xử được như sau này đồng chí kể lại:
"Vừa đến khu xà lim án chém, đã nghe có tiếng gọi quen quá:
- "Lương, Lương, thôi có bạn rồi, vào ở đây cho vui!"
Ngỡ ai, hóa ra là anh Hùng. Anh đang ngồi kề ngay cửa xà lim chơi. Lúc bấy giờ, các anh đã đòi phải mở cửa xà lim mỗi ngày vài bận cho sáng xà lim, và nhìn ra ngoài cho vui. Thanh và Rỗ cũng mời: "Các anh vào đây. Chật một tí không sao ạ!". Thế là bảy mạng cả thảy trong một xà lim.
Anh Hùng nói đùa: "Để mai, bảo nó dọn bữa tiệc, ta nhậu với nhau". Trong này, mỗi chủ nhật muốn uống rượu, cứ gọi y tá đến "Ờ thày này, bọn tôi "ho" quá, có gì uống nhỉ?". Y tá hiểu ý, đem rượu ở nhà thuốc lên ngay.
Được vài hôm, tên gácđiêng sếp người Pháp đến. Nó bảo anh Hùng: "Y án chém các anh rồi. nhưng gặp vụ án vừa qua phải đợi Paris xét thêm nên còn chờ. Thấy các anh không phải người sợ chết, tôi mới nói cho mà biết đấy. Tôi đã mua rom và xì gà. Mỗi người một ly rượu rom và một điếu xì gà". Bọn Pháp cho tù tử hình uống rom và hút xì gà trước khi chém, nghe đâu để cho hăng.
Anh Hùng nói luôn: "Đâu, đem chúng tôi dùng ngay bây giờ. Lúc nào chém sẽ hay!". Tên gácđiêng sếp đưa rượu rom và ba điếu xì gà đến. Anh Hùng vặn nó: "Chúng tôi bảy người, anh đưa có ba, không đủ". Nó lại lấy thêm. Chúng tôi mỗ người phì phèo một điếu. Khói om xà lim...". Đúng là "trông chết cười ngạo nghễ"! Trước đó, ở phiên tòa đại hình kết án chém đối với mình, đồng chí Lê Văn Lương cũng đã lớn tiếng công khai kết tội lại chế độ thực dân: "Các anh nói mình là dân chủ nhưng đó là thứ dân chủ kiểu gì vậy nếu như khi muốn lấy đầu người ta, các anh lại chỉ cho phép người ta nói độc câu "uẩy u nông" (có hay không)?!".
Và cũng chính tinh thần mã thượng ấy đã giúp đồng chí Lê Văn Lương vượt qua được không chỉ án tử hình mà cả 11 năm đằng đẵng trong xà lim địa ngục trần gian Côn Đảo... Trở về đất liền ngày 23/9/1945 sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí lại lao mình vào cuộc chiến đấu mới cùng cả dân tộc chống lại các loại giặc thời chiến và thời bình. Đồng chí đã trải qua nhiều cương vị lãnh đạo quan trọng, từng là Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác tổ chức, Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chánh văn phòng Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội...


Nguyễn Công Hoan


Tiểu sử
Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 (8 tháng 2 năm Quỹ Mão). tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh tỉnh Hưng Yên, mất 6-6-1977 tại Hà Nội. Sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng và Nguyễn Công Mỹ.
Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Nhà văn đã từng là Giám đốc Trường Văn hóa Lý Thường Kiệt. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ).


