Trích từ "Làng Khoa Bảng Và Danh Nhân Làng Khoa Bảng Việt Nam"

... chút hương đồng gió nội Quê nhà
Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai
Thượng Đẳng Phúc Thần Tối Linh Hoa Kiều Lang Đại Vương là người tư chất mẫn tiệp, đức vốn thông minh, xuất chúng tài giỏi hơn người, biến hóa khôn lường, nhìn không thấy, nghe chẳng hay, cuồn cuộn trên cao, cảm ứng sẽ hanh thông, cầu xin tất ứng nghiệm, vô cùng linh ứng, có thể trừ tai họa, ngừa hoạn nạn, âm phù vững chắc làm quốc gia yên ổn, khiến dân chúng thịnh vượng, công tích với đất nước thật lớn lao.Theo tín ngưỡng của người Việt từ ngàn xưa, Thành Hoàng làng là vị phúc thần tối thượng thiêng liêng bảo hộ cho người dân trong làng xã làm ăn sinh sống, mùa màng tươi tốt, “quốc thái dân an”, không phân biệt dòng họ, giàu nghèo, già trẻ, trai gái. Miếu Thành Hoàng diễn Nôm là nhà của ngài, đến ngày lễ hội thì dân làng mới rước ngài ra đình.
Trung liệt hùng nghị dũng lược Đại vương, Người là chung đúc chính khí của trời cao, tinh anh của Nhị khí, trở thành Thần thiêng của nước Nam. Sức mạnh của Thần đã nhiều lần hiển hiện linh ứng, phù trì kéo dài vô cùng đến muôn năm, công lao khánh hạ rất nhiều. Thần đã hiển ứng phù hộ Hoàng gia phúc trạch lâu bền, Vương nghiệp nối dài vĩnh viễn, âm phù uy binh, tiễu trừ nghịch đảng, thu phục biên cương, hộ quốc an dân, giữ gìn xã tắc.
Gió Xuân Cầu lồng lộng chí nam nhi, hai chục tuổi lên đường cứu nước! Nào dựng xây tổ chức, nào giác ngộ đồng bào, nào mở rộng phong trào, nào ngược xuôi Nam Bắc, cùng nhân dân gắn bó nghĩa tình. Rồi phải buổi sa cơ mắc lưới, chốn lao lung tay xích chân cùm: Khí tiết vẫn sáng ngời trong sắt thép!
Hầm Côn Đảo nấu nung gan chiến sĩ, hơn sáu năm đối mặt quân thù. Vẫn vững chắc tinh thần, vẫn đấu tranh bất khuất, vẫn nâng cao kiến thức, vẫn rèn luyện ngày đêm, được Đảng bộ tin giao trọng trách. Cho đến khi vượt biển chìm bè, dù thể phách sóng gió vùi dập: Hồn thiêng còn tỏa rộng giữa trời mây!
“Cuộc đấu tranh vượt bể băng ngàn, Kết giao tuấn kiệt, Tuyển lựa hiền tài, Trọn một đời vì Đảng vì dân, Vầng nhật nguyệt ngời soi khí phách”
“Đường cách mạng vào tù ra tội, Kiên định tử sinh, Đạp bằng uy vũ, Trải bao độ thử vàng thử sức, Đấng anh hùng chói sáng tinh khôi”
Vạn lý đào hoa nghinh quốc vậnNghĩa:
Giang sơn hồng nhật chiếu gia thanh
Giang sơn muôn dặm hoa đào nở
Sử sách ngàn thu tiếng suối reo
“15 tuổi lên đường, chính khí vươn cao trời biển rộng
70 năm cùng Đảng, công huân rực sáng cổ thu soi”
"Đồng chí Lê Văn Lương là một nhà lãnh đạo xuất sắc, là tấm gương đạo đức trong sáng của Đảng và cách mạng Việt Nam, có nhiều đóng góp to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc". Đây là nội dung được khẳng định tại hội thảo khoa học "Đồng chí Lê Văn Lương với Cách mạng Việt Nam và quê hương Hưng Yên" diễn ra ngày 12-10. Hội thảo do Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy Hưng Yên phối hợp tổ chức.
