Làng Khoa Bảng Xuân Cầu

Monday, January 1, 2018


Trích từ "Làng Khoa Bảng Và Danh Nhân Làng Khoa Bảng Việt Nam"


Miếu thờ Thành Hoàng làng Xuân Cầu


ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ NHÃN
Hữu Tính

Sáng chủ nhật ngày 26.11.2017 (tức ngày mùng 9 tháng 10 âm lịch), người dân Xuân Cầu sẽ tổ chức lễ khánh thành công trình xây dựng và tôn tạo miếu Thành Hoàng làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang).

Làng Việt cổ Xuân Cầu có lịch sử trên 2000 năm. Thế kỷ thứ VIII đến IX, thời nhà Đường đô hộ nước ta, có nhiều người Hoa định cư tại đây nên gọi là làng Hoa Kiều, sau đổi thành Hoa Cầu, tiếp đến là Huê Cầu, rồi được gọi là Xuân Cầu như ngày nay. Xưa kia, làng có khung cảnh hữu tình, có cây đa, bến nước, sân đình… Riêng hai thôn Tam Kỳ, Phúc Thọ có hai ngôi đình đẹp, có chung một miếu thờ Thành Hoàng.
Theo thần tích, thần sắc còn lưu lại tại thư viện Viện Thông tin KHXH, ngôi miếu cổ có niên đại gần 800 năm thờ Đức Thành Hoàng Hoa Kiều Lang Đại Vương. Ngài có tên hiệu là Hoa Kiều Lang (có nghĩa là: Người đàn ông làng Xuân Cầu), tên húy là Hùng Lang, sinh ngày mùng 10 tháng 10; hóa ngày mùng 9 tháng 4; hiển thánh ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch. Thân phụ của ngài là Lê Thuận, thân mẫu là Tô Thị Huyền, người làng Xuân Cầu. Ngài là nhân thần, có công giúp vua Trần Thái Tông đánh bại quân xâm lược Nguyên – Mông năm 1258, được các vương triều Trần, Lê, Nguyễn ban tặng 24 sắc phong, ban nhiều mỹ tự như đoạn trích sau từ sắc phong của các triều vua:
Thượng Đẳng Phúc Thần Tối Linh Hoa Kiều Lang Đại Vương là người tư chất mẫn tiệp, đức vốn thông minh, xuất chúng tài giỏi hơn người, biến hóa khôn lường, nhìn không thấy, nghe chẳng hay, cuồn cuộn trên cao, cảm ứng sẽ hanh thông, cầu xin tất ứng nghiệm, vô cùng linh ứng, có thể trừ tai họa, ngừa hoạn nạn, âm phù vững chắc làm quốc gia yên ổn, khiến dân chúng thịnh vượng, công tích với đất nước thật lớn lao.

Trung liệt hùng nghị dũng lược Đại vương, Người là chung đúc chính khí của trời cao, tinh anh của Nhị khí, trở thành Thần thiêng của nước Nam. Sức mạnh của Thần đã nhiều lần hiển hiện linh ứng, phù trì kéo dài vô cùng đến muôn năm, công lao khánh hạ rất nhiều. Thần đã hiển ứng phù hộ Hoàng gia phúc trạch lâu bền, Vương nghiệp nối dài vĩnh viễn, âm phù uy binh, tiễu trừ nghịch đảng, thu phục biên cương, hộ quốc an dân, giữ gìn xã tắc.
Theo tín ngưỡng của người Việt từ ngàn xưa, Thành Hoàng làng là vị phúc thần tối thượng thiêng liêng bảo hộ cho người dân trong làng xã làm ăn sinh sống, mùa màng tươi tốt, “quốc thái dân an”, không phân biệt dòng họ, giàu nghèo, già trẻ, trai gái. Miếu Thành Hoàng diễn Nôm là nhà của ngài, đến ngày lễ hội thì dân làng mới rước ngài ra đình.

Miếu thờ Thành Hoàng làng Xuân Cầu



Do tàn phá của chiến tranh và tác động của thiên nhiên, hơn 60 năm nay ngôi miếu này cùng với đình làng đã bị hủy hoại hoàn toàn. Năm 2017, ông Tô Quyết Tiến và nhiều người con quê hương Xuân Cầu đã phát tâm công đức, bỏ tiền của và công sức xây dựng lại miếu thờ Thành Hoàng trang nghiêm, đẹp đẽ trên khuôn viên đất cũ thiêng liêng của vùng đất địa linh nhân kiệt, bên Bến Ngóng của dòng Nghĩa Giang. Từ nay, người Xuân Cầu lại có ngôi miếu tôn nghiêm hàng ngày hương khói thờ phụng, tưởng nhớ đến Đức Thành Hoàng – Vị Phúc thần của cả làng, đồng thời tự nhủ phải sống sao cho xứng đáng với truyền thống lịch sử của quê hương, xây dựng quê hương Xuân Cầu ngày nay thêm giàu đẹp, văn minh. Đúng là:

Hiếu trung tiết liệt tồn kim cổ
Miếu vũ lâu đài kỷ hậu lai

Tấm lòng hiếu trung tiết liệt của Ngài sẽ sống mãi với thời gian
Công trình miếu được trao gửi lại cho thế hệ mai sau.

Hữu Tính

(Ông Tô Quyết Tiến biên soạn theo các thần tích, thần sắc lưu tại thư viện Viện KHXH, số 1 Liễu Giai, Hà Nội).

Nguồn: "baohungyen.vn" - 22/11/2017, 19:27 [GMT+7]



Miếu thờ Thành Hoàng làng Xuân Cầu




Câu đối viết tặng Tô Chấn - Tô Hiệu

Monday, December 18, 2017
Câu đối viết tặng Tô Chấn - Tô Hiệu

Nhân kỷ niệm 70 năm ngày hy sinh của liệt sĩ Tô Chấn, Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu đã làm đôi câu đối lớn gồm 128 chữ đầy công phu và tâm huyết tưởng niệm cuộc đời oanh liệt của nhà cách mạng và tặng nhà thờ liệt sĩ Tô Chấn:
Gió Xuân Cầu lồng lộng chí nam nhi, hai chục tuổi lên đường cứu nước! Nào dựng xây tổ chức, nào giác ngộ đồng bào, nào mở rộng phong trào, nào ngược xuôi Nam Bắc, cùng nhân dân gắn bó nghĩa tình. Rồi phải buổi sa cơ mắc lưới, chốn lao lung tay xích chân cùm: Khí tiết vẫn sáng ngời trong sắt thép!
Hầm Côn Đảo nấu nung gan chiến sĩ, hơn sáu năm đối mặt quân thù. Vẫn vững chắc tinh thần, vẫn đấu tranh bất khuất, vẫn nâng cao kiến thức, vẫn rèn luyện ngày đêm, được Đảng bộ tin giao trọng trách. Cho đến khi vượt biển chìm bè, dù thể phách sóng gió vùi dập: Hồn thiêng còn tỏa rộng giữa trời mây!