Xuất thân làm nghề giáo, Nguyễn Công Hoan có dịp đi nhiều, chứng kiến nhiều cảnh sống của nhiều tầng lớp xã hội. Cuộc sống thôi thúc ông cầm bút viết về "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". bắt đầu văn nghiệp của mình vào những năm hai mươi của thế kỷ này khi ở Việt Nam, văn học được viết bằng quốc ngữ đã khá phổ biến. Truyện ngắn đầu tiên "Quyết chí Phiêu lưu", ông viết năm 17 tuổi. Năm 20 tuổi xuất bản tập truyện ngắn "Kiếp Hồng Nhan" Những truyện ngắn đăng thường xuyên trong "Xã Hội Ba Ðào Ký" và tiểu thuyết "Những cảnh khốn nạn" tập I, dầy 218 trang in, xuất bản năm 1932, viết trong thời gian ông dạy học ở Lao Cai, đã báo hiệu con đường văn độc đáo của ông sau này đi tới trọn đời. Nhưng phải đến năm 1935 với tập truyện Kép Tư Bền Nguyễn Công Hoan trở thành nhà văn có danh tiếng trên văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1938, Nguyễn Công Hoan cho xuất bản tiểu thuyết Bước đường cùng - một tác phẩm góp vào bức tranh chung về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng
Ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-Nghệ thuật (đợt I, 1993)
Những tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan được Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I-1996) gồm Kép Tư Bền (truyện ngắn, 1935). Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938). Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955). Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956), Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960), Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961), Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971), và Tuyển tập truyện Nguyễn Công Hoan (3 tập).
Năm 1936, truyện dài Tắt lửa lòng của ông đã được Trần Hữu Trang chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng Lan và Điệp.





Thành tựu nghệ thuật
Nguyễn Công Hoan là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Tác phẩm Kép Tư Bền (viết năm 1927, xuất bản năm 1935) đã gây chấn động trên văn đàn, và là đề tài cho cuộc bút chiến giữa hai quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh lúc bấy giờ. Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông các cấp.
...Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời" mà đặc trưng là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian, tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một "vũ khí của người mạnh" để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng... Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp... Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn... Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại... Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là "cổ điển" trong nền văn học hiện đại."[3]


Từ điển bách khoa Việt Nam đánh giá:
Có thể nói Nguyễn Công Hoan là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam... Nguyễn Công Hoan đến với chủ nghĩa hiện thực bằng văn học trào phúng. Từ những truyện đầu tiên, ông đã tìm đề tài trong những người nghèo khổ, cùng khốn của xã hội. Đa số nhân vật phản diện của ông đều thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có và quan lại, cường hào. Toàn những cảnh xấu xa, bỉ ổi, những chuyện bất công, ngang ngược, những con người ghê tởm, đáng khinh bỉ. Nguyễn Công Hoan tạo ra những tình huống bất ngờ, rồi phá lên cười và làm cho người khác cười theo, nhưng ngẫm lại thật thương tâm đau xót."[4]
Ngoài sáng tác, những bài tiểu luận, phê bình văn học của ông cũng được đánh giá cao vì có cái nhìn, cách tiếp cận sắc sảo về các tác giả văn học Việt Nam.
Ông từng có mặt trong Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô từ thập niên 1960[5]. Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1984 tại Hà Nội.
Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.






Giai thoại
Mặc dù sinh thời, Phạm Quỳnh nhận xét về Nguyễn Công Hoan rằng: "Truyện viết hay như Tây" nhưng ông rất ít đọc các tác phẩm văn học nước ngoài, kể cả tác phẩm của các tác giả bậc thầy. Theo ông kể lại, ngày còn đi học, ông được một người thân cho ba đồng bạc để mua sách, ông góp thêm tiền vào mua được bộ tiểu thuyết "Bá tước Monte Cristo" (bấy giờ được dịch sang tiếng Việt là "Ngọc Sơn bá tước") của Alexandre Dumas. Sách mua về, ông chỉ đọc có chương đầu tiên rồi bỏ, từ đấy cuốn sách chỉ để cho mượn. Khi ông được người bạn cho mượn một tập truyện ngắn của Guy de Maupassant thì ông cũng chỉ đọc có truyện đầu là truyện "Lão ăn mày", rồi không xem thêm nữa.[6]

Chuyện xảy ra ở nhà 66 Thợ Nhuộm
Trong những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhà ông Nguyễn Công Hoan ở 66 Thợ Nhuộm (nằm trong trụ sở Báo CAND hiện nay). Hồi đó, giáp tường nhà ông Nguyễn Đức Thuận (hiện nay là nhà ông Phạm Thế Duyệt - Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam), gia đình đào một cái hầm tránh bom. Có lần máy bay Mỹ đến, bà Yến (vợ ông Hoan) gọi hết con cháu xuống hầm, nhưng ông Hoan vẫn đứng “hiên ngang” ngửa mặt lên trời nhìn máy bay địch. Bà hốt hoảng gọi: “Ông ơi, xuống đi, không máy bay nó bắn chết bây giờ đấy!”. Bà không ngờ ông bảo: “Bà yên tâm, nó có nhìn thấy tôi đâu mà nó bắn”. Đó là cái lý của nhà văn trào phúng, coi việc sống chết cứ như chuyện chơi!


