Người nghệ sĩ cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước

Saturday, May 2, 2020

Người nghệ sĩ cống hiến tuổi thanh xuân cho đất nước

QUỲNH TRANG

Trong danh sách phong danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) lần thứ 9 mới đây, có tên Nghệ sĩ Ưu tú (NSƯT) Tô Lan Phương. Bà là nghệ sĩ được rất nhiều thế hệ người nghe nhớ đến bởi giọng hát đẹp và tinh thần quả cảm, đã cống hiến tuổi trẻ của mình phục vụ đồng bào, chiến sĩ trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc.
Nghệ sĩ Tô Lan Phương khi còn trẻ.
Những người lính có mặt trong đoàn quân tiến về Sài Gòn mùa xuân năm 1968 còn nhắc mãi câu chuyện một đại đội, vì yêu mến giọng hát Tô Lan Phương đã lấy tên của bà để đặt tên cho đại đội mình trước giờ xung trận. Tiếng hát Tô Lan Phương có sức cổ vũ rất lớn đối với những người chiến sĩ trên đường Trường Sơn và chiến trường miền đông, miền tây Nam Bộ, góp phần tạo nên những chiến công vang dội. Bà trở thành biểu tượng về tinh thần yêu nước của những người nghệ sĩ trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Không chỉ với người cùng thời, mà cả đối với thế hệ trẻ hôm nay, câu chuyện về nghệ sĩ Tô Lan Phương còn mang bóng dáng của một huyền thoại.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống cách mạng, chú ruột của Tô Lan Phương là nhà cách mạng Tô Hiệu, người tù cộng sản đã trồng cây đào giữa nhà ngục Sơn La. Thấm nhuần tinh thần yêu nước của gia đình, năm 19 tuổi, Tô Lan Phương tình nguyện gia nhập Đoàn văn công Giải Phóng đi vào chiến trường Nam Bộ, quyết mang tài năng và tuổi trẻ của mình cống hiến cho cách mạng. Khi đó, bà vừa học xong hệ trung cấp thanh nhạc Trường Âm nhạc Việt Nam (nay là Học viện Âm nhạc quốc gia), được nhà trường cử đi học bảy năm ở Nhạc viện quốc gia Bình Nhưỡng (Triều Tiên). Thế nhưng, cô gái Hà Nội chân yếu tay mềm có giọng hát hay nổi tiếng từ những năm còn học Trường Chu Văn An đã bỏ lại cơ hội đó, để khoác ba-lô và bộ quân phục mầu xanh lá úa, hòa vào đoàn quân “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Tô Lan Phương thường hồi tưởng những năm tháng tuổi trẻ gắn liền với bom đạn khốc liệt; những đêm biểu diễn trên các đỉnh dốc cao hay mô đất ven đường làm sân khấu; phông màn là những mảnh dù pháo sáng, ánh đèn sân khấu có khi là ánh sáng của những chiếc xe ô-tô chở lương thực, vũ khí.


Người ca sĩ không son phấn, không thiết bị âm thanh hỗ trợ, chỉ có tiếng hát bay lên từ trái tim thiết tha yêu quê hương và khát khao một ngày hòa bình trở lại. Cô gái Sài Gòn đi tải đạn, Tiếng đàn ta-lư, Câu hát bông sen, Qua sông… là những bài hát gắn với tên tuổi nữ ca sĩ Hà thành một thời. Là một người nghệ sĩ - chiến sĩ nơi chiến trường, Tô Lan Phương không nề hà, chùn bước. Sau Chiến thắng mùa xuân năm 1975, Tô Lan Phương trở về với cuộc sống đời thường, kết hôn cùng nghệ sĩ vi-ô-lông Trần Mùi, người đồng chí, đồng đội và cũng là một nghệ sĩ từng chia ngọt sẻ bùi trong những năm chiến tranh ở Đoàn văn công Giải Phóng. Bà không tham gia một cách sôi động vào đời sống biểu diễn ở TP Hồ Chí Minh; chỉ nhận lời biểu diễn trong các chương trình kỷ niệm những ngày lễ trọng đại của dân tộc, như một cách hồi tưởng về tuổi trẻ của mình; đồng thời tri ân những người lính, những đồng đội đã vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường.

Trong sự nghiệp của mình, nghệ sĩ Tô Lan Phương đã giành nhiều giải thưởng như: Giải đặc biệt cuộc thi nhạc nhẹ quốc tế Bratislavski năm 1981 tại Tiệp Khắc, Giải thưởng nghệ sĩ ấn tượng nhất của Gala Festival Habana Cuba năm 1984, Huy chương vàng Hội diễn Ca Múa Nhạc toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội năm 1976, cùng nhiều huân chương, huy chương cao quý. Năm 1984, bà được phong tặng danh hiệu NSƯT đợt đầu tiên.

Những năm tháng sau này, Tô Lan Phương chọn cách sống tĩnh tại, có phần khép kín, đây có lẽ là lý do bà bị “bỏ quên” trong danh sách đề nghị phong tặng NSND trong suốt hơn 30 năm vừa qua. Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân, Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam là người trực tiếp đưa tên tuổi Tô Lan Phương vào danh sách những nghệ sĩ được đề nghị phong tặng lần này.

QUỲNH TRANG
Nguồn: Báo Nhân Dân - Thứ Sáu, 11/10/2019, 02:12:32

NSND Tô Lan Phương trong "Đất nước tình yêu 30/4/1975 - 30/4/2020"

NSND Tô Lan Phương trong "Đất nước tình yêu 30/4/1975 - 30/4/2020"

MC Mỹ Vân- Anh Tuấn


Nguồn: YouTube

Tưởng niệm 76 năm ngày hy sinh của nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu 7/3/1944 - 7/3/2020

Sunday, March 8, 2020
Tại Xuân Cầu
Tại Sơn La

Lễ giỗ tưởng niệm 76 năm ngày hy sinh của nhà cách mạng LS Tô Hiệu

Nghĩa Giang Tô

Lễ giỗ tưởng niệm 76 năm ngày hy sinh của nhà cách mạng LS Tô Hiệu tổ chức sáng nay 7/3/2020 tại nhà thờ họ Tô, quê hương Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên trong không khí trang nghiêm, đầm ấm.
Về dự có bà Tòng Thị Phóng, UBCT, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội; Đại tướng Tô Lâm, UVBCT Bộ trưởng Bộ CA, Lãnh đạo hai tinh Hưng Yên và Sơn La; bà con trong dòng họ và quê hương; hội dòng họ Tô VN.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn thị Kim Ngân đã gửi Lẵng hoa kính dâng.

Ba Tòng Thị Phóng đã có lời phát biểu chân tình và xúc động đồng thời tặng quĩ học bổng Tô Hiệu huyện Văn Giang 50 triệu đồng.

Vị “Tư lệnh ngành” đi tiên phong về cải cách

Wednesday, January 1, 2020

Phạm Khải

Sinh ra tại một làng quê giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, trong một gia đình có truyền thống hiếu học và yêu nước, Thượng tướng, GS.TS Tô Lâm đã thừa hưởng, kết hợp được trong mình nhiều tố chất: Đó là sự cẩn trọng, kỹ lưỡng của một người làm khoa học; sự năng nổ, quyết đoán (thậm chí quyết liệt) của một nhà quản lý, một vị Tướng quân.

Nguyên tắc, bài bản, mạch lạc; coi trọng văn hóa và thượng tôn pháp luật - đó là phẩm chất, đồng thời cũng là phong cách sống của ông. Trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an, với tầm tư duy chiến lược cùng những quyết định táo bạo, mang tính đột phá, hiện ông được xem là một trong những "Tư lệnh ngành" đi tiên phong về cải cách...

Địa danh đặc biệt với những nhân vật đặc biệt


Thượng tướng, GS.TS Tô Lâm sinh ngày 10-7-1957, quê ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Nằm cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 30km, đây là “cái nôi” sinh ra nhiều nhà khoa bảng; nhiều danh nhân văn hóa và cách mạng.


Nói một cách mộc mạc, đất này “phát” cả về “đường văn” lẫn “đường võ”. Qua tìm hiểu chúng tôi được biết, ở Xuân Cầu “nổi” nhất là hai dòng họ: Dòng họ Tô và dòng họ Nguyễn. Chỉ tính riêng trong thế kỷ XX, nếu như họ Tô có những nhà cách mạng tiền bối, từng giữ các cương vị quan trọng trong bộ máy của Đảng, Nhà nước như đồng chí Tô Hiệu (nguyên Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ); đồng chí Lê Giản (tên thật Tô Gĩ, nguyên Giám đốc Nha Công an Trung ương - vị trí cao nhất của lực lượng Công an khi ấy; nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao); đồng chí Tô Quang Đẩu (nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ); đồng chí Tô Duy (nguyên Chủ tịch Trọng tài Kinh tế Nhà nước, một vị trí hàm ngang Bộ trưởng)… thì họ Nguyễn cũng có những tên tuổi lớn: Đồng chí Lê Văn Lương (tên thật Nguyễn Công Miều, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; nguyên Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội); đồng chí Nguyễn Công Mỹ (nguyên Giám đốc Nha Bình dân học vụ); đồng chí Nguyễn Tài (Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ - nay là Bộ Công an)…

Cũng vậy, nếu như họ Nguyễn có nhà văn Nguyễn Công Hoan (nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật) thì phía họ Tô có danh họa Tô Ngọc Vân (nguyên Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam; Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật)… Đấy là chúng tôi mới chỉ sơ tính các cụ “lớp trước”.

