Tặng P.

Sunday, September 11, 2011


Không biết đặt tựa đề của nó là gì nữa.
_ Lam y khach _

Theo mùa con sáo sang sông
Tôi về tát chiếc gàu sòng lẻ loi
Đất quê vị chát mặn mòi
Áo sồng nâu bạc, trăng soi giếng làng
Mù u chưa hết ngỡ ngàng
Bỏ tôi bướm cũng theo nàng bay đi
Thương em đương tuổi xuân thì
Lược gương còn vụng vu quy xứ người
Tôi mơ qua ngõ em cười
Ngày mai... xứ lạ còn tươi môi hồng?
Thương em chân đất áo sồng
Tóc dài buông xoã thơm nồng vị quê
Váy chùng gió quất bờ đê
Chiều nghiêng nắng đổ em về nơi đâu
Chạnh lòng cau úa vì trầu
Tôi còn hát khúc Huê Cầu nhớ em.

VH 24/08/k4





Bên kia sông Đuống


Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Chưa bán được một đồng
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp trên bờ tre hun hút
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ?
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn

Đêm buông xuống dòng sông Đuống
-- Con là ai ? -- Con ở đâu về ?

Hé một cánh liếp
-- Con vào đây bốn phía tường che
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng
Ngậm ngùi tóc trắng đang thầm kể
Những chuyện muôn đời không nói năng
Đêm đi sâu quá lòng sông Đuống
Bộ đội bên sông đã trở về
Con bắt đầu xuất kích
Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo trên đống lửa
Mà cánh đồng ta còn chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc dân quân cày bừa
Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
"À ơi... cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù"
Tiếng em cắt cỏ hôm xưa
Hiu hiu gió rét mịt mù mưa bay
"Thân ta hoen ố vì mày
Hờn ta cùng với đất này dài lâu..."

Em ơi! Đừng hát nữa! Lòng anh đau
Mẹ ơi! Đừng khóc nữa! Dạ con sầu
Cánh đồng im phăng phắc
Để con đi giết giặc
Lấy máu nó rửa thù này
Lấy súng nó cầm chắc tay
Mỗi đêm một lần mở hội
Trong lòng con chim múa hoa cười
Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra bể
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời

Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trảy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.


-- Việt Bắc, tháng 4, 1948






Hoàng Cầm

Hoàng Cầm, tên thật là Bùi Tằng Việt, (sinh 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang – mất 6 tháng 5 năm 2010 tại Hà Nội), là một nhà thơ Việt Nam.

Quê gốc của Hoàng Cầm ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.

Năm 1944, do Thế chiến thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt Minh. Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn Tây, Thái Bình một thời gian rồi giải thể.

Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.

Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Tuy nhiên, không lâu sau, do vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu non năm 1970 lúc 48 tuổi.

Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam Quan, Kiều Loan và các bài thơ Lá diêu bông, Bên kia sông Đuống. Bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông.

Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi. [1]

Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.[2]

Thời gian cuối đời ông sống tại Hà Nội và mất vào ngày 6 tháng 5 năm 2010 vì bệnh nặng.





Tác phẩm
  • Hận ngày xanh (phóng tác theo Lamartine 1940);
  • Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen 1940);
  • Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941);
  • Thoi mộng (truyện vừa, 1941);
  • Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942);
  • Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944, 1942);
  • Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943);
  • Kiều Loan (kịch thơ, 1945)
  • Ông cụ Liên (kịch nói, 1952);
  • Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi, 1957);
  • Tiếng hát quan họ (trường ca, in chung trong tập Cửa Biển, 1956);
  • Những niềm tin (thơ dịch của Bonalan Kanfa - Algérie, 1965);
  • Men đá vàng (truyện thơ, 1989);
  • Trương Chi (xuất bản năm 1993)
  • Tương lai (kịch thơ, 1995);
  • Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  • Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993) - Giải thưởng Nhà nước 2007
  • Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994);
  • 99 tình khúc (tập thơ tình, 1955) - Giải thưởng Nhà nước 2007