Tình cờ biết đến giếng ngọc Tam Kỳ vào một ngày ghé qua làng, dừng chân trước cổng Đồng – tên cổ của cổng làng Tam Kỳ, thấy kỳ lạ sao bên đường một khoảng không gian bỗng nhiên tĩnh lặng...
(Dân Việt) Người dân thôn Tam Kỳ truyền tai nhau những câu chuyện kỳ lạ xung quanh hai chiếc giếng cổ hơn 1.200 năm tuổi có nguồn nước trong xanh, không bao giờ cạn.
"Xưa kia, giếng này là nguồn nước sạch của cả làng Xuân Cầu. Mùa mưa, mạch đầy, nước dâng cao tới gần miệng giếng nên có thể dùng gáo múc được.
Mùa khô, nước xuống thấp hơn, nhưng chỉ xuống thấp chứ không bao giờ cạn. Cả làng dùng suốt mùa khô hạn mà nước vẫn trong vắt như gầu đầu tiên múc lên. Nước mát, ngọt nên nhà nào sử dụng nước giếng cũng khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, con gái tóc mượt dài đen như gỗ mun".
"Nhiều người không hiểu cho rằng mê tín dị đoan. Nhưng tôi nghĩ có gì lạ khi một người bị cảm do làm việc quá sức có hớp nước mát uống thì tỉnh táo là điều dễ hiểu.
Quan trọng nước ở giếng ngọc này sạch, không ô nhiễm nên dùng nước này để ăn uống sẽ ít bệnh tật, tắm rửa da không mụn nhọn, gội đầu tóc sẽ mềm mại. Chẳng phải bây giờ nhiều người mắc ung thư hay cá chết hàng loạt cũng một phần là do nguồn nước bị ô nhiễm? Những câu chuyện truyền tai nhau là để con cháu Tam Kỳ trân trọng nguồn nước sạch và quý hiếm".
"Gạch làm thành giếng có chiều dày 7cm, chiều ngang 17cm và dài là 27cm. Còn các khối đá tròn úp phía trên giếng được làm thủng, chiều cao của khối đá là 17cm, đáy 27cm và miệng cối đá úp xuống là 37cm.
Tại sao các cụ lại lấy con số 7 thì đến giờ chúng tôi chưa lý giải được. Chỉ biết, khi lắp vào thì rất là khít. Dù không có vôi vữa, chỉ xếp các viên gạch, viên đá vào nhau nhưng đã tạo được sự vững chắc. 1.200 năm tuổi, giếng vẫn nguyên vẹn".
2 chiếc giếng cổ là hai mắt thần và là linh khí của thôn Tam Kỳ. Bởi vậy, việc lấp hai chiếc mắt thần đã vô tình động linh khí của làng. Muốn linh khí tốt, người dân phải khôi phục lại hai chiếc giếng cổ".
"Tôi mong rằng vẻ đẹp này, công trình cổ xưa và quý giá này sẽ luôn được người dân, chính quyền địa phương trân quý bảo tồn, để những lữ khách gần xa và cả con cháu đời sau càng thêm hiểu, thêm yêu quý và tự hào về truyền thống của quê hương Tam Kỳ".
Không chỉ là truyền miệng, giếng Tam Kỳ đã là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà lịch sử nổi tiếng. Qua nhiều lần khảo sát, đánh giá và dựa trên cách xây dựng, nguyên liệu, kỹ thuật gắn với một số di tích của làng, Nhà sử học Lê Văn Lan đã xác định niên đại của giếng cổ. Theo đó, giếng có từ thời nhà Đường, tức là cách đây khoảng 1200 năm. Năm 2013, khi giếng ngọc Tam được trùng tu và khánh thành, Nhà sử học Lê Văn Lan cũng đã có lời đề tự rằng đây là nơi: "Tụ Thủy như tụ Nhân".