Tô Hiệu (1912 - 1944), em ruột của Tô Chấn. Năm 1929, Tô Hiệu vào Sài Gòn hoạt động cùng với người anh ruột của mình là Tô Chấn. Năm 1930, Tô Hiệu bị địch bắt, đầy đi Côn Đảo. Năm 1934, mãn hạn tù, Tô Hiệu trở về và bị quản thúc tại quê nhà. Năm 1939, Tô Hiệu lại bị địch bắt và giam ở đề lao Hải Phòng, ông bị kết án 5 năm tù và bị đày đi nhà ngục Sơn La. Năm 1944, do bị tra tấn dã man và bệnh lao phổi nặng, Tô Hiệu đã hy sinh tại nhà ngục này. Anh hùng Lao động - Giáo sư Vũ Khiêu đã dành tâm huyết viết câu đối trác tuyệt ca ngợi Tô Hiệu:
“Cuộc đấu tranh vượt bể băng ngàn, Kết giao tuấn kiệt, Tuyển lựa hiền tài, Trọn một đời vì Đảng vì dân, Vầng nhật nguyệt ngời soi khí phách”
“Đường cách mạng vào tù ra tội, Kiên định tử sinh, Đạp bằng uy vũ, Trải bao độ thử vàng thử sức, Đấng anh hùng chói sáng tinh khôi”

Câu đối đề tặng nhà tù Sơn La năm 2000 của Vũ Khiêu:
Vạn lý đào hoa nghinh quốc vận
Giang sơn hồng nhật chiếu gia thanh
Nghĩa:
Giang sơn muôn dặm hoa đào nở
Sử sách ngàn thu tiếng suối reo


Câu đối khắc trên ban thờ Cố Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Lê Văn Lương (1912 - 1995)
Lê Văn Lương tên thật là *Nguyễn Công Miều, sinh tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh). Trung ương Đảng đã cử đồng chí Lê Văn Lương, Ủy viên Bộ chính trị về Thành ủy Hà Nội và sau đó, đồng chí được BCH Đảng bộ thành phố bầu là Bí thư Thành ủy. Đôi câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu trên gian thờ đồng chí Lê Văn Lương đã khái quát phẩm chất cách mạng của người cộng sản suốt đời vì dân, vì Đảng:
“15 tuổi lên đường, chính khí vươn cao trời biển rộng
70 năm cùng Đảng, công huân rực sáng cổ thu soi”

Nguồn: Câu đối của Vũ Khiêu

Tướng quân Bãi Sậy - Ngô Quang Huy

Saturday, December 16, 2017

284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam

Ngô Quang Huy

_ Vũ Thanh Sơn _

Ngô Quang Huy biệt hiệu là Quang Hiên, sinh năm 1835 ở xã An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn An Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

Ngô Quang Huy là người thông minh, nổi tiếng hay chữ một vùng, đương thời có câu: “Thần Siêu, Thánh Quát, trẻ Quang Huy”. Năm 17 tuổi ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) tại trường thi Hà Nội, được bổ làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1883 Triều đình Huế kí Hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh. Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về huyện Đông Triều chiêu mộ quân đánh Pháp. Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, đỗ cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội đang làm Huấn đạo huyện Mỹ Đức đều bỏ quan chiêu mộ được hơn 100 quân đến Đông Triều gia nhập đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật.

Ngô Quang Huy là nhà nho từng làm đốc học, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ông đã thành lập một đội tuyên truyền gồm các nho sinh hô hào đồng bào gia nhập nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Nghĩa quân do các ông chỉ huy hoạt động mạnh ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Thanh Hà, Cẩm Giàng, Mỹ Hào và vùng chung quanh lỉnh lị Hải Dương.

Chiều 12/11/1883 nghĩa quân do Nguyễn Thiện Thuật, Hai Kế, Đề Vinh chỉ huy xuất phát từ Đông Triều về hạ thành Hải Dương. Đánh nhau đến gần sáng ngày 13 tháng 11, nghĩa quân không hạ được thành phải rút. Ngô Quang Huy trở về An Lạc cùng Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Tạ Hiện thành lập Tam tỉnh nghĩa quân còn gọi là “Đại nghĩa đoàn". Nghĩa quân có 5.000 người, xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền (Yên Dũng, Bắc Giang) và các căn cứ ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung Đồng. Sau vài tháng bị quân Pháp liên tục tấn công, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn, bị quân Pháp truy kích nghĩa quân tan rã, Ngô Quang Huy trở về An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang chờ thời, bí mật liên kết với các nghĩa sĩ.

Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật được vua Hàm Nghi phong là Lễ bộ thượng thư, sung Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, tước Thuần trung hầu. Nguyễn Thiện Thuật trở về vùng giáp ranh ba tỉnh Hải Dương - Hưng Yên - Bắc Ninh cho người mời cử nhân Ngô Quang Huy và Nguyễn Hữu Đức tới bàn bạc. Nhận được tin, Ngô Quang Huy lập tức đến gặp Nguyễn Thiện Thuật. Ba ông đã nhất trí phải khôi phục phong trào Bãi Sậy và mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân sang Bắc Ninh, Hải Dương và các tỉnh khác. Nguyễn Thiện Thuật giao cho Ngô Quang Huy phụ trách miền Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương.

Sau đó không lâu, Ngô Quang Huy nhận được sắc phong của vua Hàm Nghi phong cho ông là "Hồng lô Tự khanh, Tán lý quân vụ”. Nghĩa quân và nhân dân coi Ngô Quang Huy là nhân vật số hai của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, nên thường gọi ông là “ông Tán Bắc", "ông Tán Thái Lạc”...

Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, Tuần Văn người xã Xuân Quan, huyện Văn Giang đã dấy binh từ năm 1883 theo Đổng Quế, Đốc Sung, trợ thủ của Tuần Vân, Đội Văn (Vương Văn Vang) vốn là tướng giỏi của Tam tỉnh nghĩa quân năm 1884, cả hai ông đều được Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Đề đốc, phát triển lực lượng ra vùng chung quanh.

Ngô Quang Huy thành lập một đội quân tuyên truyền tố cáo tội ác của giặc Pháp và quan lại Nam triều, họp các kỳ hào và dân chúng, tuyên đọc Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Ông còn cho đắp đê, trồng tre dọc sông Nghĩa Trụ kéo dài từ xã Ngọc Kinh, qua Tuấn Dị, Vĩnh Bảo đến các xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số, một con đê khác từ Nghĩa Trai đến Cầu Ghênh (Nhạc Miếu) dài 4 cây số làm tuyến phòng thủ. Ông cho đắp nhiều gò đống, đắp nhiều bờ ruộng cao, khơi sâu kênh mương ở dọc đường 5 để quân sĩ ẩn núp phục kích quân Pháp.

Nghĩa quân do Ngô Quang Huy chỉ huy đánh nhiều trận như trận tấn công đồn Bần Yên Nhân, nhiều trận phục kích quân Pháp ở đồn Ghênh, đồn Bần Yên Nhân, đồn Đống Mối (Nghĩa Lộ tổng Đại Từ, Văn Lâm). Các trận càn của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải vào An Lạc, Đình Dù, Đại Từ, Nghĩa Trai, Đông Khúc, Khúc Lộng... đều bị nghĩa quân đánh bật ra bảo vệ được căn cứ.

Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy còn được vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích giao cho việc tổ chức lực lượng kháng chiến ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ông thường thảo thư từ liên lạc với các quan lại trong phe chủ chiến và sớ gửi vua Hàm Nghi.

Mặc dù đã nhiều cố gắng, song bị quân Pháp liên tục bao vây, truy kích Ngô Quang Huy đành phải giải tán nghĩa quân rồi cùng em là Ngô Quang Chước cùng mươi nghĩa quân thân tín chạy lên Phủ Lạng Thương (tỉnh Bắc Giang ngày nay), quân Pháp vẫn đuổi sát phía sau, để giữ trọn danh tiết không sa vào tay giặc, ngày 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng 1/5/1889), Ngô Quang Huy đã tự tử. Ngô Quang Chước cùng mấy nghĩa quân chôn cất, rồi san bằng mặt ruộng cho mất dấu tích. Mươi năm sau, ông Chước quay lại tìm thì không thấy.




 ✯✯ 
Nguồn Dựng nước - Giữ nước - hoi_ls Thượng tá, 28 Tháng Mười Một, 2011.


Ngô Quang Huy

Quê xã Yên Lạc huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên. Đỗ Cử nhân khoa Nhâm tý 1852 triều Tự Đức.

Con Ngô Quang Diêu, anh Ngô Quang Chước, cha con anh em đều thi đỗ, làm Huấn đạo, thăng Đốc học.

Cùng Ngô Quang Chước phối hợp với Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện Thuật chống nhau với quân Pháp ở chiến khu Bãi Sậy(Khởi nghĩa Bãi Sậy 1883-1892).

Vua Hàm Nghi phong Hồng lô tự khanh (hàm Chánh Tứ phẩm),sung Tán lý quân vụ, chỉ huy quân Cần vương vùng nam Bắc Ninh, bắc Hưng Yên, Hải Dương,tục gọi Ông Tán Bắc.Khi Nguyễn Thiện Thuật lánh sang Trung Quốc,ông tiếp tục chỉ huy cuộc kháng chiến ít lâu, rồi rút lên mạn ngược.

Thất truyền.
Theo NHÂN VẬT HỌ NGÔ (TIẾP THEO)H-M - Blog Trảo Nha

Hội thảo khoa học "Đồng chí Tô Hiệu với cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng Yên"

Monday, November 20, 2017

Tin, ảnh: TTXVN

"Đồng chí Tô Hiệu là người chiến sỹ cộng sản kiên trung mẫu mực, mãi mãi là tấm gương sáng ngời về tinh thần hy sinh vì độc lập dân tộc và hạnh phúc nhân dân". Đây là vấn đề được các nhà nghiên cứu khẳng định tại hội thảo khoa học "Đồng chí Tô Hiệu với cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng Yên", diễn ra ngày 12-10 do Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy Hưng Yên phối hợp tổ chức.
Quang cảnh hội thảo.
Báo cáo đề dẫn tại hội thảo của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Hồng Chương, nguyên Viện trưởng Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã đánh giá cao những cống hiến của đồng chí Tô Hiệu tập trung vào các vấn đề gồm: Truyền thống quê hương, gia đình đã góp phần hình thành tư tưởng yêu nước, dẫn dắt đồng chí Tô Hiệu trở thành chiến sĩ cách mạng; Con đường đến với cách mạng, giác ngộ lý tưởng cộng sản, hiến dâng tuổi trẻ cho dân tộc và nhân dân của đồng chí Tô Hiệu; Đồng chí Tô Hiệu thuộc lớp đảng viên đầu của Đảng, có những đóng góp to lớn đối với phong trào cách mạng Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám; Đồng chí Tô Hiệu, tấm gương người cộng sản kiên trung, trọn đời vì sự nghiệp cách mạng của Đảng.

Nhiều tham luận của các đại biểu, nhà khoa học đã cung cấp những tư liệu quý, giá trị như: "Những hoạt động yêu nước của đồng chí Tô Hiệu tại Hưng Yên và Hà Nội"; "Hoạt động và cống hiến của đồng chí Tô Hiệu trong thời kỳ xây dựng Đảng bộ Hải Phòng"; "Vai trò của đồng chí Tô Hiệu trong khôi phục cơ quan lãnh đạo của Đảng và phong trào cách mạng ở Bắc Kỳ"; "Đồng chí Tô Hiệu với công tác xây dựng tổ chức Đảng trong ngục tù Sơn La"...

Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912 trong một gia đình có truyền thống yêu nước ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên. Hoạt động cách mạng từ năm 14 tuổi, hy sinh tại nhà tù Sơn La ở tuổi 32, người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu là tấm gương chói lọi về tinh thần phấn đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì lý tưởng cách mạng cao đẹp cho các thế hệ người Việt Nam yêu nước. Với 32 tuổi đời, 18 năm hoạt động cách mạng, dù 2 lần bị địch bắt tù đày nhưng đồng chí Tô Hiệu vẫn bất khuất kiên cường, "Tinh thần Tô Hiệu" được coi là biểu tượng của ý chí cách mạng, của niềm tin chiến thắng.

Kết luận hội thảo, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Hưng Yên Đỗ Xuân Tuyên nhấn mạnh: những ý kiến tham luận tại hội thảo đều khẳng định đồng chí Tô Hiệu có đóng góp to lớn đối với phong trào cách mạng Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Quê hương Hưng Yên cũng như dòng họ, gia đình có những ảnh hưởng tích cực đến nhận thức, lòng yêu nước, nhân cách và chí hướng cách mạng của đồng chí Tô Hiệu. Lý tưởng cao đẹp, tinh thần bất khuất, bản lĩnh kiên trung của người chiến sĩ cách mạng Tô Hiệu là tấm gương sáng ngời cho thế hệ sau học tập và noi theo.