Được biết, hiện trong số những nhân vật ưu tú sinh trưởng tại Xuân Cầu, đã có 5 người được đặt tên đường phố. Đó là các vị: Tô Hiệu, Tô Chấn (cán bộ tiền khởi nghĩa, anh trai đồng chí Tô Hiệu), Tô Ngọc Vân, Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Lương…


Đại tá, Anh hùng LLVTND Tô Quyền cùng vợ và các con (người đứng thứ 3 từ trái sang là Bộ trưởng Tô Lâm). Ảnh chụp năm 1975.
Thiết nghĩ, chỉ trong phạm vi một làng thôi mà đã liệt kê được một “danh sách vàng” như vậy, hẳn là điều hiếm thấy trong cả nước. Lại nhớ, trong số 158 đại biểu chính thức về dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tổ chức tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang (năm 1951), riêng thôn Xuân Cầu góp 5 đại biểu (gồm các đồng chí: Lê Văn Lương, Lê Giản, Tô Duy, Tô Quang Đẩu, Trần Bình), lập một kỷ lục “độc nhất vô nhị” trong các thôn làng của cả nước.

Trong “ngôi nhà lớn” thì vậy, trong “ngôi nhà nhỏ” là gia đình, Thượng tướng, GS.TS Tô Lâm cũng được thừa hưởng một truyền thống đáng tự hào. Cụ thân sinh ra ông chính là Đại tá Tô Quyền, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ, nguyên Phó ban An ninh Tây Ninh, nguyên Giám đốc Công an tỉnh Hải Hưng (tên gọi hai tỉnh Hải Dương, Hưng Yên hiện nay), nguyên Cục trưởng các Cục: Cảnh sát giao thông, Cảnh sát quản lý trại giam… Hiện ở Xuân Cầu, một trường học mang tên đồng chí Tô Quyền đã được khánh thành cách đây ít lâu.

đồng chí Tô Quyền từng là một nhân vật văn học. Cuốn truyện ký “Lá chắn thép” do nhà văn Diệp Hồng Phương chấp bút, NXB Công an nhân dân ấn hành năm 2015 đã đề cập tới cuộc chiến đấu khốc liệt của lực lượng An ninh Tây Ninh trong kháng chiến chống Mỹ, trong đó, tác giả dành số trang thích đáng để nói về vai trò, hoạt động của Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền. GS.TS Tô Lâm cho biết, ông rất cảm động và hoàn toàn bất ngờ khi biết có quyển sách này và quyển sách đã giúp gia đình hiểu thêm những năm tháng nhọc nhằn, đầy gian khổ, hy sinh của cha mình cùng những người đồng đội thân yêu.

Xuất hiện từ trang 67 đến trang 229 (tức trang cuối) của cuốn sách, đồng chí Tô Quyền là một trong những nhân vật có vai trò quan trọng (có lúc gần như quyết định) trong khoảng thời gian gần 10 năm ở một địa bàn gian khổ, ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ. Là cán bộ miền Bắc chi viện, đồng chí được Ban An ninh Miền cử về Ban An ninh Tây Ninh thay thế một đồng chí mới qua đời, giữ chức vụ Phó ban (có lúc đồng chí gánh trách nhiệm như một Trưởng ban).

Đồng chí là người thương dân, thương lính; có tinh thần cảnh giác cao; có óc phán xét nhạy bén. Đặc biệt, ngoài khả năng chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp cuộc chiến đấu ở cơ sở, đồng chí còn là người rất chịu đọc sách, nghiên cứu các Nghị quyết của Đảng. Tại Ban An ninh Tây Ninh - nơi nhiều năm đồng chí giữ cương vị Phó ban - đồng chí thường đảm trách nhiệm vụ biên soạn bài giảng huấn luyện cán bộ an ninh cấp huyện, tỉnh.


Thay mặt Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Tô Lâm trình bày Dự thảo Luật An ninh mạng tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chiều 14-9-2017 (Ảnh: Quốc hội).
Qua phản ánh của những người từng được đồng chí Tô Quyền truyền giảng, thì đồng chí là người có năng lực truyền đạt hấp dẫn các văn bản có tính lý luận cao, khiến anh em cán bộ thuộc cấp tâm phục khẩu phục. Có thể nói, đồng chí là người hùng biện. Những ai từng tiếp xúc, được nghe diễn giả Tô Lâm nói chuyện, hẳn sẽ thấy ông được thừa hưởng cái “gien” này của cụ thân sinh, bên cạnh sự “giống nhau” ở phong cách cẩn trọng, sâu sát trong xử lý công việc.

Trong “Lá chắn thép”, đồng chí Tô Quyền xuất hiện với tên gọi… Tô Lâm. Tác giả Diệp Hồng Phương đã giải thích điều này qua đoạn đối thoại giữa hai nhân vật khi một người nhận được lá thư có ghi dòng chữ ngoài bì “Kính gởi đồng chí Tô Quyền”.

- “Đồng chí Tô Quyền” là ai chú Hai?

- Tô Quyền là Tô Lâm đấy! Ông ấy tên thật là Tô Quyền, vào Nam lấy tên con trai là Tô Lâm.

Đồng chí Tô Quyền vào Nam khi cậu bé Tô Lâm mới lên 8 tuổi, và trở ra Bắc nhận nhiệm vụ Giám đốc Công an Hải Hưng vào tháng 2-1977, khi con trai tròn 20 tuổi, đang là sinh viên năm thứ ba Học viện An ninh nhân dân.

Về phía đấng sinh thành thì vậy, về phía nhạc phụ, nhạc mẫu, GS.TS Tô Lâm cũng có quyền tự hào vì đó đều là những Nghệ sĩ Nhân dân; những “cây đa cây đề” được giới văn nghệ sĩ cả nước biết tiếng. Phu nhân cùng các anh chị của phu nhân GS.TS Tô Lâm cũng vậy. Họ là những người danh giá, thành đạt, đều hoạt động trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.


Một số tác phẩm đã xuất bản của Bộ trưởng Tô Lâm.
Có thể nói, GS.TS Tô Lâm đang sống giữa một khu vườn nghệ thuật đậm hương sắc. Đó tất nhiên là sự lựa chọn của ông và ít nhiều đã chi phối cách xử lý, nhìn nhận vấn đề của ông - một vị Thượng tướng, người đứng đầu lực lượng Công an toàn quốc.

Vì một môi trường an lành, xã hội an toàn

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khoá XI) khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Với Thượng tướng, GS.TS Tô Lâm, đây không chỉ là nhiệm vụ ông cần quán triệt trong chỉ đạo công tác công an ở những lĩnh vực liên quan mà cao hơn thế, đó cũng chính là điều ông tâm đắc, là quan điểm, là nhận thức của cá nhân ông.

Không phải ngẫu nhiên mà ngay sau khi được Quốc hội bầu làm Bộ trưởng Bộ Công an (ngày 9-4-2016), trên cương vị công tác mới, Bộ trưởng Tô Lâm đã nêu rõ mục tiêu của Lực lượng Công an là xây dựng môi trường an lành, xã hội an toàn. Mà để “an lành”, “an toàn” thì cái ác phải được ngăn chặn, loại trừ ngay từ trong trứng chứ không phải chờ đến khi nó “lớn” lên, bung ra thành vụ án rồi mới tính đến chuyện… phá.


Bộ trưởng Tô Lâm cùng một số thành viên trong gia đình bên thân mẫu.
Trong bài nói chuyện với trí thức trẻ Hà Nội về 10 vấn đề liên quan đến nguy cơ an ninh phi truyền thống ở Việt Nam sáng 8-5-2015, GS.TS Tô Lâm, lúc bấy giờ là Thứ trưởng Bộ Công an đã thể hiện sự day dứt, trăn trở: “Chúng tôi nhiều khi băn khoăn lắm! Vụ án phá rất nhiều nhưng chưa ngăn chặn được tội phạm, để cho người dân không yên tâm, có cái gì đó bất an thì rất nguy hiểm”.

Có thể nói, ở đây, công tác đảm bảo an ninh, trật tự đã được vị Thượng tướng Công an nhìn ở cấp độ sâu rộng hơn, mang đậm yếu tố nhân văn, văn hóa. Điều ấy đồng nghĩa với việc ông không muốn - như ai đó - lấy thước đo chiến công của Lực lượng Công an từ số lượng tội phạm bị bắt và xử lý, mà soi chiếu từ chỉ số hài lòng, tâm lý yên tâm, tin tưởng vào môi trường sống của người dân.

Còn nhớ, khi thảo luận tổ ở Quốc hội (chiều 13-11-2017) về Dự thảo Luật An ninh mạng do Bộ Công an chủ trì, Bộ trưởng Tô Lâm không quên đề cập tới quyền riêng tư của người dân khi khẳng định, trong an ninh mạng, phải đảm bảo cả bí mật đời tư của người dân tham gia hoạt động trên không gian mạng chứ không phải chỉ an ninh chung của quốc gia.

Rõ ràng, nếu không quan tâm, xem trọng đời sống văn hóa tinh thần của người dân mà chỉ nhìn ở góc độ an ninh quốc gia thuần túy, hẳn ý kiến của người đứng đầu Lực lượng Công an toàn quốc sẽ trở nên “một chiều” và khó thuyết phục được đông đảo các tầng lớp nhân dân như vậy.

Năm 2016, 2017, tại Việt Nam đã xảy ra một số vụ hỏa hoạn nghiêm trọng, làm chết nhiều người. Một trong những nguyên nhân chính khiến thiệt hại thêm nặng nề là do khi làm nhà, người dân không tính đến lối thoát hiểm phụ trong trường hợp xảy cháy. Vấn đề nhà ống, nhà lan can bị bít vì cơi nới “chuồng cọp” bắt đầu được dư luận chú ý, đặt vấn đề.

