Tô Ngọc Vân - Bậc thầy nghệ thuật tranh sơn dầu

Friday, June 3, 2011
_ Ngô Trọng Bình (TTXVN/Vietnam+) _

Bức sơn dầu đã trở nên nổi tiếng như “Thiếu nữ bên hoa huệ” của danh họa Tô Ngọc Vân. (Nguồn: Internet)Bức sơn dầu đã trở nên nổi tiếng như “Thiếu nữ bên hoa huệ” của danh họa Tô Ngọc Vân. (Nguồn: Internet)


Danh họa Tô Ngọc Vân là một trong “tứ kiệt” của hội họa hàng đầu của mỹ thuật hiện đại Việt Nam: nhất Trí (Nguyễn Gia Trí), nhì Vân (Tô Ngọc Vân), tam Lân (Nguyễn Tường Lân), tứ Cẩn (Trần Văn Cẩn).

Tô Ngọc Vân vừa là người mở đường, vừa là người đặt nền móng đầu tiên và góp nhiều công xây dựng tiền đồ vẻ vang của hội họa hiện đại Việt Nam thế kỷ 20.

Ông là một nghệ sỹ có nhiều tác phẩm nổi tiếng, một nhà giáo đã có công tổ chức, lãnh đạo Trường Mỹ thuật và giảng dạy cho nhiều thế hệ họa sỹ.

Ông là người chiến sỹ xuất sắc trên mặt trận văn hóa nghệ thuật, là tấm gương sáng của các thế hệ nghệ sỹ tạo hình Việt Nam.

Nền mỹ thuật Việt Nam tự hào có một Tô Ngọc Vân. Ông vinh dự được Bác Hồ và Nhà nước tặng bức trướng với dòng chữ vàng “Một tài năng lớn - Một nhà trí thức yêu nước chân chính.”


Một tài năng mỹ thuật lớn

Tô Ngọc Vân sinh ngày 15/12/1906, ở làng Xuân Cầu, Văn Giang, Hưng Yên, lớn lên tại phố Hàng Quạt (Hà Nội). Cha ông thuộc giai cấp tiểu tư sản thành thị, mẹ ông thuộc dòng nho nghèo ở nông thôn.

Từ năm lên 6 tuổi, do gia đình nghèo, ông phải ở với bà nội và một người cô. Có năng khiếu hội hoạ từ nhỏ, học hết năm thứ ba trường Bưởi (cấp trung học), ông quyết tâm bỏ trường Bưởi để ra ngoài tập vẽ thêm.

Say mê với nghệ thuật, ông thi đỗ vào khóa 2 Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (Khoa Sơn dầu), và là một trong số ít tài năng được chú ý khi mới nhập môn. Năm 1931, ông thi tốt nghiệp và đỗ thủ khoa của Trường.

Về kỹ thuật vẽ sơn dầu, ông đã đạt đến trình độ bậc thầy. Ngay từ khi còn là sinh viên, ông đã có 3 tác phẩm sơn dầu được trưng bày tại Triển lãm Mỹ thuật đầu tiên ở Sài Gòn tháng 12/1930 và được nhiều người hâm mộ về phong cách diễn tả như: “Ánh mặt trời”, “Bụi chuối ngoài nắng” và “Trời dịu”.

Nhiều tác phẩm sơn dầu của ông đến nay vẫn được đánh giá là những kiệt tác của nền mỹ thuật Việt Nam.

Khi cảm thụ tranh của ông, người ta dễ dàng nhận ra âm hưởng của Gauguin (Pháp) trong bức “Lễ vật”, cũng như phảng phất ảnh hưởng của bích họa Ajanta (Ấn Độ) trên bức lụa “Quà cưới” (1932) hay của hội hoạ Nhật Bản ở bức lụa “Hai em bé mục đồng”...

Qua những thể nghiệm đầu tay, những tác phẩm của ông đã sớm lộ ra tính cách của một họa sĩ duy sắc: ưa thích thể chất đẹp, say sưa với ánh sáng, với những phản quang phong phú của màu sắc nồng nàn...

Những nét riêng được trau dồi đã trở thành định hình cơ bản trong phong cách Tô Ngọc Vân vào những năm sau này.

Năm 1931 và 1932, ông gửi tranh tham gia Triển lãm Mỹ thuật tại Paris, Pháp, và được tặng Huy chương Vàng với bức tranh sơn dầu “Bức thư”. Cũng năm 1932, ông được cấp Bằng danh dự Phòng triển lãm họa sĩ Pháp và được bầu là hội viên Hội họa sĩ Pháp.