Em xưa nhuộm vải Huê Cầu

_ Hội Viên Thi Đàn _

Nàng về phơi lụa say màu nhớ
Chàng đến trông trời trải chiếu mơ
Gọi nắng nâng niu từng đoạn sợi
Yêu người gìn giữ mọi đường tơ
Thầm trao tấm vải lòng da diết
Lặng gói ân tình dạ ngẩn ngơ
Làng nhuộm Huê Cầu* giờ quá khứ
Em xưa đâu mất lối sương mờ


* Huê Cầu: xưa là làng - nghề nhuộm thâm
(Nay thuộc Thôn Xuân Cầu - Xã Nghĩa Trụ - Huyện Mỹ Văn - Tỉnh Hưng Yên )




Thơ vô đề

_ heomaylacmua _

Ấu thơ…
Là khoảng trời tóc mây cùng ngoại
Là cánh cò đón nắng ban trưa

Tiếng cười trong veo đưa con về với ngoại
Ngoại móm mém cười… đôi mắt giếng khơi…

Con nhớ
Đồng Tỉnh – Huê Cầu Ngoại gánh con mòn lối
Sáng tinh mơ con thức dậy cùng sương
Có những lần trở trời gió rét
Ngoại ôm con co ro góc chợ nghèo

Sớm mai
Khi con thành thiếu nữ
Ngoại vẫn gồng từng gánh gạo qua sông
Con chạnh lòng khi trời chiều đổ xuống
Bóng ngoại già ngả dọc triền đê

Cây cầu cong dẫn con về chốn cũ
Con lặng người
                Huệ trắng…
                           Nắm hương thơm…








Mẹ tôi

_ Liên Hương _

(Nhớ về mẹ - ngày giỗ đầu)

Mẹ tôi quê ở Xuân cầu
Tuổi thơ vất vả dãi dầu gió sương
Chăm làm chịu khó chịu thương
Đảm đang vén khéo nhịn nhường nết na

Thiện lương ngay thẳng thật thà
Công dung ngôn hạnh nếp nhà giữ tâm
Hồn trong cuộc sống thanh bần
Một lòng chung thủy vì chồng chăm con

Cả đời vẹn trái tim son
Dù cho bao cuộc vuông tròn trắng đen
Thương cha mẹ, quý anh em
Giúp người chẳng kể sang hèn thấp cao

Chia cay đắng, xẻ ngọt ngào
Tình người như sóng dâng trào đại dương
Yêu đất nước, nhớ quê hương
Trải qua biết mấy chặng đường chông gai

Ra đi tròn một đời người
Tâm sen nhẹ thoảng nụ cười ung dung
Mùa Thu đẹp sắc cờ hồng
Mẹ tôi sống mãi trong lòng người thân


Liên Hương



HAI BÀI THƠ VỀ LIỆT SỸ CÁCH MẠNG TÔ HIỆU

_ Tô Dũng _

Tinh thần Tô Hiệu


Ngày nước mất chìm trong nô lệ
Cảnh đói nghèo đau xé ruột gan
Thương dân Tô Hiệu đứng lên
Đi làm cách mạng đập tan gông xiềng

Anh từng đến bao miền hoạt động
Địch giam cầm tù tội xá chi
Xả thân đâu có quản gì
Cùng bao đồng chí gian nguy chẳng sờn

Sát quần chúng tuyên truyền giác ngộ
Gây phong trào bão tố nổi lên
Đập tan áp bức cường quyền
Đem về manh áo miếng cơm dân nghèo

Anh vào Đảng quyết theo lý tưởng
Mác Lênin- Cộng sản Đông Dương
Tin yêu chỉ một con đường
Cứu dân cứu nước muôn phương hướng về

Dẫu tật bệnh chẳng hề nản chí
Vẫn vững vàng chí khí đấu tranh
Cho đến hơi thở cuối cùng
Ra đi để lai tấm lòng kiên trung

Xuân Cầu nơi ấy quê hương
Tinh thần Tô Hiệu tấm gương sáng ngời



 ❧ ❀ ❧ 



Nhớ về " Tô Hiệu học đường " *



Nuối tiếc, xót xa một mái trường
Trải bao ngày nắng, với đêm sương
Dấu xưa mờ nhạt bên dòng Nghĩa *
Nền cũ phôi pha dưới ánh dương

Truyền thống Xuân Cầu say lý tưởng
Tình quê Tô Hiệu đậm niềm thương
Mong sao sớm được trùng tu lại
Nuối tiếc, xót xa một mái trường

* Trường kiêm bi Xuân Cầu, bên dòng sông Nghĩa Trụ chảy qua quê hương Xuân Cầu do Tô Hiệu vận động xây dựng trong thời gian bị quản thúc ở làng.