Trong khi trước đấy, khi còn là Thứ trưởng, GS.TS Tô Lâm đã cảnh báo về việc này. Thậm chí, ông còn nêu trăn trở về việc người dân đã tự xóa đi quyền thụ hưởng chất lượng cuộc sống của mình vì yếu tố an toàn (mà thực chất không an toàn khi xảy ra hỏa hoạn): “Văn hóa xây nhà cửa không nghĩ đến kiến trúc cho đẹp, gần gũi môi trường, thiên nhiên và cuộc sống mà đầu tiên nghĩ sao chống được trộm để xây cửa sắt, bao tường rào cho an toàn!”.


Bộ trưởng Tô Lâm cùng các thành viên trong gia đình tại lễ kỷ niệm 55 năm ngày cưới của nhạc phụ, nhạc mẫu.
Bởi luôn nhìn vấn đề một cách đa chiều, suy xét từ nhiều góc độ; kết hợp giữa việc giữ gìn an ninh trật tự với việc duy trì nếp sống văn hóa, đảm bảo chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người dân, trong nhiều cuộc đối thoại với công luận, GS.TS, Bộ trưởng Tô Lâm đã có những lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục.

Đặc biệt, trong những vấn đề được xem là “khó”, là “nhạy cảm”, các ý kiến ông đưa ra thường được “minh họa” bằng những hình ảnh sinh động, gần gũi. Cách diễn đạt nhiều khi vui, hóm. Tất cả những yếu tố ấy khiến lời phát biểu của ông trở nên có sức nặng (mặc dù khi nói, âm sắc của ông khá nhẹ nhàng), dễ thuyết phục được các ý kiến trái chiều.

Trở lại với Dự thảo Luật An ninh mạng. Được đưa ra xin ý kiến Quốc hội trong kỳ họp tháng 11-2017, Dự luật đặc biệt thu hút sự chú ý của công luận; tạo nên một làn sóng tranh luận mạnh mẽ, trong đó có những “cư dân mạng” - vì chưa hiểu đúng thực chất vấn đề, hoặc vì động cơ cá nhân - đã lên tiếng phản đối gay gắt.

Thậm chí, so sánh với việc Bộ Công an tham mưu, đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 112 về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư (một Nghị quyết được dư luận đồng tình, nhất trí rất cao), đã có ý kiến xem việc soạn thảo Dự luật An ninh mạng là một “sự thụt lùi của Bộ Công an”, là “có hai Bộ Công an”.

Vậy nhưng, đến khi Bộ trưởng Tô Lâm vào cuộc, giải thích vấn đề thì mọi việc trở nên “nhẹ nhàng” hơn nhiều. Ấy là khi ông khẳng định: “Mạng Internet đã làm biến đổi nhiều mặt quan hệ xã hội, tác động vào sản xuất, đời sống kinh tế, xã hội, giao lưu chung, giúp năng suất lao động cao. Vì vậy, không thể ngăn chặn, cản trở được sự phát triển của thông tin điện tử, Internet vì bất kể lý do gì”.

Nói tới đây, ông dùng mấy chữ hết sức đời thường để nhấn mạnh vấn đề khiến ai nghe cũng “hởi lòng hởi dạ”: “Nếu vì đảm bảo an ninh mạng mà chúng ta không sử dụng mạng, không ứng dụng tiến bộ của mạng thì rõ ràng rất lạc hậu, không thể chơi được với ai, không thể hội nhập với thế giới”.
Từ cách nhập đề thấu tình đạt lý như vậy, Bộ trưởng Tô Lâm nói về nguy cơ nếu “chúng ta không làm chủ cuộc chơi đó”. Ông ví “Dòng chảy của thông tin giống như hệ tuần hoàn của cơ thể con người. Mạch máu đó, hệ tuần hoàn đó càng lưu thông, càng phát triển tốt thì cơ thể càng khỏe mạnh…

Dòng máu đó phải làm sao có nhiều ôxy, nhiều chất dinh dưỡng thì mới nuôi được cơ thể, chứ máu đỏ ít, máu đen thì nhiều; ôxy thì ít, cácbonic nhiều thì rất nhức đầu, hệ thần kinh bị ảnh hưởng ngay. Nôm na là an ninh mạng phải giữ được hệ tuần hoàn, an ninh mạng thông suốt”.

Khi những ý kiến tâm huyết nói trên của Bộ trưởng Tô Lâm được đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng, tuyệt đại đa số các ý kiến hồi âm trở lại đều trên tinh thần ủng hộ. Bạn đọc ký tên Kim Ngân comment: “Tôi nghĩ rằng ý kiến này rất đúng đắn, đúng mực và trí tuệ”.

Bạn Quốc Quân thì cho rằng: “Ý kiến của ông rất chuẩn xác ông Bộ trưởng ạ. Không những chuẩn về mặt chuyên môn mà còn phù hợp với quy luật phát triển của quốc gia và nhân loại”. Có bạn đọc còn ủng hộ… bằng thơ: “Rất vui vì ý kiến này/ Bác nói rất đúng điều hay hợp thời/ Bây giờ mạng ở khắp nơi/ Tiến bộ phát triển cuộc đời là đây/ Thế giới ngày một đổi thay/ Cần phát triển mạng mỗi ngày mạnh thêm”.

Tôi không muốn so sánh Bộ trưởng Tô Lâm với các nhà lãnh đạo của một số bộ, ngành. Trước sau tôi vẫn nghĩ, đọc những bài viết sẵn hay “nói vo”; ít trả lời trực diện báo chí hay cởi mở, sẵn sàng trả lời… là phụ thuộc vào tác phong làm việc của mỗi người. Song quả là Bộ trưởng Tô Lâm đã tạo được sự gần gũi, tin cậy với nhiều phóng viên cơ quan báo, đài khi sẵn sàng trả lời những vấn đề “gai góc” ngay “tại trận” mà không cần chuẩn bị trước tài liệu.

Điều này chứng tỏ ông nắm bắt rất chắc, rất sâu nhiều vấn đề và tự tin vào cách xử lý mà ông cho là đúng đắn của Cơ quan Công an Việt Nam. Cựu Đại sứ Mỹ Michael Michalak đã nhận xét về Bộ trưởng Tô Lâm: “Ông Tô Lâm là nhân vật cứng rắn, nhưng thông minh”.

Một trong những việc ông ghi dấu ấn và được báo giới, cả ở ngoài nước ca ngợi là lần ông trả lời phỏng vấn của trang BBC Việt ngữ và VOA Việt ngữ liên quan đến việc nghi phạm Đoàn Thị Hương được cho là đã “ám sát” ông Kim Jong Nam - người anh cùng cha khác mẹ với nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un. Đây là điều rất hiếm xảy ra với một quan chức cấp cao của Việt Nam.

Bộ trưởng Tô Lâm - một mặt cho biết lập trường của Việt Nam trong vụ việc này, mặt khác chỉ đạo điều tra, bảo vệ quyền chính đáng của công dân Đoàn Thị Hương. Bản thân người thực hiện cuộc phỏng vấn (một tiến sĩ hiện công tác tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á của Singapore) đã phải nhận xét: “Những phát biểu của ông Tô Lâm, tôi nghĩ là phù hợp và hợp lý”.

Hai chữ “phù hợp” và “hợp lý”, theo cách diễn nôm chính là sự “thấu tình đạt lý”. Thực tế, nếu quan tâm theo dõi các bài trả lời phỏng vấn, chất vấn của Bộ trưởng Tô Lâm, ta thấy ông không chỉ nắm chắc luật mà luôn trên tinh thần “thượng tôn pháp luật”.

Kể cả với những vụ việc phức tạp, nhạy cảm, trước khi đưa ra ý kiến riêng (mang đậm tinh thần nhân văn), ông đều nói thêm pháp luật qui định điều này như thế nào, còn với riêng ông, theo ông thì không nên như thế. Như trước luồng dư luận phản ánh việc nhiều trang báo mạng đưa hình ảnh bữa ăn cuối cùng của tử tù Nguyễn Hải Dương (kẻ gây ra vụ thảm sát 6 người trong một gia đình ở Bình Phước) trước khi bị hành quyết; cảnh gia đình tử tù Nguyễn Hải Dương đến nhận xác con em mình; Bộ trưởng Tô Lâm chia sẻ: “Đó là những thông tin theo luật thì không cấm, nhưng không nên đưa như thế”. Cũng vậy, với việc công khai thời gian thi hành án tử hình với tử tù này, Bộ trưởng Tô Lâm cho biết việc này pháp luật không cấm, nhưng theo ông thì không nên đưa và “Bộ Công an sẽ xem xét lại việc này”.

Những công trình nghiên cứu giàu tính phát hiện

Ngoài những cuốn sách, tài liệu được dùng làm giáo trình riêng giảng dạy trong khối nhà trường Công an nhân dân và những công trình nghiên cứu nằm trong diện “bí mật nhà nước” tôi xin phép không điểm tới, đến nay, GS.TS Tô Lâm đã cho ra mắt bạn đọc 4 tác phẩm chính.

Đó là các cuốn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân” (NXB Chính trị Quốc gia, 2015); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ Công an nhân dân” (NXB Chính trị Quốc gia, 2017), “Quần chúng nhân dân - nhân tố quyết định thắng lợi cuộc đấu tranh bảo vệ an ninh, trật tự” (NXB Công an nhân dân, 2017) và “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự” (NXB Công an nhân dân, 2017).