Tin, ảnh: TTXVN

Hội thảo khoa học "Đồng chí Lê Văn Lương với Cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng Yên"

Sunday, November 19, 2017

TTXVN

"Đồng chí Lê Văn Lương là một nhà lãnh đạo xuất sắc, là tấm gương đạo đức trong sáng của Đảng và cách mạng Việt Nam, có nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc". Đây là nội dung được khẳng định tại hội thảo khoa học "Đồng chí Lê Văn Lương với Cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng Yên" diễn ra ngày 12-10. Hội thảo do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy Hưng Yên phối hợp tổ chức.
Tại hội thảo, các nhà khoa học đã thảo luận, đi sâu làm rõ những hoạt động và cống hiến của đồng chí Lê Văn Lương như: Truyền thống quê hương, gia đình và con đường đến với cách mạng của đồng chí Lê Văn Lương; đồng chí Lê Văn Lương là nhà lãnh đạo xuất sắc, nhà tổ chức tài năng, tấm gương đạo đức cách mạng trong sáng; những tình cảm của đồng chí đối với quê hương Hưng Yên. Các ý kiến thảo luận đã phân tích rõ đồng chí Lê Văn Lương là một nhân cách lớn, có lý tưởng sống cao đẹp, đồng chí đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Cộng sản, có nhiều cống hiến xuất sắc đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Đồng chí Lê Văn Lương tên thật là Nguyễn Công Miều, sinh năm 1912 trong một gia đình nho học tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Ngay từ khi còn trẻ tuổi, đồng chí Lê Văn Lương đã giác ngộ cách mạng và tham gia các hoạt động yêu nước. Đồng chí được Đảng và Bác Hồ giao nhiều trọng trách: Ủy viên dự khuyết Xứ ủy Nam Bộ, Bí thư Văn phòng Thường vụ Trung ương Đảng; Trưởng Ban Tổ chức Trung ương; Giám đốc Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc; Chánh Văn phòng Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội... Đồng chí Lê Văn Lương là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa II, III, IV, V; Ủy viên Bộ Chính trị (khóa II, khóa IV); Bí thư Trung ương Đảng khóa III; là đại biểu Quốc hội khóa VI và khóa VII.

Trong suốt 70 năm cuộc đời hoạt động, đồng chí Lê Văn Lương luôn nêu cao tấm gương của một người Cộng sản mẫu mực, cống hiến hết mình cho công việc với phương châm "nhanh chóng, chính xác, bí mật, an toàn". Đồng chí luôn có tinh thần phê bình và tự phê bình, tác phong dân chủ, quan tâm sâu sắc đến đời sống nhân dân, được nhân dân tin yêu và quý trọng. Dù ở cương vị nào, đồng chí cũng làm việc với tinh thần tự giác, tận tụy, có trách nhiệm trước Đảng và dân tộc.

Phát biểu tại hội thảo, đồng chí Đỗ Tiến Sỹ, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên khẳng định: Hội thảo giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những hoạt động và cống hiến của đồng chí Lê Văn Lương, làm sáng tỏ hơn về cuộc đời sự nghiệp và tầm vóc cùng những đóng góp to lớn của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cũng như đối với quê hương Hưng Yên. Hội thảo sẽ để lại những tư liệu quý để giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau, là niềm tự hào, sự cổ vũ động viên đối với Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên. Tự hào là miền quê văn hiến và cách mạng, tỉnh Hưng Yên đang nỗ lực cùng cả nước đẩy mạnh thực hiện sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển, thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp. Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hưng Yên cũng luôn tri ân những bậc cha anh, những người con ưu tú của quê hương đã góp phần làm rạng danh cho đất nước như đồng chí Lê Văn Lương.

TTXVN

 ✯✯ 




Ngỡ ngàng giếng ngọc nghìn năm

Friday, November 17, 2017

ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ NHÃN
Vi Ngoan

Tình cờ biết đến giếng ngọc Tam Kỳ vào một ngày ghé qua làng, dừng chân trước cổng Đồng – tên cổ của cổng làng Tam Kỳ, thấy kỳ lạ sao bên đường một khoảng không gian bỗng nhiên tĩnh lặng...

“Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm”


Câu ca dao nói về làng Xuân Cầu xưa của xã Nghĩa Trụ (Văn Giang), nay đã thành 3 thôn: Tam Kỳ, Phúc Thọ và Lê Cao. Theo thời gian, vật đổi, sao dời, nghề bán thuốc lào, nghề nhuộm vải ở Xuân Cầu đã mai một, những cô hàng xén cũng thưa vắng, đánh rơi mất nụ cười răng đen vào những ngày xưa cũ… Nhưng về Xuân Cầu hôm nay, vẫn sẽ gặp cổng làng sừng sững, cổ kính, rêu phong mà ấm áp nghĩa tình, vẫn được đi trên con đường gạch rộng thênh thênh, nhẵn bóng bước người qua. Và nhất là ngay nơi đầu làng đây, giếng ngọc của làng vẫn văn vắt xanh trong, in màu của trời, của mây, của những tầng đá xanh bao quanh thành giếng.

Người dân làng Tam Kỳ, xã Nhãi Trụ làm lễ bên giếng Ngọc


Tình cờ biết đến giếng ngọc Tam Kỳ vào một ngày ghé qua làng, dừng chân trước cổng Đồng – tên cổ của cổng làng Tam Kỳ, thấy kỳ lạ sao bên đường một khoảng không gian bỗng nhiên tĩnh lặng. Một chiếc tường nhỏ thâm thấp bao quanh, chính giữa một miệng giếng tròn đường kính cỡ hơn 1m, xung quanh hoa nhài, hoa trạng nguyên, mẫu đơn… đua nhau khoe sắc, tỏa hương. Ôi chao, khi đâu đâu cũng là cảnh nhà nhà san sát, làng dần thành phố mà người Tam Kỳ vẫn gìn giữ, tôn thờ chiếc giếng đào cổ xưa, đẹp đẽ nhường này!. Niềm yêu thích dâng lên, khiến tôi không thể không lần nữa trở lại làng để được thêm tường tận.

Ngày trở lại Tam Kỳ, không hẹn trước mà gặp đúng ngày hội xuân. Cách giếng ngọc không xa, chùa Xuân Cầu vang nhịp trống phách của đoàn nữ tế. Từng xóm, từng xóm, già trẻ, gái trai, ai cũng quần là áo lượt, xếp thành hàng dài, trong lòng ngập tràn thành kính. Trước tiên, đoàn lễ đến bên giếng, như một nghi lễ tôn thờ trước thần giếng, trước mắt rồng, trước hồn của làng, ai ai cũng một lòng chiêm bái. Khi hương hoa đã nghi ngút trên ban thờ trước miệng giếng ngọc, dân làng mới lần lượt theo nhau đội lễ lên chùa, để lại quanh giếng một không gian tĩnh tại, thoảng mùi trầm hương.

Ngồi bên thành giếng, chạm tay vào từng phiến đá xanh mát lạnh, tôi được ông Nguyễn Quang Huy, trưởng thôn Tam Kỳ kể cho nghe những câu chuyện xung quanh chiếc giếng quý của làng. Ông Huy tạm gỡ chiếc lồng sắt bảo vệ miệng giếng ra để người khách phương xa là tôi đây được ngắm hết vẻ đẹp của giếng ngọc nghìn năm. Tôi chầm chậm nhìn xuống tận đáy giếng. Nước trong thế kia, một khoảng trời soi thấu xuống đáy, những nhành dương xỉ và từng đường nét khuôn mặt mình, tôi đều trông rõ dưới bóng nước mát màu ngọc. Tôi buột miệng hỏi ông trưởng thôn: Có phải là giếng hơi nông không? Cháu nhìn như nước chỉ có vài gang tay thôi! Ông cười: Vài gang mà cô nói ấy xưa kia là nguồn nước sạch của cả làng tôi đấy. Mùa mưa, mạch đầy, nước dâng cao tới gần miệng giếng, dùng gáo múc được. Mùa khô, nước xuống thấp như bây giờ đây, nhưng chỉ xuống thấp chứ không bao giờ cạn, cả làng dùng suốt mùa khô hạn mà nước vẫn trong vắt như gầu đầu tiên múc lên vậy! Nước mát, ngọt và lành lắm. Phúc đức cho nhà nào gần giếng, ai cũng khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, con gái tóc mượt dài đen lay láy!. Các cụ trong làng còn truyền lại một vài câu chuyện dân dã mà thần kỳ, như có người đi làm đồng bị cảm nắng, may sao được dân làng dìu đỡ đến bên giếng, múc cho uống một bát nước và lấy nước giếng rửa mặt mà tỉnh được. Rồi có một năm trời nắng hạn như rang, cỏ cây khô héo, ao hồ cạn sạch, người làng nhờ có giếng ngọc này mà qua cơn hạn hán, cứu được vật nuôi, hoa màu, giúp đỡ người dân làng khác… thế mà mực nước trong giếng vẫn không cạn.