 ❧ ❀ ❧ 

Tô Hiệu; Bãi Sậy - 2 bài thơ của Đàm Văn Quả

_ Đàm Văn Quả _
Hội thơ Đường Hà Đông
               TÔ HIỆU

Đảng giao Tô Hiệu đến Sài Gòn
Pháp bắt đi đày sóng Đảo Côn
Vào ngục tôi hồng tu ý chí
ra tù rèn thắm gội tâm hồn
Tái giam mặt sắt đưa chuồng cọp
Lập nguyện gan vàng đối khẩu ngôn
Tranh đấu trong lao đòi lẽ sống
Cây đào Tô Hiệu nẩy hồng son
               BÃI SẬY

"Nhất dạ" đồng lầy, nhất thảo hoang
Độc chen lau sậy, độc cầu ngang
Cỏ gai lắm lưỡi ngăn gian tặc
Rắn quái nhiều răng cắn thú lang
Quản Cọp Xuân Cầu vang đất dội
Văn thân Thắng Lợi động trời vang
Quân Lương bạt vía gươm Quang Phục
Thiện Thuật tài lừng Pháp phải hàng



 ❧ ❀ ❧ 

Nguồn: Thi Viện

Quê mẹ nắng hồng

Tặng quê ngoại Xuân Cầu


Bao năm trở lại chốn nơi xưa

Nghe vọng bên hồn chuỗi Tuổi thơ

Quê Mẹ nắng hồng như cổ tích

Hàng tre xanh mát, cánh đu đưa

Nhịp cầu Nghĩa Trụ trăng lồng bóng

Phiên chợ Đình Ba má ửng mờ

Lối rẽ thôn Lê chiều bảng lảng

Hỏi ai ngơ ngẩn với tờ thư ?...









Nhà văn Băng Hồ

... Quê nội tôi chính là quê ngoại anh Đặng Trần Phiến. Anh nặng tình với Xuân Cầu hơn ai hết trong tất cả anh chị em trong họ. Tôi không thể viết về quê nội thật hay và đầy tình tự như bài Nắng Quê Ngoại của anh. Anh trắng trẻo như con gái, ăn mặc đúng điệu công tử Hà Nội, tóc chải bồng bềnh bóng mượt. Suốt ngày chỉ thấy anh ca hát, những bài như Trương Chi, Suối Mơ của Văn Cao, Tình Quê Hương của Việt Lang, Đêm Đông của Nguyễn Văn Thương, Con Thuyền Không Bến, Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong. Rồi lại viết chuyện, làm thơ. Bút hiệu anh là Băng Hồ, lấy từ câu Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ của Vương Xương Linh. Anh thường đi chơi chụp ảnh cùng một vài cô thôn nữ xinh đẹp. Có thể anh tiêu biểu cho các cậu ấm cô chiêu, lạc lõng trong thời kháng chiến.
...
Anh Băng Hồ hồi cư về Hà Nội đầu năm 1950 cùng với chúng tôi, tiếp tục sự nghiệp văn thơ, nhưng đến năm 1954 đã không di cư vào Nam.