Chúng ta đều biết, ở Việt Nam, đề tài tư tưởng Hồ Chí Minh (và những mệnh đề liên quan) hiện đã và đang được nhiều bậc thức giả quan tâm khai thác, với những công trình nghiên cứu khá bề thế. Như vậy, để có thêm ý kiến gì mới xung quanh vấn đề này quả là điều không hề đơn giản.

Ở đây, GS.TS Tô Lâm đã rất tỉnh táo khi chọn một góc nhìn có tính khu biệt - góc nhìn của một cán bộ Công an - để rồi từ đó, với vốn tri thức sâu rộng, cùng cách lập luận, phân tích sắc sảo, cách dẫn dụ sinh động, hấp dẫn, ông đã chứng minh một cách có hệ thống, rằng sự hiện diện của tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ Công an nhân dân nói riêng là một thực tế không thể phủ nhận trong đời sống tinh thần của dân tộc ta non một thế kỷ nay.

Có thể nói, đây là một hướng đi đúng, và cần thiết, bởi trước khi xuất hiện những cuốn sách vừa nhắc tới trên của GS.TS Tô Lâm, ở Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự mang tính hệ thống, toàn diện xoay quanh vấn đề này.

Người đời thường nói, trong việc vẽ, vẽ rồng là dễ nhất, vì đó là con vật không có thật, người vẽ thích vẽ thế nào cũng được. Cũng vậy, nói dễ nhất là nói… chung chung, vì dù người nói có đề cập tới những điều to tát đến mấy thì cũng khó để người nghe kiểm chứng được đâu mới thực sự là kiến thức riêng của họ.

Đọc sách của GS.TS Tô Lâm, điều ta dễ nhận thấy là khi muốn chứng minh một luận điểm nào đó, ông thường đưa ra những dẫn chứng rất cụ thể. Như khi nói về một trong những “cơ sở quan trọng hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về Công an nhân dân”, ông viết: “Những kinh nghiệm hoạt động bí mật của Hồ Chí Minh như: Kỹ thuật đánh lừa địch, cách “cắt đuôi” bọn mật thám bám theo; kỹ thuật hóa trang, cách giữ bí mật… là những bài học quý báu cho công tác nghiệp vụ của công an”.

Khi nói về sự nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ông viện dẫn quan điểm của Người đối với việc bức cung, dùng nhục hình: “Tục ngữ có câu: có gan ăn cướp, có gan chịu đòn, những tên đại gian ác, có khi đánh mấy chúng cũng không thú, có chứng cứ đầy đủ rõ ràng thì chúng phải nhận tội. Còn người thường thì bị đánh đau chịu không nổi mà họ nhận bừa, khai bậy, đưa Công an đến chỗ sai lầm. Cho nên ta phải kiên quyết bỏ nhục hình”.

Không chỉ có vậy: “Người đánh giá: Nhục hình là lối dã man, là cách của đế quốc tư bản phong kiến, nó dùng để trị quần chúng, trị cách mạng. Chúng ta có chính sách đúng, có lý lẽ đúng, có lực lượng mạnh, sao còn dùng cách dã man”.

Có thể nói, với việc đưa ra được những trích dẫn thuộc loại “ít phổ biến” nhưng rất đắc sách này, GS.TS Tô Lâm không chỉ thể hiện sự tỉ mỉ, công phu trong việc khảo cứu mà còn cho thấy ông hiểu rất sâu, rất kỹ vấn đề mình đang bàn luận.

Thước đo giá trị trước nhất của một công trình khoa học (ta có thể gọi mỗi cuốn sách được xuất bản của GS.TS Tô Lâm như vậy) là phải có tính phát hiện. Khi GS.TS Tô Lâm đặt bút viết: “Người yêu cầu công an phải khuyến khích nhân dân kiểm tra, đánh giá, giám sát công an. Để qua đó nhân dân vừa giúp đỡ công an, vừa kiểm tra công an.

Đây là điểm khác biệt hoàn toàn về bản chất của công tác kiểm tra, giám sát của Công an nhân dân Việt Nam với công an đế quốc và là một điểm độc đáo của chế độ ta, nhằm phát huy vai trò làm chủ của nhân dân” thì đó là một đúc kết có tính phát hiện.

Và khi ông trích dẫn câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”, từ đó đi đến kết luận: “Hồ Chí Minh sử dụng sáng tạo phương pháp biện chứng để đánh giá toàn diện vị trí cán bộ” - đó cũng là một đúc kết có tính phát hiện.

Đặc biệt, khi GS.TS Tô Lâm nhắc lại giai đoạn Bác của chúng ta hoạt động tại các nước phương Tây, kèm nhận xét: “Nguyễn Ái Quốc còn tiếp thu tư tưởng dân chủ và hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống, trong văn hóa của các nước phương Tây. Nguyễn Ái Quốc còn học được cách làm việc dân chủ ngay trong cách sinh hoạt khoa học ở Câu lạc bộ Faubourg, trong sinh hoạt chính trị của đảng Xã hội Pháp v.v…

Phong cách làm việc dân chủ này được Người đưa trực tiếp vào công tác cán bộ như là một trong những nguyên tắc làm việc làm tăng tính sáng tạo và tính đồng thuận cao trong hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức” - có thể nói, đó là một nhận xét mới mẻ và hoàn toàn chính xác, thể hiện cảm quan chính trị nhạy bén, tinh tế trên một nền kiến thức đa diện.

Thực tế, vì từng nhiều năm sống trong lòng các nước có chế độ dân chủ tư sản trước khi đến với Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xôviết nên việc tiếp thu quan điểm chính trị cũng như phong cách làm việc của Hồ Chí Minh có sự mềm mại, uyển chuyển.

Tất nhiên, ở đây cần phân biệt hai hình thái dân chủ, đó là sự dân chủ trong một chừng mực nào đó dành cho người dân “mẫu quốc” (tức nước Pháp) và sự “dân chủ” quá ư tệ hại dành cho người dân thuộc địa (tức các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khái quát một cách giản dị: “Người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông Dương”.

Đã lâu rồi, cán bộ công chức Việt Nam thường có phản xạ “dị ứng” với các danh xưng giáo sư, tiến sĩ. Đặc biệt là với danh xưng tiến sĩ. Người ta cho rằng đa phần đó là những “tiến sĩ giấy”. Điều này không phải không xuất phát từ một căn cớ: Trong thực tế, nhiều người sau khi nhận tấm bằng tiến sĩ thì luận án của họ cũng đồng thời bị nhét luôn vào ngăn kéo, hầu như không có giá trị ứng dụng trong đời thực và cũng chẳng giúp gì cho việc “quốc kế dân sinh”.

Với những công trình nghiên cứu đã được chuyển tải thành sách của GS.TS Tô Lâm, mặc dù chỉ là đôi đoạn trích dẫn rất hạn chế ở trên, ta đã có thể thấy phần nào công phu tìm tòi cùng khả năng phát hiện vấn đề của ông. Và, điều quan trọng hơn, từ cơ sở những luận điểm riêng đúc kết được, trên cương vị, trọng trách mà ông đang nắm giữ, GS.TS Tô Lâm hoàn toàn có đủ khả năng để “biến nhận thức thành hành động”.

Được biết, hiện lãnh đạo Bộ Công an đang tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ thực hiện rốt ráo Đề án “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy Bộ Công an tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Tinh thần của Đề án này (cùng một số biện pháp đi kèm) thực ra đã có tiền đề từ nội dung của cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ Công an nhân dân”, một cuốn sách tuy ra đời trước khi Nghị quyết Trung ương 6 Khóa XII được ban hành tới hơn một năm, nhưng nội dung có nhiều điểm tương đồng. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ cuối năm 2016, Bộ trưởng Tô Lâm đã xác định, với Bộ Công an, năm 2017 là “Năm công tác cán bộ”. Và công tác này vẫn sẽ là vấn đề trọng tâm của Bộ Công an trong năm 2018.

Chất “văn” trong tâm hồn vị tướng võ

Thoạt mới tiếp xúc, có thể ai đó cảm giác ở Bộ trưởng Tô Lâm một sự nghiêm khắc đến độ… hơi “lạnh”. Đúng là, với Bộ trưởng Tô Lâm, làm việc phải có nguyên tắc. Phải lấy nguyên tắc làm trọng. Đặc biệt, về việc bổ nhiệm, giải quyết chế độ, không thể thoải mái ngẫu hứng, thích cho ai là cho như thể “của nhà trồng được”.

Kỳ thực, ông là người tình cảm, nhưng kín đáo trong việc biểu lộ cảm xúc. Điều này là cần thiết với đặc tính nghề nghiệp của ông; và càng cần phải có ở người giữ cương vị, trọng trách như ông.

Một vị cán bộ lão thành từng công tác trong Lực lượng Công an kể: Ông có cô con gái làm việc tại một tòa báo trực thuộc Công an Thành phố… Một lần, cô “kêu” với ba, rằng cô bị đeo quân hàm vạch xanh (tức hệ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật) lâu quá.

Cô muốn ba “tác động” với cấp trên để cô được chuyển sang vạch vàng (tức hệ sĩ quan nghiệp vụ) cho đỡ thiệt thòi. Ông nghe mà giật mình. Thì ra, trước nay ông không để ý đến việc sao vạch của con, chỉ biết con vào công an là vào công an thôi. Nhưng khi ông đương chức thì không nói, nay nghỉ rồi… Biết làm sao? Thương con, cuối cùng ông quyết định nói với một vị làm chính sách. Vị này than “khó”.