Bên giếng Ngọc


Giếng Tam Kỳ đã là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà lịch sử, địa lý trong và ngoài tỉnh. Qua nhiều lần khảo sát, đánh giá, dựa trên cách xây dựng, nguyên liệu, kỹ thuật… gắn với một số di tích của làng, các nhà nghiên cứu đã xác định niên đại của giếng cổ ở Tam Kỳ đến nay là hơn 1.200 năm. Nhà sử học Lê Văn Lan vào năm 2013 về làng Tam Kỳ, khi giếng được trùng tu, khánh thành, đã có lời đề tự rằng đây là nơi “tụ Thủy như tụ Nhân”.

Giếng Tam Kỳ quả là một công trình kỳ bí và độc đáo. Một chiếc giếng đào đơn giản mà không bao giờ cạn nước, mạch nước trong lành, sạch sẽ bốn mùa. Phải chăng được một thầy địa lý tài ba chọn được vị trí đắc địa mới cho nguồn nước tốt đến thế. Ngắm giếng mới thấy, từ cả nghìn năm trước, không một chút vôi vữa, xi măng mà giếng bền bỉ, đẹp đẽ với thời gian. Thành giếng thẳng tắp không tỳ vết, mà kỳ lạ ở chỗ chỉ đơn giản là bàn tay tài hoa của người xưa đã xếp từng viên gạch, từng viên gạch… mà tạo được sự vững vàng đó! Gạch xếp làm giếng là loại “gạch thất”, từng vòng, từng vòng xếp so le nhau. Miệng giếng có 3 tầng đá xanh, không phải đá thường, mà là những chiếc cối đá tròn, cũng khéo léo xếp lên nhau y như xếp gạch vậy. Ngay cả thành giếng cũng là đá xanh nguyên phiến nhẵn bóng và mát lạnh theo thời gian. Ông trưởng thôn còn chỉ cho tôi những vết dây gầu múc nước, đời nối đời, mài lên thành giếng, kéo từng gầu, tạo thành nhiều vệt lõm bóng mịn.

Giếng ngọc của làng còn gắn với di tích Quán Dố - một ngôi miếu cổ, thờ Ma lỗ Đại vương. Theo lệ làng, cứ đến tháng Sáu âm lịch, dân làng tổ chức lễ rước nước từ giếng ngọc về Quán Dố để cầu mưa. Khi ấy, các cụ cao niên trong làng sẽ khăn áo chỉnh tề, trai tráng thì vác kiệu, vác lọng, bê ché ra trước giếng, xin Thần giếng cho nước thiêng về thờ tại Quán Dố, cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.

Thế nên sau này dù có một khoảng thời gian bị vùi lấp, rồi đến ngày nay, dù nước giếng không được sử dụng để ăn uống như xưa nhưng người làng Tam Kỳ vẫn luôn quý trọng giếng như bảo vật của làng. Khi tôn tạo lại giếng vào năm 2012, dân làng Tam Kỳ người góp đất, người góp công, người góp tiền… giữ cho giếng một khoảng trời riêng bên cổng làng, để quanh giếng luôn là sắc hương của hoa tươi bốn mùa. Năm 2016, Quán Dố cũng được tôn tạo. Bắt đầu từ tháng Sáu âm lịch năm nay dân làng sẽ khôi phục lại lễ rước nước, cầu mưa, thật kỳ vọng sẽ được trở lại nơi đây vào ngày lễ đặc biệt của giếng ngọc nghìn năm này.

Trước khi rời Tam Kỳ, tôi vẫn lưu luyến ngắm nhìn giếng ngọc thêm một lần. Có chú chim sâu nho nhỏ lích tích nhảy bên bờ giếng, soi cái bóng bé xinh của mình xuống gương nước, hạt nắng cuối ngày vô tình buông xuống, hắt lên thứ ánh sáng dìu dịu như màu ngọc thạch… Mong rằng vẻ đẹp này, công trình cổ xưa và quý giá này sẽ luôn được người dân, chính quyền địa phương trân quý bảo tồn, để những lữ khách gần xa và cả con cháu đời sau càng thêm hiểu, thêm yêu quý và tự hào.

Vi Ngoan

Nguồn: "baohungyen.vn" - 25/04/2017, 11:08 [GMT+7]






Chuyện chưa từng kể về hai giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi ở Hưng Yên
Nguyễn Đức

(Dân Việt) Người dân thôn Tam Kỳ truyền tai nhau những câu chuyện kỳ lạ xung quanh hai chiếc giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi có nguồn nước trong xanh, không bao giờ cạn.

CCâu chuyện về hai chiếc giếng cổ tồn tại cả ngàn năm ở thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên khiến ai nghe cũng tò mò, ngỡ ngàng. Trong những ngày cuối tháng 7/2018, chúng tôi có dịp về thôn Tam Kỳ “ mục sở thị” hai chiếc giếng cổ này.

Hai giếng cổ có niên đại hơn 1.200 năm

Đường vào thôn Tam Lỳ được trải bê tổng phằng lỳ hai bên đường là hàng cây xanh xòa tàn rợp bóng mát. Ngay đầu làng là chiếc cổng làng mang đâm nét cổ kính, rêu phong. Nhìn sang phải thấy một chiếc giếng cổ có đường kính khoảng 1m.

Chiếc giếng cổ ở gần cổng làng thôn Tam Kỳ



Nguồn nước trong giếng luôn trong vắt, không bao giờ cạn




Ông Vũ Như Lân, bí thư thôn Tam Kỳ cho biết, đây cũng chính là chiếc giếng cổ mới được dân làng Tam Kỳ khôi phục lại cách đây vài năm. Mở nắp đậy, ông Lân giới thiệu về chiếc giếng cổ có nguồn nước xanh trong, in đậm màu trời: “Chiếc giếng cổ này có đường kính 1m, độ sâu gần 14m. Những viên gạch làm thành giếng là loại “gạch thất”, từng vòng xếp so le nhau. Miệng giếng có 3 tầng đá xanh với những khối đá tròn xếp lên nhau”.