Tết Dương lịch năm 1995, chúng tôi có dịp về thăm Hà Nội, và may được gập lại anh. Anh là người con duy nhất của nhà văn Đặng Trần Phất, tú tài tây học xuất thân từ trường Albert Sarraut, và cháu cụ Đặng Trần Vỹ, Tổng Đốc Bắc Ninh. Tuy mồ côi lúc hơn một tuổi, mà gần bẩy chục năm sau, trong cảnh một đất nước nghèo nàn và khói lửa triền miên, anh đã âm thầm sưu tầm để rồi tổng kết được những tác phẩm văn thơ tiếng Việt và tiếng Pháp của người cha.
Anh trân trọng tặng chúng tôi một cuốn sách mộc mạc chưa kịp đóng bìa: Văn thơ Đặng Trần Phất, nhà xuất bản Văn Học Hà Nội, 1994. Đọc Lời cuối sách anh viết về thân phụ, tôi mới hình dung được tình phụ tử của anh to lớn vô cùng. Anh phải chắp nối những chuyện kể lại từ bà mẹ và họ hàng nội ngoại, rồi tạo ra một hình ảnh về người bố, để mà sống bằng những kỷ niệm trong khung trời tâm tưởng ấy. Thân phụ anh là nhà văn viết xã hội tiểu thuyết sớm nhất, với Cành Hoa Điểm Tuyết, xuất bản năm 1921 và Cuộc Tang Thương năm 1923, cùng thời với Hoàng Ngọc Phách viết Tố Tâm xuất bản năm 1925. Và vì được mẹ nuôi dưỡng, nên anh rất nặng tình quê ngoại Xuân Cầu. Năm ngoái, anh lại gửi cho tôi cuốn Phượng ơi! mùa dĩ vãng, do nhà xuất bản Văn Học Hà Nội, 2002. Đây là tuyển tập những truyện ngắn của anh trong thời hồi cư 1950-54 tại Hà Nội, trong có bài Dòng mực đầu năm viết riêng về thân mẫu anh, bà Tô Thạch Lan.

Một người mẹ đã phải lặng lẽ từ khước biết bao nhiêu chân tình để mong khỏi phải đi bước nữa, vì sợ anh phải khổ hay phải tủi với người bố dượng. Một người mẹ chỉ cầu cho anh sớm yên bề gia thất để có con nối dõi tông đường, vì lo anh quá miệt mài với nghiệp chướng thi văn. Rồi trong cảnh mẹ góa con côi ấy, giọt nước mắt của mẹ lúc nào cũng là hình phạt mà anh sợ hãi nhất. Đọc xong, tôi lại càng mến phục anh thêm vì tình mẫu tử rất đặc biệt này.

Tô Đồng
2004

Bài hát trong "Trò Ngô Quốc" (Trích "Trò Xuân Phả") - Phan Cẩm Thượng

Saturday, September 10, 2011
_ Phan Cẩm Thượng _
Trích "Trò Xuân Phả"
...
5. Trò Ngô Quốc, 1 ông Chúa Tàu, 2 cô tiên,1 mệ Nàng, 1 thầy địa lý, 1 thầy lang, 1 anh bán kẹo, 10 quân trò.

Đồ dùng:
Chúa áo thanh thiên màu nõn chuối, không thêu vẽ, có hổ phù trước ngực. Cô tiên đầu đội mũ hoa sen, áo xiêm dài, tay có hai mảnh vải đỏ làm cánh, chân đi bít tất trắng. 10 quân áo không thêu vẽ, màu thanh thiên, có hình lá sòi ở cổ, chân đi tất trắng đế đen. Mệ nàng mặc như trò Hoa Lang. Lang y mặc theo lối khách Tàu, đi giày Tàu , cầm dao cầu và đeo rương thuốc nhỏ. Thầy địa lý áo khách màu xanh, tay cầm la bàn, đeo khăn gói đỏ. Anh bán kẹo mặc áo khách xanh, có sàng đeo ở cổ, trong sàng bày bát đĩa, 4 con xúc sắc, mấy đồng tiền, mấy cái kẹo.

Cách múa:
Chúa múa dạo lên lối bái tàu, múa siêu đao, phất cờ, múa tay cùng bà nàng đối diện. Quân múa sạp xòe, dâng cao chân theo tay. Múa xong ba cấp đến chèo đò.
Trống đánh: cắc thùng cắc, cắc thùng cắc, thùng thùng thùng thùng thùng thùng cắc. Cứ cắc thì dậm chân, dậm hai cái rồi bước theo. Trong khi múa và bái có hô tiếng “Xi lô” 10 mái chèo như múa Hoa Lang.