Ông trêu bà
Năm 1968, chiến tranh ác liệt. Đang học lớp một, tôi cùng ông bà và ba anh chị em của tôi sơ tán về quê bà nội ở thôn Đôn Thư, xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Hàng ngày, bà nấu cơm cho ông và các cháu ăn. Ông nghiện thuốc lá, thỉnh thoảng uống rượu. Nhất là lúc có chuyện gì bận tâm, ông lại nhâm nhi chén rượu.
Một hôm, ông dọn cái mâm ra, mang một chai nước trắng rót ra chén, giả vờ ông cháu uống rượu để... trêu bà. Ông bảo các cháu ngồi vòng tròn, đưa cho mỗi đứa một chén. Lúc bà từ nhà bếp đi lên, thấy ông ngồi uống “rượu”, bà nghĩ, hôm nay có chuyện gì đây? Bà nhìn kỹ, thấy mỗi cháu một chén, bà “tá hoả” kêu lên: “Trời đất, ông lại còn đầu độc chúng nó nữa à?”. Ông giả vờ nghiêm nét mặt, bảo: “Bà! Tôi có việc suy nghĩ, tôi phải uống”. Bà nói: “Thế nhưng sao ông lại cho chúng nó uống ruợu?”. Ông làm bộ bực mình bảo: “Bà nói nữa, tôi đổ hết rượu bây giờ”. Nói rồi, ông đùng đùng đứng dậy, đổ hết “rượu”. Bà sợ quá. Lũ trẻ chúng tôi không nhịn được nữa, cười phá lên. Lúc này bà mới biết ông... trêu bà!

Ông làm bà... hỉ hả
Tính ra, nhà văn Nguyễn Công Hoan phải vào nằm viện vài đợt. Khi nằm viện, ông cũng có phần áy náy về vợ ông. Chả là sau khi ông xuất bản cuốn tự thuật “Đời viết văn của tôi”, bà đọc mãi mà chẳng thấy ông nhắc gì tới bà. Bà buồn lắm. Đang nằm trên giường bệnh, một hôm ông tâm sự với bà: “Bà biết không, đời tôi mà nếu không gặp bà thì không thể viết văn được cho đến bây giờ. Cho nên trong sự nghiệp của tôi có một nửa của bà”. Nghe ông nói thế, bà cảm động rơi nước mắt. Bà vui và hỉ hả lắm.