Đến nước ấy, ông đành ra điều kiện: “Thôi thì cậu cứ làm công văn đề xuất, còn được hay không tôi sẽ lên gặp trực tiếp Bộ trưởng đề đạt nguyện vọng…”. Sở dĩ ông nói “cứng” vậy vì ông tin Bộ trưởng Tô Lâm vẫn còn “nhớ” đến những người như ông. Nói vậy mà rồi bẵng đi, ông dường như quên khuấy việc lên gặp Bộ trưởng.

Thế rồi, trong một cuộc gặp mặt cán bộ Công an hưu trí có Bộ trưởng Tô Lâm tới dự, đích thân Bộ trưởng bước tới bắt tay, ân cần hỏi thăm sức khỏe của ông, đồng thời thông báo: “Việc chuyển loại cho cháu, em ký rồi anh nhé”. Ông nghe mà sửng sốt và vô cùng xúc động. Ông hỏi, sao Bộ trưởng biết?. “Thì em duyệt, thấy lý lịch ghi tên bố cháu, nhận ra anh ngay…”.

Với Bộ trưởng Tô Lâm, trong giải quyết chế độ, chính sách, ông rất lưu ý đến lớp cán bộ từng chiến đấu tại những địa bàn ác liệt như chiến trường miền Nam. Không chỉ vì cụ thân sinh ra ông từng có thời kỳ lăn lộn sống chết ở đó, mà vì theo ông, đó là những đối tượng dễ chịu thiệt thòi trong cuộc sống gia đình khi đất nước bước vào giai đoạn mở cửa và hội nhập.

Trong căn cốt, Bộ trưởng Tô Lâm là người ưa hài hước. Những ai từng nghe ông nói vo về các vấn đề nổi cộm trong lực lượng, ngoài xã hội đều không khỏi bật cười khi - xen kẽ giữa âm giọng đều đều, rủ rỉ kiểu tâm sự thi thoảng lại “trồi” lên một câu nhận xét, một chi tiết giàu hình ảnh với ngôn ngữ đời thường đầy sắc thái hài hước. Cười đấy, nhưng ngẫm thấy vấn đề đặt ra thật thâm thúy, sâu sắc.

Bản thân phu nhân Bộ trưởng (hiện công tác tại một đơn vị liên quan tới mảng văn hóa nghệ thuật) từng cho biết: “Ở nhà, anh Lâm hay kể chuyện dí dỏm, hài hước”.

Như trái ngược với lối sống chuẩn chỉ, nguyên tắc, cách tổ chức công việc khoa học, Bộ trưởng Tô Lâm lại có phần xuề xòa trong sinh hoạt. Phòng làm việc của ông, không gian chủ yếu để dành cho… tài liệu. Ai tới chắc cũng không thể và ngại nán lại lâu. Ông cũng là người không cầu kỳ trong ăn mặc. Một cán bộ từng làm thư ký cho ông (thời ông làm Thứ trưởng) kể, lần ấy ông đi công tác nước ngoài.

Sắp đến giờ khai mạc hội nghị, anh này lấy chiếc áo sơ mi của ông từ trong vali ra thì tá hỏa khi thấy áo bị nhàu. Làm cách nào bây giờ? Trong khi anh nọ đang quýnh quáng lo gọi lễ tân nhờ tìm người là ủi thì Thứ trưởng Tô Lâm thản nhiên mặc luôn chiếc áo, vừa mặc vừa trấn an thuộc cấp: “Không sao, áo này mình mặc ở trong, có áo comple bên ngoài, hai vạt khép bớt lại, chắc không ai nhìn thấy chỗ nhàu”.

Đại tá Đặng Đình Thành, nguyên Phó Tổng biên tập Báo Công an nhân dân, là chỗ “anh em con cô, con cậu” với GS.TS Tô Lâm cho hay, thời còn là Thứ trưởng, một lần GS.TS Tô Lâm về làng dự đám giỗ một người trong họ. Thấy ông tự lái xe, Đại tá Thành hỏi lái xe đâu. Ông cho biết, hôm nay là ngày nghỉ, ông cho lái xe ở nhà. Ông tự lái thế này thấy tâm lý thoải mái hơn.

Trung tướng Lê Ngọc Nam, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Chính trị Công an nhân dân thì kể: Một tối nọ, ông đang ngồi xem màn thi bắn pháo hoa (trong Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng) bên bờ sông Hàn thì bất ngờ gặp Bộ trưởng Tô Lâm.

Bộ trưởng ngồi lẫn vào đám đông du khách thập phương thưởng thức màn bắn pháo hoa. Trung tướng Nam kêu lên: “Ủa, sao ông vô đây không báo cho anh em biết để tiếp đón”. Bộ trưởng Tô Lâm xua xua tay: “Không! Tôi đi nghỉ với gia đình chứ có phải đi công việc đâu. Đừng báo với anh em làm gì, thêm bận. Mà tôi cũng không thích như vậy”.

Nghe dặn thế song Trung tướng Lê Ngọc Nam vẫn thấy canh cánh. Ông bí mật nhắn tin cho lãnh đạo Đà Nẵng. Vị lãnh đạo không tin: “Làm gì có chuyện ấy. Nếu có Công an Thành phố đã báo. Mà này, có đúng là anh nhìn thấy bác Lâm không?”. “Sao lại không đúng. Tôi vừa hỏi chuyện, bắt tay ổng. Chẳng lẽ đến tôi còn nhầm ông Tô Lâm hay sao”.

Cách sống của Bộ trưởng Tô Lâm là vậy. Khi làm, ông làm tận lực, nhưng khi cần thì biết thưởng thức vẻ đẹp của cuộc sống một cách thoải mái, tự nhiên (theo nghĩa “tự do” nhất). Cũng bởi ông sống trong một môi trường thấm đẫm văn hóa, trong một gia đình toàn các văn nghệ sĩ.

Nhân đây xin được kể thêm câu chuyện: Trong một lần đề cập tới việc học hành của con cái, Bộ trưởng Tô Lâm bất ngờ tiết lộ với tôi, rằng cô con gái đang học phổ thông của ông được các thầy cô ở trường khen “bài viết rất có văn” (có lẽ ông nói điều này vì biết tôi là nhà văn). “Con bé có tư chất nghệ sĩ, sau này dễ theo nghề diễn viên” - Ông nói.

Sau này, có dịp kể lại tình tiết ấy với phu nhân của Bộ trưởng, tôi thấy chị rất vui khi biết đức phu quân của mình có cách nhìn nhận như vậy - cách nhìn nhận thể hiện thái độ trân trọng lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Tôi hiểu và chia sẻ niềm vui với chị, bởi trong thực tế, đây là điều rất đáng quý và không phải lúc nào cũng có thể gặp được ở một vị Tướng Công an.

Phạm Khải

Nghệ sỹ Xuân Hinh dâng văn 775 năm ngày sinh Thành hoàng làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ

Sunday, November 10, 2019

Nghệ sỹ Xuân Hinh dâng văn 775 năm ngày sinh Thành hoàng làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ



Nguồn: Dat Tuan - YouTube - 10/11/2019

Bí ẩn về số 7 trong lòng hai giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi ở Hưng Yên

Thursday, October 10, 2019

Theo Triệu Quang – Hoàn Như



Kích thước của những viên gạch và cối đá xếp trong lòng 2 giếng cổ ở Hưng Yên đều liên quan đến con số 7 khiến người dân khó lý giải.
Con số 7 kỳ lạ trong lòng giếng cổ

Trải qua cả ngàn năm, 2 chiếc giếng cổ ở thôn Tam Kỳ (xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên) nước vẫn đầy ắp và trong vắt. Tuy nhiên, người dân hiện nay đã không còn sử dụng phổ biến như ngày xưa do đã có nước máy.


Giếng cổ Cổng Đồng nằm ở vệ đường lớn, gần với cổng làng và ao đình


Chiếc giếng Cổng Đồng hơn 1.200 tuổi từng bị lấp đã được người dân khôi phục và bảo vệ cẩn thận. Giếng Đình Ba hơn 1.300 tuổi nằm trong khuôn viên của một gia đình thì vẫn được gia đình này sử dụng và gìn giữ.

Có một điều mà người dân Tam Kỳ lấy làm lạ, đó là những viên gạch và cối đá quanh lòng giếng đều liên quan đến số 7. Gạch có 14 viên thì viên nào cũng có chiều dày 7cm, chiều ngang 17cm và dài là 27cm; cối đá có 11 chiếc, chiếc nào cũng cao 17cm, đáy 27cm và miệng là 37cm.

Chúng tôi trao đổi với GS sử học Lê Văn Lan – người góp công khôi phục giếng cổ này nhưng ông cho hay, ông chỉ là người làm lịch sử và góp phần khôi phục lại chiếc giếng cổ Cổng Đồng chứ không biết gì về những điều liên quan đến con số 7 trong gạch và cối đá dưới lòng giếng.

“Tôi chỉ chỉ biết giếng đó là một vết tích từ thời thực dân địa của Trung Quốc chứ tôi không hiểu biết về phong thủy hay bói toán nên không biết con số 7 có ý nghĩa gì”, GS Lan cho biết.


Những viên gạch và cối đá xếp trong lòng giếng đều có kích thước liên quan đến số 7 khó lý giải


Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ bỏ nhiều công sức tìm hiểu về chiếc giếng cổ cũng chưa thể lý giải được vì sao các cụ ngày xưa lại lấy con số 7 để đưa vào kích thước các viên gạch, cối đá dưới giếng.

“Tôi cho rằng, ngày xưa các cụ coi số 7 là con số may mắn nên làm gạch và cối đá đều liên quan đến con số 7”, ông Chính phỏng đoán.