Múa dẫn của hai cô tiên
Chúa Tàu dẫn quân tiến vào tế
Quân Ngô mua cao chân và cao tay


Múa dâng cao chân tay

Múa chèo thuyền


Đoàn quân Ngô múa chèo thuyền và từ biệt cô gái Việt


Bài hát
Tu là đi tu
Lần này anh quyết đi tu
Ăn chay nằm mộng ở chùa hồ sen
Thấy cô mình má phấn răng đen
Nam mô di Phật, anh quên mất chùa
Ai mua tiên cảnh thì mua
Còn cái mõ mít treo chùa tam quan
Trống chùa này treo cửa tam quan
Đợi người quý khách hồng nhan vẫy vùng
Trống chùa nay ai gõ thùng thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng nên riêng
Đầu năm ăn quả thanh yên
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bồng
Ăn cam nhớ quít, ăn hồng cậy nhau
Trồng chuối, chuối lổ tiêu tàu
Thầy mẹ em chỉ tham giàu mà thôi
Đôi ta như đũa có đôi.
(Chuyển nhịp múa)
Đôi ta như cánh chim hồng
Đẹp duyên mà chẳng đẹp lòng mẹ cha
Bước xuống thuyền anh dậm nhịp ba
Anh dậm nhịp bảy nó ra nhịp mười
Anh chẳng dậm thời thuyền chẳng đi
Dậm ra nát ván thuyền thì long đanh
Ai lên sông Sủ lắm ghềnh
Lên thác đã vậy xuống ghềnh làm sao
Luống công anh đứng mũi chịu sào
Thầy mẹ yêu đến khi nào cũng ơn
Chốn tình cờ du thủy du sơn
Biết bao giờ gặp cho hơn bây giờ
Bạn kim loan kết ngãi tình cờ
Khi nãy gặp đó khi giờ gặp đây
Chốn tình cờ ta gặp nhau đây
Mượn cắt cái áo mượn may cái quần
Yêu nhau xé lụa may quần
Ghét nhau kể nợ kể nần cho nhau
Ai lên Đồng Tỉnh , Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
Ai về chợ huyện Thanh Lâm
Nhắn nhau ngãi cũ tri âm bạn đò
Gần thời chẳng hợp duyên cho
Xa xôi cách mấy lần đò cũng đi
Anh thương nàng như lá lài bi
Ngày thì dãi nắng đêm thì dầm sương
Khen ai khéo nẻo đưa đường
Khen ai mối lái cho nường gặp anh
Đồn đây có con chim xanh
Ăn no tắm mát tìm cành đậu chơi
Hòn đất bụt anh ném lên trời
Chim bay đi mất đất rơi vào chùa
Vào chùa lạy Phật trở ra
Lạy tòa Tam thế vua cha Ngọc hoàng
Túi anh đầy những bạc cùng vàng
Mượn thợ kéo nhẫn cho nàng đeo tay
Nào ai bấm nháy nàng bay
Thời nàng giữ lấy nhẫn này cho anh
Một đêm có năm trống canh
Têm trầu quấn thuốc cùng anh trong nhà
Năm trống canh anh ngủ có ba
Còn hai canh nữa anh ra trông trời
Gió tăm tắp buồm chạy ra khơi
Chàng về Bắc quốc,em thời An Nam
Mưa đâu chớp đấy cho cam
Mưa qua thành Lạng chớp ngàn mây xanh
Anh khuyên em bốn chữ rành rành
Có thân thời giữ cháy thành vạ lây
Đừng có trách quở anh đây.



 ❧ ❀ ❧ 


Nguồn: Tạp chí Tia Sáng - 05/05/2008.

Ánh Dương

_ vankiemp _
NHỚ LIỆT SĨ TÔ HIỆU

Ruộng đồng Nghĩa Trụ, Hưng yên
Chắt chiu hạt thóc tạo nên Anh hùng
Chí trai chiến đấu đến cùng
Vào sinh, ra tử thuỷ chung trọn đời

Gió đưa hương nhãn về trời
Tiếng thơm Tô Hiệu ru đời bao la
Máu Anh nhuộm đỏ Sơn La
Cây đào Anh mãi nở hoa rợp trời

Hoa gieo mộng ước vào người
Gom thành bão lửa thiêu đời thực dân
Anh đi lệ thấm núi ngàn
Non sông đất nước muôn vàn nhớ thương !

MÃI NGÀN THU

Chắt lọc tinh hoa dòng họ Tô
Sàng sẩy cốt cách người Nghĩa Trụ
Anh hùng Tô Hiệu dựng cơ đồ
Rạng danh đất nước mãi ngàn thu





 ❧ ❀ ❧ 

Nguồn: Thi Viện