Miệng giếng có 3 tầng đá xanh với những khối đá tròn xếp lên nhau


Ông Lân cho biết thêm, gạch làm thành giếng có chiều dày 7cm, chiều ngang 17cm và dài là 27cm. Còn các khối đá tròn có chiều cao là 17cm, đáy 27cm.

Cách chiếc giếng cổ này khoảng 200m là một chiếc giếng cổ thứ 2. Chiếc giếng cổ này nằm trong khuôn viên của một gia đình trong thôn Tam Kỳ. Đến nay, gia đình này vẫn sử dụng nguồn nước trong giếng để sinh hoạt hàng ngày.


Phía thành giếng có một lớp sắt che đậy tránh người dân rơi xuống giếng


Chiếc giếng cổ thứ hai có đường kính 1m, chiều sâu hơn 10m. Những viên gạch làm thành giếng là loại “gạch thất”m từng vòng xếp so le nhau. Còn thành giếng là loại đá xanh nguyên phiến nhẵn bóng.

“2 chiếc giếng cổ trong thôn Tam Kỳ được ví như là hai mắt thần và được coi là linh khí của thôn Tam Kỳ. Bởi vậy, mà người dân trong thôn rất trân trọng giữ gìn và bảo vệ giếng cổ. Trải qua thời gian, hai chiếc giếng cổ vẫn còn gần như nguyên vẹn”, ông Lân chia sẻ.

Ông Lê Đức Dân, chủ tịch UBND xã Nghĩa Trụ cho hay, hai chiếc giếng cổ tại thôn Tam Kỳ cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà lịch sử nổi tiếng, trong đó có nhà sử học Lê Văn Lan. Qua nhiều lần khảo sát, đánh giá, và dựa trên cách xây dựng, các di tích, ông Lan xác định niên đại của hai chiếc giếng cổ này có niên đại khoảng hơn 1.200 năm.

Nước giếng cổ trong vắt, không bao giờ cạn

Ông Nguyễn Quang Huy (SN 1962), Trưởng thôn Tam Kỳ kể rằng, trước kia, hai giếng cổ này là nguồn nước sạch của cả thôn. Mùa mưa, mạch đầy, nước dâng cao tới gần miệng giếng nên có thể dùng gáo múc được. Mùa khô, nước xuống thấp hơn, nhưng chỉ xuống thấp chứ không bao giờ cạn.

Thông tin về chiếc giếng cổ được khắc trên tấm bia đá


“Tôi nghe các cụ kể lại rằng, vào mùa khô ao trong làng gần như cạn nước nhưng riêng hai chiếc giếng nước này nước vẫn trong vắt, không hề cạn nước. Đặc biệt, nguồn nước ở giếng cổ này sạch, không ô nhiễm nên dân nào trong thôn cũng dùng nước này để ăn uống, tắm rửa”, ông Huy nói.

The lời ông Huy, các cụ trong thôn Tam Kỳ còn truyền tai nhau những câu chuyện kỳ lạ xung quanh hai chiếc giếng cổ này. Người ta kể rằng, vào trưa mùa hè, có người phụ nữ đi làm đồng bị cảm nắng, được dân làng dìu đến bên giếng, rửa mặt bằng nước giếng và múc nước giếng cho uống. Sau đó, người phụ nữ này dần mở mắt tỉnh lại.
Chiếc giếng cổ này nằm trong khuôn viên của một gia đình trong thôn Tam Kỳ



Ông Huy cho hay, từ năm 1980 trở về đây, nhiều người dân bắt đầu sử dụng nước giếng khoan để dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Cũng kể từ đó, mọi người không sử dụng nước ở chiếc giếng cổ gần cổng làng để ăn uống như xưa, nhưng người thôn tam Kỳ vẫn luôn quý trọng giếng như bao vật.

Thành giếng là loại đá xanh nguyên phiến nhẵn bóng



“Năm 2012, dân làng Tam Kỳ người góp đất, người góp công, người góp tiền tôn tạo một phần nhỏ của chiếc giếng cạnh cổng làng nhằm bảo tồn giá trị văn hóa cổ xưa hàng ngàn năm tuổi. Bắt đầu từ tháng sáu âm lịch năm 2017, dân làng Tam Kỳ đã khôi phục lại lễ rước nước, cầu m ưa. Khi ấy, các cụ cao niên trong làng sẽ khăn áo chỉnh tề, trai tráng thì vác kiệu, vác lọng, bê chén ra trước giếng, xin thần giếng cho nước thiêng về thờ tại Quán Dố, cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt”, ông Huy chia sẻ.

Nguồn: Báo điện tử Dân Việt - Chủ Nhật, ngày 29/07/2018 18:55 PM


Mời xem bài:

Giải mã bí ẩn giếng ngọc 1.200 tuổi tại Hưng Yên


Người dân thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang - Hưng Yên) cho rằng, sử dụng nước giếng ngọc hơn 1.200 tuổi khiến ai cũng khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, con gái tóc mượt dài và đen như gỗ mun.



Những câu chuyện lạ kỳ

Thôn Tam Kỳ (Xuân Cầu), xã Nghĩa Trụ (Văn Giang - Hưng Yên) được nhiều người biết đến bởi là quê hương của nhà cách mạng, liệt sĩ Tô Hiệu - Tô Chấn. Trên mảnh đất địa linh nhân kiệt này, người dân thôn Tam Kỳ mới khôi phục được hai chiếc giếng ngọc có niên đại hơn 1.200 năm tuổi.

Về Tam Kỳ, chúng tôi dừng chân trước cổng làng cổ kính rêu phong. Nhìn sang phải thấy một chiếc giếng có đường kính khoảng 1m. Đây chính là giếng ngọc mới được dân làng khôi phục lại.

Chúng tôi không khỏi tò mò bước đến gần. Nước giếng xanh trong, in màu của trời, của mây, của những tầng đá xanh bao quanh thành giếng. Phía trên có bia giếng ngọc "Cổng Đồng". Bàn thờ vẫn đang nhả khói hương nghi ngút.


Chiếc giếng ngọc hơn 1200 năm tuổi tại thôn Tam Kỳ. (Ảnh: Kim Thược)



Thấy tôi tò mò ngắm nghía chiếc giếng cổ, ông Nguyễn Quang Huy (SN 1962) - Trưởng thôn Tam Kỳ lên tiếng:
"Xưa kia, giếng này là nguồn nước sạch của cả làng Xuân Cầu. Mùa mưa, mạch đầy, nước dâng cao tới gần miệng giếng nên có thể dùng gáo múc được.

Mùa khô, nước xuống thấp hơn, nhưng chỉ xuống thấp chứ không bao giờ cạn. Cả làng dùng suốt mùa khô hạn mà nước vẫn trong vắt như gầu đầu tiên múc lên. Nước mát, ngọt nên nhà nào sử dụng nước giếng cũng khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, con gái tóc mượt dài đen như gỗ mun".