Nguyễn Công Mỹ


Nguyễn Công Mỹ(1909 - 1949)
Người làng Xuân Cầu xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Xuân Cầu là một làng văn hiến ở cạnh quốc lộ 5 và có nhiều người đến làm ăn sinh sống ở nội thành Hải Phòng sống khá đông ở khu chợ Con. Gia đình Nguyễn Công Mỹ cũng vậy, em ông là Nguyễn Công Bồng, đảng viên cộng sản dạy ở trường Tổng sư Đại Lộc, trường Tiểu Bàng (Kiến Thuỵ) từ 1937-1943. Cháu ông là Nguyễn Tài Khoái (Tĩnh) tham gia thành uỷ Hải Phòng sau cách mạng thành công. Dòng họ Tô làng Xuân Cầu cũng có nhiều người hoạt động cách mạng nổi tiếng gắn bó với Hải Phòng như Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, anh em Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Mỹ, Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng đều được gia đình chăm lo dạy dỗ, cho ăn học, mặc dù nhà nghèo, có khi phải dựa vào ông bác ruột làm quan.
Nguyễn Công Mỹ học ở Hải Phòng năm 1925 tham gia biểu tình đòi tha nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Năm 1930 đang học năm thứ tư trường Sư phạm Hà Nội bị đuổi học vì tham gia hoạt động cách mạng. Sau đó ông về dạy tư ở nội thành Hải Phòng và tiếp tục hoạt động. Là nhà giáo đức độ, tài năng, ham hoạt động nên có uy tín, ảnh hưởng rộng. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông được Đảng phân công hoạt động công khai, ông đã cùng các thầy giáo Nguyễn Hữu Tảo, Lê Xuân Phùng cộng tác với Vũ Quí tổ chức Hướng Đạo Sinh Hải Phòng đi vào con đường hoạt động yêu nước. Khi bầu cử hội đồng thành phố, Thành Đảng bộ Cộng sản Hải Phòng đã chọn Nguyễn Công Mỹ ra tranh cử với đốc tờ Đệ. Lúc này theo chủ trương của Đảng, Nguyễn Công Mỹ hoạt động công khai trong hội Ánh Sáng và đã thay Bùi Vũ Trụ làm trưởng ban Uỷ ban chống nạn thất học. Với hoạt động xã hội rộng rãi nên Nguyễn Công Mỹ có ảnh hưởng sâu rộng, nhưng do chính quyền Pháp tổ chức bầu cử gian lận nên đốc tờ Đệ đã thắng. Ngày công bố kết quả bầu cử, thanh niên công nhân đã công kênh rước Nguyễn Công Mỹ trước quảng trường toà Đốc lý, hô vang khẩu hiệu đòi tự do dân chủ. Tháng 5/1938. Hội Truyền bá quốc ngữ thành lập, cơ sở của hội ở Hải Phòng-Kiến An lần lượt ra đời và là những nơi có phong trào mạnh của Bắc Kỳ lúc ấy. Nguyễn Công Mỹ đảm nhiệm công tác trưởng ban cổ động.


Cánh mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Công Mỹ giữ chức Uỷ viên tư pháp trong Uỷ ban nhân dân cách mạng thành phố. Ngày 8/9/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, Nguyễn Công Mỹ nguyên trưởng ban Uỷ ban chống nạn thất học học của Thành uỷ Hải Phòng, được bổ nhiệm chức Tổng giám đốc Nha. Nhiệm vụ chống nạn thất học là một trong ba quốc sách hàng đầu của nhà nước cách mạng non trẻ và được Bác Hồ đặc biệt quan tâm. Vừa nhận nhiệm vụ, ông đã bắt tay chuẩn bị xây dựng bộ máy, chương trình, nội dung, sách giáo khoa, nguồn giáo viên, học viên... Ngày 17/9/1945, ông chủ trì hội nghị cán bộ toàn Nha để bàn và thông qua kế hoạch.
Với kinh nghiệm hoạt động chống thất học và vận động thanh niên ở Hải Phòng thời kỳ bí mật, Nguyễn Công Mỹ đã cùng đồng sự dựa vào chính quyền các cấp hoạt động tích cực. Chỉ một năm sau ngày 8/9/1946 cả nước đã có 2.520.678 học viên, 95.665 giáo viên, 74.957 lớp học, do nhân dân, giáo viên, học viên tự nguyện tự giác tham gia. Rồi kháng chiến nổ ra ở Miền Nam đến 19/12/1946 lan ra toàn quốc, nhưng phong trào diệt dốt vẫn duy trì phát triển khắp nước không chỉ ở vùng tự do, vùng du kích mà cả nhiều nơi để vùng địch tạm chiếm.
Đến tháng 6/1950, cả nước đã có trên 10 triệu người thoát nạn mù chữ, 10 tỉnh, 80 huyện, 1424 xã, 7248 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Cũng năm này, Quốc hội họp kỳ II đánh giá: Cũng như thành tích chống giặc ngoại xâm và thành tích chống giặc đói, thành tích bồi dưỡng học viên chống giặc dốt rất là vĩ đại....... Những thành tích vĩ đại trên có phần đóng góp to lớn của người Tổng giám đốc Nha đầu tiên, nhà giáo cách mạng Nguyễn Công Mỹ, mặc dù ngày 6/1/1949 ông đã hi sinh khi đi công cán.







0 nhận xét:

Post a Comment