Ông Chính cho biết thêm, những viên gạch có kích thước liên quan đến số 7 còn gọi là “gạch thất”. Hồi khôi phục lại giếng, ông tìm hiểu thì biết có một gia đình ở Bát Tràng (huyện Gia Lâm, Hà Nội) vẫn còn lưu giữ khuôn đóng loại gạch này nên đã sang nhờ người ta đóng và bán cho một ít về để xếp dưới giếng.

Chẳng ai hiểu được chính xác ý nghĩa của số 7 trong kích thước của những viên gạch và những cối đá xếp trong lòng 2 giếng cổ thôn Tam Kỳ. Thế nhưng, có một điều người dân nhìn thấy rất rõ ràng, những viên gạch, cối đá xếp so le chồng lên nhau rất vừa khít, chẳng cần phải vôi vữa nhưng đã trường tồn qua cả ngàn năm.

Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên



“Báu vật” của dân làng

Ngày trước khi chưa có nước máy, 2 chiếc giếng cổ ở thôn Tam Kỳ luôn đông đúc, nhộn nhịp người đến tắm giặt, gánh nước sinh hoạt. Mùa mưa, nước dâng cao đến gần miệng có thể dùng gáo múc; mùa cạn giếng cũng chưa bao giờ hết nước.

Ông Chính nhớ hồi còn nhỏ, ông và các bạn cùng trang lứa vẫn ra sân đình chơi hay đi chăn trâu về khát thì vục chiếc nón xuống múc nước nước lên uống.

“Nước rất ngọt và mát, dù uống nước lã nhưng không hề bị đau bụng. Dân làng khi đi làm đồng về qua, dừng chân lại giếng rửa chân tay, mặt mũi thì tỉnh táo cả người”, ông Chính chia sẻ.

Có năm hạn hán lớn, ao hồ nhiều nơi cạn trơ đáy, nhiều giếng khơi của người dân hết nước nhưng tuyệt nhiên, 2 chiếc giếng cổ ở Tam Kỳ vẫn đầy ắp nước. Dân các làng lân cận đến xin nước, xếp hàng lần lượt người này đến người kia múc đầy các thau, chậu, xô, thùng phi… mang về mà giếng chỉ vơi đi chứ không cạn.


Sau khi được khôi phục, người dân bảo vệ những chiếc giếng cổ rất cẩn thận



Người dân còn kể lại rằng, con gái làng ngày xưa tắm bằng nước giếng nhiều nên da dẻ hồng hào, khỏe mạnh; tóc thì suôn mượt, đen như gỗ mun.

Lý giải điều này, ông Chính giải thích: “Quan trọng là nước giếng sạch, không ô nhiễm nên sử dụng nước này sẽ đỡ bệnh tật, da dẻ không có mụn nhọt… Thế nên người dân đồn vậy cũng không có gì sai”.

Được biết, giếng đình Ba còn gắn với di tích Quán Dố - một ngôi miếu cổ thờ Ma Lỗ Đại Vương. Theo lệ làng, cứ đến tháng Sáu âm lịch, dân làng tổ chức lễ rước nước từ giếng về Quán Dố để cầu mưa.

Khi ấy, các cụ cao niên trong làng sẽ khăn áo chỉnh tề, trai tráng thì vác kiệu, vác lọng, bê ché ra trước giếng, xin “Thần giếng” cho nước thiêng về thờ tại Quán Dố, cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.


Theo Triệu Quang – Hoàn Như (Dân Việt)

Nguồn: 24h theo Dân Việt - 22/9/2019


Mời xem bài:


“Đôi mắt thần” hơn 1.200 năm tuổi được dân làng Hưng Yên bảo vệ như báu vật

“Đôi mắt thần” hơn 1.200 năm tuổi được dân làng Hưng Yên bảo vệ như báu vật

Giếng cổ Cổng Đồng hơn 1.200 năm tuổi được người dân thôn Tam Kỳ bảo vệ cẩn thận.Giếng cổ Cổng Đồng hơn 1.200 năm tuổi được người dân thôn Tam Kỳ bảo vệ cẩn thận.


Người dân coi đây như “đôi mắt thần”, mang linh khí của làng nên lập ban thờ để hương khói và bảo vệ nghiêm ngặt.


Hai giếng cổ - “Đôi mắt thần” của làng

Làng quê Bắc Bộ xưa kia ghi dấu đậm nét với hình ảnh cây đa, giếng nước, sân đình. Mỗi làng hầu hết đều có một chiếc giếng làng để làm nơi sinh hoạt chung như tắm giặt, phục vụ sinh hoạt, lễ hội…

Thế nhưng thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ (huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) không chỉ sở hữu một mà có đến tận 2 chiếc giếng làng. Hai chiếc giếng này có niên đại đã hơn ngàn năm, chiếc cổ nhất hơn 1.300 năm, chiếc còn lại cũng đã hơn 1.200 năm.

Trải qua cả ngàn năm lịch sử, những chiếc giếng làng ở Tam Kỳ vẫn được người dân nơi đây gìn giữ, bảo vệ nên nước trong vắt. Người dân còn lập ban thờ, cúng tế và coi giếng như báu vật của làng. Đến hiện tại, có gia đình vẫn giữ thói quen dùng nước giếng này thay vì dùng nước máy.

Chúng tôi đến thôn Tam Kỳ vào những ngày đầu tháng 9. Như bao làng quên khác, Tam Kỳ cũng bắt đầu đổi mới, đường làng, ngõ xóm đã được trải bê tông phẳng lì.

Ngay đầu làng là phế tích của chiếc cổng làng cũ, rêu phong phủ kín nhưng người dân đã mở một con đường mới ở bên cạnh chứ không bắt buộc phải đi qua cổng làng nữa.

Đi thêm khoảng 100m nữa, chúng tôi bắt gặp một chiếc giếng ở ngay vệ đường to. Miệng giếng rộng khoảng 1m, được gác chắn bằng các thanh sắt và đậy bằng một tấm tôn có khoét lỗ nhỏ. Người dân dành riêng một khu đất để quây lại thành khuôn viên, có tường rào, cây cảnh, ban thờ và bảng chú thích lịch sử.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 2

Tấm biển ghi lại lịch sử của giếng do Giáo sư sử học Lê Văn Lan gắn


Trên tấm biển gần giếng đề tên Nhà sử học Lê Văn Lan có ghi: “Giếng cổ Cổng Đồng tuổi đã hơn 1.200 năm, có từ thời nhà Đường (thời Bắc thuộc) đã chứng kiến sự ra đời và biến đổi của quê hương ta, từ thuở có tên gốc là làng Hoa Kiều, chuyển thành Hoa Cầu, thay bằng Huê Cầu, rồi đẹp đẽ giờ đây Xuân Cầu.

Là nguồn nước trong lành, mát mẻ, đầy ắp của cuộc sống và sự thịnh vượng quê hương qua các đời nên giếng không thể bị vùi lấp. Vẻ vang thay. Quý giá thay. Những chí hướng, trí tuệ, tấm lòng và công sức của những ai khôi phục, bảo tồn, tôn tạo nơi “tụ Thủy như tụ Nhân” này”.

Cách chiếc giếng cổ này khoảng 200m là một chiếc giếng cổ khác mà theo người dân, nó có tuổi đời đã hơn 1.300 năm. Chiếc giếng nằm trong khuôn viên của một gia đình, cũng được bảo vệ bằng những thanh sắt và có đậy nắp. Gia đình này hiện sinh sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng về quê chơi và vẫn sử dụng nước giếng để sinh hoạt.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 3

Giếng Đình Ba tuổi đời hơn 1.300 năm nằm trong khuôn viên của một gia đình

Từng lấp giếng cổ làm đường đi

Thấy chúng tôi tò mò quanh chiếc giếng, ông Tô Xuân Lực – một người dân thôn Tam Kỳ ra tiếp chuyện. Theo ông Lực, từ khi ông sinh ra đã thấy chiếc giếng tồn tại ở vị trí ấy. Ngày xưa, dân làng ra giếng sinh hoạt, lấy nước về ăn nhộn nhịp mà giếng không khi nào hết nước.

Khoảng hơn 30 năm về trước, một con trâu bị ngã xuống giếng, người dân phải phá miệng giếng để cứu con trâu lên. Cũng sau vụ việc ấy, người dân Tam Kỳ đã lấp luôn chiếc giếng cổ hơn 1.200 tuổi, sau làm đường đi đè lên.

Chỉ khi được nhà sử học Lê Văn Lan về thông tin, người dân Tam Kỳ mới biết được giá trị lịch sử của chiếc giếng nên đã lên kế hoạch khôi phục, gìn giữ và bảo vệ.

Chiếc giếng nằm trong phần đất nhà ông Lực. Khoảng năm 2013, ông đã dành khoảng hơn 10m2 đất của gia đình để dân làng khôi phục lại giếng và xây khuôn viên, lập ban thờ cúng bái “Thần giếng”.

“Biết được giá trị lịch sử của chiếc giếng nên khi biết mọi người có ý định khôi phục lại, tôi sẵn sàng hiến đất cho làng. Đá xanh được mang từ Thanh Hóa về và thuê chính những người thợ Thanh Hóa về khôi phục giếng. Những người thợ khi biết giá trị của chiếc giếng cũng đã không lấy tiền công”, ông Lực chia sẻ.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 4

Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên.


Ông Đặng Xuân Chính –người làng Tam Kỳ bỏ nhiều công sức tìm hiểu về chiếc giếng cổ cho hay, giếng cổ tuy không còn nguyên bản nữa nhưng khôi phục lại được là điều rất quý giá và ông rất mừng về điều này.