Từ năm 1935 đến 1939, ông được cử đi dạy họa ở trường Sisowath ở Phnom Penh, Campuchia. Tại đây, ông đã sáng tác nhiều bức tranh với những đặc trưng của con người, phong cảnh của đất nước Chùa Tháp.

Từ năm 1930 đến 1945, ông là giáo sư hội họa Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhiều học sinh của ông sau này đã được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước.

Vừa giảng dạy, ông vừa sáng tác mà nhiều bức sơn dầu đã trở nên nổi tiếng như “Thiếu nữ bên hoa huệ”“Thiếu nữ bên hoa huệ”
(sơn dầu-1944)
“Thiếu nữ bên hoa huệ” (sơn dầu-1944)
(sơn dầu-1943), “Buổi trưa”“Buổi trưa”
(sơn dầu-1943)
“Buổi trưa” (sơn dầu-1943)
(sơn dầu-1943), “Thiếu nữ bên hoa sen”“Thiếu nữ bên hoa sen”
(sơn dầu-1944)
“Thiếu nữ bên hoa sen” (sơn dầu-1944)
(sơn dầu-1944).

Có thể nói, giai đoạn từ 1940 đến 1944 là giai đoạn ông sáng tác nhiều tranh về thiếu nữ (ngoài những tranh trên còn có “Thiếu nữ nằm bên hoa sen”, “Thiếu nữ ngồi”, “Thiếu nữ tựa kỷ”).

Tô Ngọc Vân còn là một trong những hoạ sĩ đã viết nhiều bài báo có những nhận định sắc bén về mỹ thuật có giá trị nhằm phổ cập, quảng bá, hướng dẫn và phê bình về mỹ thuật.

Những bài trong giai đoạn này ông viết với bút danh Ái Mỹ hoặc Tô Tử: “Cái đẹp trong hội họa” (1936), “Nguyễn Gia Trí và sơn ta” (1930), “Phòng triển lãm 1940”, “Phê bình nghệ thuật vẽ sơn của hoạ sỹ Nhật” (1941), Cái Đẹp trong tranh (1942), “Những bức vẽ bằng sơn ta của Nguyễn Gia Trí” (1944).


Nghệ sỹ - chiến sỹ trọn đời vì cách mạng

Hoạ sỹ Tô Ngọc Vân không chỉ có tài năng mà còn là một nhân cách nghệ thuật lớn. Với tình yêu cái đẹp, mê say màu sắc và giá trị thẩm mỹ dân tộc, ông đã đến với nghệ thuật cách mạng như một lẽ sống để ông thực hiện ước mơ xây dựng một nền hội họa Việt Nam.

Cách mạng chuyển mình, Tô Ngọc Vân cũng chuyển biến tư tưởng, nhìn thấy con đường đi đúng đắn nhất cho một hoạ sỹ.

Về quá trình lột xác và hóa thân này, Tô Ngọc Vân đã viết:
“Sự chuyển hướng nghệ thuật, chúng tôi thấy còn khó khăn, nặng nề như trái núi. Việc không dễ dàng như người ta tưởng, như giở một bàn tay úp thành ngửa hay thay cái nhãn hiệu này thành cái nhãn hiệu kia”.

Sau đó vài năm, ông đã trở thành một Nghệ sỹ Cách mạng, một Nghệ sỹ Nhân dân, đúng theo nghĩa của nó.

Năm 1945, ông được cử làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam trên cơ sở trường bị tàn phá nặng nề. Khoá học đầu tiên được khai giảng ngày 15/11/1945.

Đầu năm 1946, ông được giới thiệu vào Bắc Bộ phủ vẽ tranh và nặn tượng Bác Hồ. Ông đã sáng tác bức tranh sơn dầu “Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ” và đây là bức tranh chân dung sơn dầu đẹp nhất của ông sáng tác về Bác.

Sau ngày Toàn quốc kháng chiến (19/12/1946), ông cùng nhiều văn nghệ sỹ lên chiến khu Việt Bắc, công tác tại Đội tuyên truyền xung phong, rồi Đội kịch Tháng Tám.

Năm 1948, ông được cử làm trưởng đoàn Văn hoá kháng chiến Việt Bắc. Cuối năm 1949, ông làm Giám đốc xưởng hoạ sơn mài Việt Nam, đồng thời là biên tập viên đầu tiên và là một trong những người sáng lập báo Văn Nghệ.

Năm 1950, ông được cử làm Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương sau này chuyển thành Trường Mỹ thuật Việt Nam.