Ông Nguyễn Quang Huy bên chiếc giếng cổ hơn 1200 năm tuổi. (Ảnh: Kim Thược)



Ông Huy còn cho biết, các cụ trong thôn Tam Kỳ còn truyền tai nhau những câu chuyện kỳ lạ xung quanh chiếc giếng cổ này. Người ta kể rằng, có người đi làm đồng bị cảm nắng, được dân làng dìu đến bên giếng, rửa mặt bằng nước giếng và múc nước giếng cho uống. Người này dần mở mắt tỉnh lại. Rồi có một năm trời nắng hạn, cỏ cây khô héo, ao hồ cạn sạch. Duy chỉ có giếng ngọc không lúc nào cạn đã giúp người dân Tam Kỳ vượt cơn hạn hán.

Giải thích về những câu chuyện kỳ lạ về chiếc giếng, ông Huy cho hay:
"Nhiều người không hiểu cho rằng mê tín dị đoan. Nhưng tôi nghĩ có gì lạ khi một người bị cảm do làm việc quá sức có hớp nước mát uống thì tỉnh táo là điều dễ hiểu.

Quan trọng nước ở giếng ngọc này sạch, không ô nhiễm nên dùng nước này để ăn uống sẽ ít bệnh tật, tắm rửa da không mụn nhọn, gội đầu tóc sẽ mềm mại. Chẳng phải bây giờ nhiều người mắc ung thư hay cá chết hàng loạt cũng một phần là do nguồn nước bị ô nhiễm? Những câu chuyện truyền tai nhau là để con cháu Tam Kỳ trân trọng nguồn nước sạch và quý hiếm".


Chiếc giếng ngọc của thôn mới được trùng tu nên hiện tại người dân chưa sử dụng. (Ảnh: Kim Thược)




Hai mắt thần và con số 7 bí ẩn

Lời đồn quả không sai, chiếc giếng Tam Kỳ quả là một công trình độc đáo. Giếng đào thủ công và chưa bao giờ cạn nước. Mạch nước trong lành, sạch sẽ bốn mùa do chọn được vị trí đắc địa cho nguồn nước tốt.

Quan sát kĩ giếng sẽ thấy, giếng được đào từ cả nghìn năm trước, người dân chỉ dùng những viên gạch xếp chồng lên nhau không chút vôi vữa vậy mà miệng giếng vẫn tròn, đẹp và không hề bị xuống cấp theo thời gian.


Còn chiếc giếng cổ hơn 1300 năm tuổi này vẫn được một gia đình trong thôn sử dụng. (Ảnh: Kim Thược)


Ông Đặng Xuân Chính (SN 1953), một người dân ở Tam Kỳ cũng là người sưu tầm nhiều thông tin và hình ảnh về giếng ngọc thôn Tam Kỳ cho biết, những viên gạch làm thành giếng là loại "gạch thất", từng vòng xếp so le nhau. Miệng giếng có 3 tầng đá xanh, không phải đá thường, mà là những chiếc khối đá tròn, cũng xếp lên nhau y như công thức xếp gạch. Ngay cả thành giếng cũng là đá xanh nguyên phiến nhẵn bóng.

Nói về lối xếp "gạch thất", ông Chính giải thích:
"Gạch làm thành giếng có chiều dày 7cm, chiều ngang 17cm và dài là 27cm. Còn các khối đá tròn úp phía trên giếng được làm thủng, chiều cao của khối đá là 17cm, đáy 27cm và miệng cối đá úp xuống là 37cm.

Tại sao các cụ lại lấy con số 7 thì đến giờ chúng tôi chưa lý giải được. Chỉ biết, khi lắp vào thì rất là khít. Dù không có vôi vữa, chỉ xếp các viên gạch, viên đá vào nhau nhưng đã tạo được sự vững chắc. 1.200 năm tuổi, giếng vẫn nguyên vẹn".


Ông Đặng Xuân Chính bên những hình ảnh về chiếc giếng cổ trong làng. (Ảnh: Kim Thược)



Ngoài ra, chiếc giếng cổ còn lại nằm trong khuôn viên của một gia đình trong thôn. Chiếc giếng này có tuổi đời hơn 1.300 năm và đến nay vẫn được gia đình này sử dụng để lấy nước sinh hoạt hàng ngày.

Sở dĩ, giếng phải khôi phục là do thời kì kháng chiến chống Pháp, giếng đã bị lấp đi. Người dân thôn Tam Kỳ quan niệm: "
2 chiếc giếng cổ là hai mắt thần và là linh khí của thôn Tam Kỳ. Bởi vậy, việc lấp hai chiếc mắt thần đã vô tình động linh khí của làng. Muốn linh khí tốt, người dân phải khôi phục lại hai chiếc giếng cổ".

Được biết, giếng ngọc của làng còn gắn với di tích Quán Dố - một ngôi miếu cổ, thờ Ma Lỗ Đại Vương. Theo lệ làng, cứ đến tháng sáu âm lịch, dân làng tổ chức lễ rước nước từ giếng ngọc về Quán Dố để cầu mưa.

Khi ấy, các cụ cao niên trong làng sẽ khăn áo chỉnh tề, trai tráng thì vác kiệu, vác lọng, bê ché ra trước giếng, xin Thần giếng cho nước thiêng về thờ tại Quán Dố, cầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.


Nhiều đứa trẻ trong làng rất tò mò về câu chuyện xoay quanh chiếc giếng cổ. (Ảnh: Kim Thược)



Thế nên sau này dù có một khoảng thời gian bị vùi lấp, dù nước giếng ngọc không được sử dụng để ăn uống như xưa, nhưng người thôn Tam Kỳ vẫn luôn quý trọng giếng như bảo vật. Khi tôn tạo lại giếng vào năm 2012, dân làng Tam Kỳ người góp đất, người góp công, người góp tiền giữ cho giếng một khoảng trời riêng bên cổng làng, để bảo tồn giá trị văn hóa cổ xưa hàng ngàn năm tuổi.

Năm 2016, Quán Dố cũng được tôn tạo. Bắt đầu từ tháng sáu âm lịch năm 2017, dân làng sẽ khôi phục lại lễ rước nước, cầu mưa. Trước khi rời Tam Kỳ, ông Nguyễn Xuân Huy - Trưởng thôn Tam Kỳ tâm sự:
"Tôi mong rằng vẻ đẹp này, công trình cổ xưa và quý giá này sẽ luôn được người dân, chính quyền địa phương trân quý bảo tồn, để những lữ khách gần xa và cả con cháu đời sau càng thêm hiểu, thêm yêu quý và tự hào về truyền thống của quê hương Tam Kỳ".
Không chỉ là truyền miệng, giếng Tam Kỳ đã là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà lịch sử nổi tiếng. Qua nhiều lần khảo sát, đánh giá và dựa trên cách xây dựng, nguyên liệu, kỹ thuật gắn với một số di tích của làng, Nhà sử học Lê Văn Lan đã xác định niên đại của giếng cổ. Theo đó, giếng có từ thời nhà Đường, tức là cách đây khoảng 1200 năm. Năm 2013, khi giếng ngọc Tam được trùng tu và khánh thành, Nhà sử học Lê Văn Lan cũng đã có lời đề tự rằng đây là nơi: "Tụ Thủy như tụ Nhân".