Theo ông Chính, chiếc giếng hơn 1.200 tuổi còn có tên gọi là giếng Cổng Đồng, còn chiếc giếng hơn 1.300 tuổi tên là giếng Đình Ba. Chiếc giếng Đình Ba cổ và nước còn trong hơn giếng Cổng Đồng. Giếng ngày xưa là nơi sinh hoạt không chỉ một làng mà cả 3 làng ở xã Nghĩa Trụ gồm Tam Kỳ, Phúc Thọ, Lê Cao.

Thế nên người dân nơi đây vẫn truyền nhau những câu thơ: “Giữa làng có giếng đình Ba. Giếng xây bằng đá nước thời trong veo. Tam thôn không có người nghèo. Nếu muốn lịch sử thì theo anh về” hay “Tam thôn ăn nước giếng thơi. Giếng xây bằng đá nước thời trong veo” hay”.

“Người dân đến lấy nước sinh hoạt thường xuyên, có những phiến đá người dân dùng để chà khi giặt quần áo nhẵn thín. Miệng giếng có những phiến đá lõm sâu vào 1-2cm do người dân dùng dây thừng và gầu kéo nước lên…”, ông Chính nhớ lại.

“doi mat than” hon 1.200 nam tuoi duoc dan lang bao ve nhu bau vat hinh anh 5

Lòng giếng được xếp bằng những viên gạch và cối đá xanh có kích thước đều liên quan đến con số 7.


Có một điều mà ông Chính cũng như người dân Tam Kỳ rất tò mò, đó là những viên gạch và cối đá xếp quanh lòng giếng đều liên quan đến số 7. Gạch có chiều dày 7cm, chiều ngang 17cm và dài là 27cm; cối đá có chiều cao 17cm, đáy 27cm và miệng cối đá úp xuống là 37cm.



Nguồn: Báo Giáo dục và Thời đại - Chủ Nhật, 22/9/2019.

Xem: Chuyện thần bí về 2 giếng cổ nghìn năm ở Hưng Yên không cạn nước - xaluan, 23/12/2019.



Mời xem bài:

Về quê hương Tô Hiệu

Thursday, July 11, 2019
Đất và người Hưng Yên

Về quê hương Tô Hiệu



Nguồn: YouTube 30 thg 6, 2019

Tưởng niệm 75 năm ngày hy sinh của nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu 7/3/1944 - 7/3/2019

Tuesday, April 2, 2019

baohungyen.vn

Chiều ngày 7.3.2019, tại Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên đã tổ chức trọng thể Lễ tưởng niệm 75 năm ngày hy sinh của nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu (7.3.1944 – 7.3.2019).

Dự lễ tưởng niệm có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị: Tòng Thị Phóng, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an. Cùng dự có các đồng chí: Đỗ Tiến Sỹ, Uỷ viên BCH Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh; Nguyễn Văn Phóng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy; lãnh đạo tỉnh Sơn La…
Các đại biểu dâng hương tưởng niệm nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu
Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912, là người con ưu tú của quê hương Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ. Đồng chí tham gia cách mạng khi mới 16 tuổi. Đồng chí bị địch bắt và bị đày đi Côn Đảo. Mãn hạn tù, đồng chí tiếp tục hoạt động và là Uỷ viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ phụ trách các tỉnh duyên hải Bắc bộ. Năm 1939, đồng chí lại bị địch bắt và bị giam tại Nhà ngục Sơn La. Dù bị tra tấn, đánh đập dã man, đồng chí vẫn giữ vững khí tiết của người cộng sản. Ngày 7.3.1944, nhà cách mạng Tô Hiệu đã trút hơi thở cuối cùng. Những đóng góp to lớn của đồng chí Tô Hiệu đã góp phần quan trọng vào thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Tại lễ tưởng niệm, bà Tòng Thị Phóng, Đại tướng Tô Lâm và lãnh đạo hai tỉnh Hưng Yên và Sơn La đã dâng hương tại Nhà thờ họ Tô và tại Nhà lưu niệm nhà cách mạng Tô Hiệu.

Sau khi dâng hương, bà Tòng Thị Phóng và Đại tướng Tô Lâm đã phát biểu bày tỏ lòng ngưỡng mộ trước tinh thần, ý chí chiến đấu, gương hy sinh anh dũng của nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng. Cán bộ và nhân dân hai tỉnh Hưng Yên, Sơn La nguyện học tập tấm gương của nhà cách mạng Tô Hiệu, đoàn kết, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, phát triển.
Nguồn: baohungyen.vn
Nguồn: BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY HƯNG YÊN - Đăng ngày: 08/03/2019 - 3:23:06 PM




LỄ GIỖ TƯỞNG NIỆM 75 NĂM NGÀY NHÀ CÁCH MẠNG - LIỆT SỸ TÔ HIỆU HY SINH (7/3/1944-7/3/2019)

Tô Giang

Hội đồng họ Tô Việt Nam trong lễ kỷ niệm 75 năm ngày mất của nhà cách mạng liệt sỹ Tô Hiệu
Chiều ngày 7/3/2019, tại Nhà Tưởng niệm Tô Hiệu (làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên) đã tổ chức Lễ Giỗ tưởng niệm 75 năm ngày hy sinh của nhà cách mạng - liệt sỹ Tô Hiệu.

Về dự Lễ Giỗ tưởng niệm, ở Trung ương có bà Tòng Thị Phóng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội; Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an. Tỉnh Hưng Yên có ông Đồng Sỹ Tiến, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy; ông Nguyễn Văn Phóng, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh; Ban Thường vụ Tỉnh ủy; lãnh đạo các sở, ban ngành đoàn thể; lãnh đạo huyện Văn Giang và lãnh đạo xã Nghĩa Trụ cùng đông đảo bà con quê hương của liệt sỹ Tô Hiệu. Đoàn đại biểu tỉnh Sơn La có ông Hoàng Văn Chất, Bí thư Tỉnh ủy; ông Cầm Ngọc Minh, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh và một số lãnh đạo các ban ngành đoàn thể và Bảo tàng Sơn La về dự. Hội đồng Họ Tô Việt Nam do GS-TS Tô Xuân Dân, Chủ tịch Hội đồng Hội đồng Họ Tô Việt Nam làm Trưởng đoàn; tham dự còn có các Phó Chủ tịch Hội đồng Họ Tô Việt Nam: Tô Quang Mậu, Tô Văn Thặm, Tô Quyết Tiến (cháu ruột của liệt sỹ Tô Hiệu) cùng về tham dự Lễ Giỗ.

Nhà cách mạng - liệt sỹ Tô Hiệu sinh năm 1912, là người con ưu tú của làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, tham gia cách mạng khi mới 16 tuổi; Tô Hiệu bị địch bắt và đày ra Côn Đảo; mãn hạn tù, Tô Hiệu tiếp tục hoạt động và là Uỷ viên Thường vụ Xứ ủy Bắc kỳ phụ trách các tỉnh duyên hải Bắc bộ.
Năm 1939, Tô Hiệu lại bị địch bắt và giam tại Nhà ngục Sơn La, bị tra tấn đánh đập dã man, Tô Hiệu vẫn giữ vững khí tiết của người Cộng sản. Tô Hiệu cùng các đồng chí của mình đã biến nhà tù đế quốc thành trường học giáo dục Chủ nghĩa Mác Lê nin rèn luyện nhiều chiến sỹ cách mạng sau này trở thành lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước.

Cố Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười đã viết:
“Đồng chí Tô Hiệu là một cán bộ lãnh đạo xuất sắc của Đảng, tham gia hoạt động cách mạng từ thuật thiếu niên và hy sinh ở nhà ngục Sơn La năm 1944 lúc 32 tuổi. Cuộc đời đồng chí tuy ngắn ngủi nhưng những cống hiến của đồng chí cho dân tộc, cho cách mạng thật là to lớn …”

Sau lễ dâng hương, bà Tòng Thị Phóng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội và Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an đã phát biểu bày tỏ lòng ngưỡng mộ trước tinh thần, ý chí chiến đấu, gương hy sinh anh dũng của nhà cách mạng - liệt sỹ Tô Hiệu cho sự nghiệp cách mạng của Đảng; cán bộ và nhân dân hai tỉnh Hưng Yên và Sơn La nguyện học tập tấm gương của nhà cách mạng Tô Hiệu, đoàn kết, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, phát triển.

Tin : Tô Giang
Nguồn: Họ Tô Việt Nam - Đăng ngày: 08/03/2019 - 3:23:06 PM


Sáng mãi tinh thần nhà cách mạng Tô Hiệu

Nguyễn Văn Hạnh

(Tưởng niệm 75 năm ngày hy sinh của nhà cách mạng, liệt sỹ Tô Hiệu 07.3.1944 – 07.3.2019)

Đồng chí Hoàng Văn Thịnh, Chủ tịch Hội Khuyến học tỉnh Hưng Yên và các đại biểu trao học bổng Tô Hiệu Hưng Yên cho học sinh đợt 1 năm 2019
Nhà cách mạng Tô Hiệu (1912 - 1944), quê quán thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, là con út trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống yêu nước, hiếu học và cách mạng, thuộc đời thứ 11 của cụ Thủy Tổ - Minh Biện hiệu Đạo Khoan giám sinh trường Quốc Tử Giám, đời Hậu Lê. Ông nội đồng chí Tô Hiệu là cụ Tô Ngọc Nữu, từng được bổ nhiệm thăng quyền đốc học Nam Định. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, cụ tỏ thái độ bất hợp tác, từ quan về quê dạy học. Ông ngoại đồng chí Tô Hiệu là cụ Ngô Quang Huy, đốc học Bắc Ninh, là một thủ lĩnh có uy tín của nghĩa quân Bãi Sậy. Thân mẫu đồng chí Tô Hiệu, bà Ngô Thị Lý là con gái danh tướng Ngô Quang Huy. Bà là người được nhân dân địa phương kính trọng vì lòng quả cảm, có công nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ cách mạng, được suy tôn là một trong những bà mẹ gương mẫu, tiêu biểu của phong trào phụ nữ cách mạng tỉnh Hưng Yên, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

Thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, quê hương nhà cách mạng Tô Hiệu là vùng đất đã có trên 2000 năm lịch sử, có bề dày truyền thống văn hóa, những nét đẹp thuần phong mĩ tục và tập quán hay: ''Ai về Đồng Tỉnh, Xuân Cầu. Đồng Tỉnh bán thuốc, Xuân Cầu nhuộm thâm''. Xã Nghĩa Trụ cũng từng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, hạng Nhì và Huân chương Chiến công hạng Ba vì đã có những đóng góp và hy sinh to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Những truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ và quê hương sớm ảnh hưởng sâu sắc tới tư tưởng yêu nước và cách mạng của đồng chí Tô Hiệu.