25 sinh viên “khoá mỹ thuật kháng chiến” được sự giảng dạy trực tiếp của Tô Ngọc Vân và các họa sĩ tài danh khác đã trở thành những hoạ sỹ tên tuổi của nền mỹ thuật đương đại Việt Nam như: Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Kim Đồng, Phan Kế An, Diệp Minh Châu, Huỳnh Văn Gấm, Lê Thanh Đắc, Mai Văn Hiến, Mai Văn Nam, Quang Phòng, Trần Lưu Hậu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Đào Đức... Đào tạo lớp anh chị em họa sĩ kế cận là một đóng góp lớn lao của ông.

Những năm tháng sống trong lòng dân, cùng vui buồn với những con người chất phác, những chiến sĩ, những người lao động cần mẫn đã đưa lại cho ông cảm hứng sáng tác đề tài mới: “Hà Nội vùng lên”“Hà Nội vùng lên”
(sơn dầu-1944)
“Hà Nội vùng lên” (sơn dầu-1944)
(1948), “Giặc đến giặc đi” (1949), “Nữ y tá” (1949).

Các tác phẩm trong giai đoạn này đã báo hiệu sự chuyển biến bước đầu của ông, đề tài và đối tượng như: tiết tấu năng động, rộn ràng, chiều hướng đi vào khắc họa tính cách nhân vật...

Trong thời gian này, ông làm nhiều việc, khi thì hoá trang trình bày cho một vở sân khấu, khi thì in truyền đơn và ông tranh thủ thời gian ký hoạ cuộc sống con người, cảnh vật của núi rừng Việt Bắc dưới nhiều chất liệu như sơn mài, sơn dầu, màu nước, chì.

Tháng 4/1954, vào lúc chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt nhất, Tô Ngọc Vân đã lên đường ra mặt trận. Ông đã trực tiếp tham gia và ghi lại không khí ác liệt của chiến trường cũng như sinh hoạt thường nhật của bộ đội ta ở Điện Biên qua các tác phẩm như: “Giáo viên dân tộc Thái”, “Cho ngựa ăn”, “Qua đèo”, “Qua suối”, “Trú quân”

Ngày 17/6/1954, ông hy sinh tại Ba Khe, bên kia đèo Lũng Lô lịch sử trong lúc nghệ thuật của ông đang lớn lên mạnh mẽ. Chiếc cặp vẽ mà ông mang theo mình đi chiến dịch có nhiều ký hoạ dọc đường như: “Trú quân”, “Hành quân qua suối”, “Lên đèo”, “Qua đèo Lũng Lô”, “Chuẩn bị lên đường”.

Bức ký họa chì “Đèo Lũng Lô” là bức tranh cuối cùng trong cuộc đời sáng tác của ông.

Với những đóng góp to lớn của ông cho nền mỹ thuật cách mạng hiện đại Việt Nam, toàn bộ tác phẩm của ông được nhà nước trưng thu và lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Năm 1985, một đường phố của Thành phố Hồ Chí Minh mang tên Tô Ngọc Vân; năm 1995, một đường phố của Hà Nội mang tên Tô Ngọc Vân.

Ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1 năm 1996) về văn học nghệ thuật./.


Ngô Trọng Bình (TTXVN/Vietnam+)
28/01/2012


 ❧ ❀ ❧ 

Nguồn "VietnamPlus"

Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954) - Tác phẩm

Tác phẩm (sưu tầm trên mạng)


Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1925, Tô Ngọc Vân là sinh viên khóa 2 (1926 - 1931). Ngay từ thời còn là sinh viên, Tô Ngọc Vân đã có tranh trưng bày triển lãm bên cạnh những tác phẩm của Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Vũ Cao Đàm – những tên tuổi lớn mà về sau đã làm rạng danh nền mỹ thuật Việt Nam trên đất Pháp. Đó là vào tháng 8 năm 1930 tại Sài Gòn, với các tác phẩm về phong cảnh khá ấn tượng. Báo Phụ nữ tân văn - số 71, ra ngày 25 tháng 9 năm 1930, có những lời đánh giá xác đáng:
“Bức Ánh mặt trời của ông Vân có thể gọi là một bài ca tụng cái tài biến hoá của ánh mặt trời. Ta xem lại tranh Bụi chuối ngoài nắng cũng của ông Vân, lá chuối xanh, ánh nắng phản chiếu vào nhuộm thành màu vàng ối, mặt người rám nắng, mặt trời chiếu vào đã hoá ra hồng hồng pha trộn với sắc lửa. Một cảnh chói lọi mà vẫn dịu dàng, nhìn không chán mắt. Bức Trời dịu, được vẽ với bút pháp táo bạo, tự nhiên mà trên cả bức tranh hình như ta thấy có luồng không khí trong sạch, mát mẻ bao bọc cả xung quanh”.
Ông hiệu trưởng người Pháp Victor Tardieu (1867 - 1937, vốn rất tiết kiệm lời khen, cũng đã từng khen ngợi Tô Ngọc Vân.
Những năm trên ghế nhà trường, ông tiếp nhận những kiến thức tạo hình mới với sự hăng say không biết mệt mỏi.
LES JONQUES VIETNAMIENNES