KIM THƯỢC, THEO VTC



Nguồn: Kenh14.vn, 09:28 14/05/2017




Mời xem bài:

Nhà lưu niệm liệt sỹ Tô Hiệu

Thursday, November 16, 2017

Làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, Văn Giang là mảnh đất liệt sỹ Tô Hiệu sinh ra và lớn lên. Năm 2000, tại khu đất cũ của gia đình đồng chí, nhà lưu niệm được xây dựng và trở thành một địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ.


Đoàn cán bộ và nhân dân xã Nghĩa Trụ (Văn Giang) viếng mộ liệt sỹ Tô Hiệu (ảnh Báo HY)



Ðồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912, là chiến sĩ cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng, hy sinh ngày 7/3/1944 tại nhà tù Sơn La. Ðồng chí sớm giác ngộ, đi theo cách mạng, tham gia vào các phong trào yêu nước khi còn rất trẻ. Đồng chí từng hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức nhiều cuộc đình công, biểu tình và trực tiếp tham gia đấu tranh chống lại thực dân Pháp xâm lược. Tháng 2/1939, đồng chí Tô Hiệu được phân công về phụ trách Liên khu B (gồm các tỉnh miền Duyên hải Bắc Bộ và Hải Dương, Hưng Yên), trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Bị địch bắt lần thứ 2 khi đang kiểm tra việc in truyền đơn chuẩn bị cho phong trào đấu tranh mới (1/12/1939), tại xóm thợ Thượng Lý (quận Hồng Bàng), cuối tháng 12/1939, thực dân Pháp kết án 5 năm tù và đày đồng chí đi nhà tù Sơn La. Dù hai lần bị địch bắt, giam cầm nhưng đồng chí vẫn luôn lạc quan, kiên trung với con đường cách mạng. Đặc biệt tại nhà ngục hà khắc của thực dân Pháp, mặc dù bị lao phổi nặng do di chứng trong những ngày lao tù tại Côn Đảo, với cương vị là Bí thư chi bộ nhà tù, đồng chí đã hăng hái tham gia lãnh đạo anh em trong tù đấu tranh, giữ vững khí tiết cách mạng, đồng thời biến nhà tù thành trường học, đào tạo được nhiều cán bộ cốt cán cho Đảng, cho cách mạng. Đồng chí được anh em tuyệt đối tín nhiệm, tin tưởng, được coi như linh hồn của phong trào đấu tranh cách mạng trong nhà tù Sơn La. Cuộc đời của đồng chí Tô Hiệu tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại bài học to lớn về tinh thần đấu tranh cách mạng, về công tác xây dựng Ðảng. Bản lĩnh kiên cường, bất khuất, tinh thần lạc quan cách mạng cũng như tấm gương hy sinh anh dũng của đồng chí Tô Hiệu đã trở thành di sản quý báu trong lịch sử đấu tranh cách mạng và lịch sử dân tộc Việt Nam. Trong suốt 4 năm trong nhà ngục Sơn La - “Địa ngục trần gian”, ông đã vận động, cảm hóa được nhiều binh lính ở đây, nhiều người giác ngộ cảm tình với cách mạng, sau đó tham gia cách mạng. Ngày 7/3/1944, Tô Hiệu hy sinh tại nhà tù Sơn La lúc 33 tuổi.
Được sự quan tâm của Đảng, nhà lưu niệm liệt sỹ Tô Hiệu được khánh thành năm 2000, nằm bên cạnh nhà thờ Tổ, trong khuôn viên rộng hơn 700 m2 . Năm 2012, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh, gia đình đồng chí đã tiến hành nâng cấp, sửa chữa một số hạng mục nhà lưu niệm, năm 2014 xây thêm khu nhà đón tiếp khách đến tham quan, thăm viếng.

Tổng thể kiến trúc của công trình mang đậm nét truyền thống với kết cấu kiểu chữ Đinh gồm 2 tòa: Tòa ngoài 3 gian, tòa trong là 1 gian làm bằng gỗ lim, mái lợp ngói mũi, nền lát gạch Bát Tràng. Phần trang trí tập trung của nhà lưu niệm ở tòa trong và gian trung tâm tòa ngoài với việc bài trí nhiều đồ thờ tự. Đây là nơi đặt ban thờ đồng chí Tô Hiệu với di ảnh và tượng bán thân đồng chí được đúc bằng đồng. Phía trên ban thờ treo bức hoành phi "Đại nghĩa lưu phương" (Đại nghĩa - sự nghiệp của Đảng để lại tiếng thơm mãi mãi về sau). Hai bên ban thờ treo đôi câu đối chữ Hán:

"Vạn lý đào hoa nghinh quốc vận;
Thiên thu hồng nhật chiếu gia thanh
"
Dịch nghĩa: “Muôn dặm hoa đào mừng vận mới của Tổ quốc;
Ngàn thu mặt trời rọi sáng trên thanh danh của gia đình họ Tô"

Các bức hoành phi, câu đối trên đây đều do Giáo sư, anh hùng lao động Vũ Khiêu đề tặng nhân dịp khánh thành nhà lưu niệm với nội dung ca ngợi công đức của đồng chí Tô Hiệu.

Hai bên tòa nhà là nơi trưng bày hơn 100 tài liệu, hình ảnh, hiện vật tiêu biểu nhằm tái hiện lại thân thế, cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng cùng những đóng góp to lớn của đồng chí đối với quê hương, đất nước thể hiện rõ nét qua 3 chủ đề chính:
1: Quê hương Xuân Cầu và dòng họ Tô ở Xuân Cầu;
2: Tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Tô Hiệu;
3: Tình cảm của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với đồng chí Tô Hiệu.

Cây đào ở nhà tù Sơn La được mang tên Tô Hiệu vào năm 1945 khi cách mạng đã thành công để tượng trưng cho tinh thần đấu tranh cách mạng của một chiến sỹ kiên cường. Sau này một cành của cây đào này đã được triết và đưa về trồng bên Lăng Bác. Nghĩa trang Gốc Ổi ở thành phố Sơn La cũng trồng đào sau khi lấy giống từ cây đào này. Ngày nay cây đào Tô Hiệu ở Nhà tù Sơn La luôn xanh tươi chào đón du khách mọi miền có dịp đến thăm. Trong sân của nhà lưu niệm liệt sỹ hiện có cây đào được nhân giống từ cây đào Tô Hiệu tại nhà tù Sơn La để tưởng nhớ tới người anh hùng đã khuất.

Hàng năm, vào ngày mất của liệt sỹ, con cháu trong dòng họ dù xa hay gần đều tề tựu đông đủ về nhà thờ Tổ, nhà lưu niệm để thắp nén nhang thơm tỏ lòng thành kính tới người con ưu tú của dòng họ Tô. Nhà lưu niệm liệt sỹ Tô Hiệu sẽ là nơi chào đón nhân dân và du khách thập phương khi về thăm mảnh đất Hưng Yên địa linh, nhân kiệt.

TTTTXTDL