Tiếp nối truyền thống quê hương, truyền thống gia đình, dòng họ, với đồng chí Tô Hiệu, yêu nước, cách mạng là đạo đức, lý tưởng và chân lí sống của một người cộng sản tận trung với nước, tận hiếu với dân. Tình yêu thương nhân dân, yêu thương con người ở đồng chí Tô Hiệu là sợi dây gắn bó đồng chí với giai cấp vô sản. Đồng chí Tô Hiệu giác ngộ cách mạng rất sớm. Ngay từ năm 1926, khi 14 tuổi, đồng chí Tô Hiệu đã hăng hái tham gia các phong trào yêu nước, tham gia bãi khóa, để tang cụ Phan Chu Trinh. Ông tham gia hoạt động khắp miền Bắc - Nam. Năm 1930, đồng chí bị địch bắt, giam cầm, thực dân Pháp đánh đập tra tấn dã man, kết án 4 năm tù và đày ra địa ngục Côn Đảo. Tuy nhiên, tại nơi đây, đồng chí Tô Hiệu được sống cùng các đồng chí cộng sản, được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin và ngọn cờ của Đảng.

Năm 1934, đồng chí Tô Hiệu được mãn hạn tù trở về, nhưng bị thực dân Pháp quản thúc tại làng quê Xuân Cầu. Sự quản thúc của quân thù tại quê nhà Xuân Cầu cùng 4 năm địa ngục Côn Đảo không làm nao núng tinh thần cách mạng của người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu. Ở quê hương Xuân Cầu, đồng chí tiếp tục gây dựng phong trào cách mạng, không ngừng tổ chức các hoạt động nâng cao dân trí, dân sinh, lập ra “Hội Nông dân tương tế”, vận động thành lập thư viện và bí mật tuyên truyền đọc sách báo của Đảng tại nhà anh Nguyễn Phùng. Đặc biệt, đồng chí Tô Hiệu trực tiếp vận động bà con và người làm ăn xa góp công, góp của xây dựng Trường Kiêm Bị Xuân Cầu, một hình thức trường tiểu học chỉ có ở huyện lúc ấy. Sự kiện thành lập Trường Kiêm Bị Xuân Cầu đánh dấu bước phát triển mới của phong trào vận động cách mạng tại địa phương, hơn cả là việc chắp cánh ước mơ được học hành, nâng cao dân trí. Đây là kết quả của cuộc vận động chính trị sâu sắc, chắp cánh lí tưởng cách mạng, thức tỉnh đông đảo quần chúng tin tưởng vào đồng chí Tô Hiệu, tin tưởng vào sự nghiệp cách mạng, một lòng hướng theo Đảng.

Những kết quả bước đầu trong phong trào cách mạng tại Xuân Cầu đã có sức lan tỏa mạnh mẽ, vận động, tuyên truyền lý tưởng cộng sản cho thanh niên yêu nước các vùng lân cận, công sức ấy đã góp phần không nhỏ vào sự ra đời chi bộ cộng sản ghép Liễu Khê - Liễu Ngạn - Ngu Nhuế (thành lập năm 1938). Đây là chi bộ cộng sản ghép đầu tiên của khu vực nam tỉnh Bắc Ninh, bắc tỉnh Hưng Yên và đông thành phố Hà Nội.
Cuối năm 1936, đồng chí Tô Hiệu cùng những người tích cực trong anh em tù chính trị mới được tha, tổ chức cuộc họp trên một căn gác ở phố Hàng Bột để khôi phục lại Xứ ủy Bắc Kỳ. Đồng chí Tô Hiệu được cử vào Ban Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, tham gia hoạt động ở thành phố Hà Nội và một số tỉnh. Những năm 1938 - 1939, đồng chí được đặc trách Bí thư Liên khu B, kiêm Bí thư Thành ủy Hải Phòng, tích cực hoạt động và lãnh đạo phong trào cách mạng tại thành phố Hải Phòng, đưa phong trào đi lên mạnh mẽ.

Mặc dù năm 1938, do hoạt động đấu tranh vất vả lại trải qua đòn roi tra tấn dã man của địch trước đây, sức khỏe bị suy yếu, đồng chí Tô Hiệu đã mắc bệnh lao, song vẫn tiếp tục lãnh đạo những cuộc đấu tranh với hàng vạn thợ thuyền nổ ra liên tiếp ở khắp các ngành kĩ nghệ, lan rộng khắp nhà máy và đông đảo quần chúng nhân dân, khiến thực dân Pháp hoảng sợ.

Mùa đông năm 1939, đồng chí Tô Hiệu bị địch bắt tại thành phố Hải Phòng, bị giam cầm tại Hỏa Lò. Tháng 02/1940, đồng chí bị kết án 5 năm tù, đày đến địa ngục Sơn La. 5 năm tù đày kìm kẹp, bị tra tấn dã man tại địa ngục Sơn La, nhà cách mạng Tô Hiệu không nhụt chí chiến đấu, tích cực vận động phong trào “Lập ra Chi bộ”. Bằng sự quả cảm của mình, nhà cách mạng Tô Hiệu đã biến địa ngục Sơn La thành trường học cộng sản vĩ đại, đào tạo những chiến sỹ cộng sản kiên cường, nhiều cán bộ cốt cán cho Đảng, với tinh thần bất khuất thân thể ở trong lao, tinh thần ở ngoài lao. Nhà cách mạng Tô Hiệu trở thành linh hồn của nhà tù, của chi bộ

Đối mặt cơn sốt rét ác tính, rụng tóc, vàng da, tiểu ra máu, lá lách và gan sưng, bản thân mắc lao phổi, ho ra máu, nhà cách mạng Tô Hiệu càng khẳng định tinh thần đấu tranh không nao núng, không mệt mỏi, một ý chí, nghị lực kiên cường, là người truyền lửa nhiệt huyết và niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự nghiệp cách mạng của Đảng cho đồng đội.

Ngày 07/3/1944, ở tuổi đời 32, nhà cách mạng Tô Hiệu đã ra đi mãi mãi trong vòng tay thương mến của đồng đội. Đến lúc hấp hối, nhà cách mạng vẫn gắng gượng căn dặn đồng đội lời tâm can cuối cùng “các đồng chí hãy cố gắng hơn lên, đừng phút nào quên nhiệm vụ của mình”. Sáng mãi một cốt cách tinh thần Tô Hiệu, dù không một tấm huân chương trên ngực, song những đóng góp to lớn của đồng chí đã góp phần quan trọng vào thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Tưởng nhớ và biết ơn nhà cách mạng Tô Hiệu, tháng 9/1947, Trung ương Đảng mở lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ trung cao cấp đặt tên lớp là Lớp huấn luyện chính trị Tô Hiệu, tiền thân của Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

75 năm mùa xuân sau ngày nhà cách mạng Tô Hiệu về nơi vĩnh hằng, màu hoa đào vẫn thắm in dấu những mùa xuân bất tử của dân tộc trường tồn, như biểu tượng mãi xanh mùa xuân đất nước, vượt qua mọi khắc nghiệt và giá rét mùa đông. Màu hoa ghi dấu niềm tự hào về tinh thần Tô Hiệu, một người con ưu tú của đất mẹ Hưng Yên. Cùng những đóng góp xương máu của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên, tinh thần và sự hy sinh của nhà cách mạng Tô Hiệu tô thắm niềm tự hào về miền đất, con người Hưng Yên, miền đất với bề dày truyền thống văn hiến và anh hùng. Quê hương Hưng Yên nguyện viết mãi những trang sử hào hùng về tinh thần nhà cách mạng Tô Hiệu, tiếp nối và phát huy, nâng thêm tầm cao mới truyền thống yêu nước và cách mạng, dựng xây hòa bình và hạnh phúc trường tồn trên miền đất Hưng Yên.

Nguyễn Văn Hạnh
Nguồn: BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY HƯNG YÊN - Đăng ngày: 07/03/2019 - 9:31:38 AM




TRAO HỌC BỔNG TÔ HIỆU HƯNG YÊN Đợt I/2019









CÁC HOẠT ĐỘNG TƯỞNG NIỆM 75 NĂM NGÀY HY SINH
CỦA LIỆT SỸ TÔ HIỆU 7/3/1944 - 7/3/2019

Video TUẤN ĐẠT - VĂN CHUNG



Lễ Hội truyền thống đình Phúc Thọ làng Xuân Cầu năm 2019

Lễ Hội truyền thống đình Phúc Thọ làng Xuân Cầu năm 2019



Nguồn: YouTube - 02/04/2019