Phương pháp tạo hình mới, đặc biệt là chất liệu sơn dầu, có sức cuốn hút mạnh mẽ, bởi ông nhận thức nghệ thuật của môn này đã giúp diễn đạt được những tình cảm rạo rực, xao xuyến trong tâm hồn của nghệ sĩ đứng trước cảnh vật. Với Bức thư (1931), Tô Ngọc Vân đã tỏ thiện cảm với những cô gái lao động nền nã bên khung cửi qua những tình cảm kín đáo, đoan trang.
Đó là sự dè dặt của một khuynh hướng. Sau này Tô Ngọc Vân thể hiện sâu đậm hơn người phụ nữ với sự đồng cảm trân trọng. Đây là lúc họa sĩ vẽ nhiều về phong cảnh đẹp bằng sơn dầu như ánh Mặt trời, Bụi chuối ngoài nắng, Trời dịu...
Thành công của họa sĩ không chỉ ở trong nước mà còn góp phần mang tiếng nói của nghệ thuật Việt Nam đến với nhiều nước. Năm 1931, tranh sơn dầu Bức thư được tặng bằng danh dự ở Triển lãm hội họa Pháp và được thưởng huy chương vàng ở Triển lãm thuộc địa tại Paris.

Năm 1931, sau khi tốt nghiệp, ông cộng tác với báo Nhân loại, Phong hóa, Ngày nay và cuối cùng là Thanh Nghị với bút danh Tô Tử, Ái Mỹ. Năm 1935, ông được Pháp bổ dụng đi dạy học ở Phnôm Pênh (Campuchia). Ở đây, ngoài giờ giảng dạy, ông đi vẽ phong cảnh và sư sãi.
1 Thuyền sông Hương (1935) CHRISTIE'S
2 Angkor Original (1935).
4 Sans Titre Original

Năm 1938, Tô Ngọc Vân trở về Hà Nội dạy ở Trường trung học Bưởi. Đến năm 1939, ông là giảng viên Trường Cao đẳng mỹ thuật Đông Dương. Đề tài chủ yếu trong những sáng tác trước cách mạng của Tô Ngọc Vân là người đàn bà thành thị.
Từ tác phẩm Dưới bóng nắng vẽ người thiếu nữ mơ màng, với cái nhìn lơ đãng dưới hoa, nắng bên bờ ao, đến người thiếu nữ bâng khuâng - tranh Tô Ngọc Vân không gợi lên một chân dung nhân vật cụ thể, chỉ như biểu tượng về sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ.

Kiệt tác "Thiếu nữ bên hoa huệ" được Tô Ngọc Vân sáng tác vào năm 1943, khi ông đang giảng dạy tại Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. "Thiếu nữ bên hoa huệ" mô tả cảnh một thiếu nữ mặc áo dài trắng đang nghiêng đầu một cách đầy duyên dáng, khơi gợi về phía lọ hoa huệ trắng. Hình dáng cô gái kết hợp với những chi tiết và màu sắc xung quanh tạo thành một hình khối giản dị, toát lên một nét buồn dịu nhẹ.

Với bố cục chặt chẽ, hoàn hảo, cách sử dụng màu điêu luyện, "Thiếu nữ bên hoa huệ" đã thể hiện được cái mềm mại gợi cảm ở đường cong trên đùi thiếu nữ và nhất là cách dùng dao gạt bớt lớp sơn phía trên để lộ ra lớp sơn hồng bên dưới tạo nên sắc ửng hồng trên má thiếu nữ… Ngay trong lần triển lãm đầu tiên tại Hà Nội, bức họa đã được nhiều người chú ý. Năm 1945, "Thiếu nữ bên hoa huệ" được trưng bày tại nhà Khai Trí Tiến Đức (Hà Nội) cùng với tranh của Nguyễn Đỗ Cung, Lê Văn Đệ… Bác Hồ đã đến xem triển lãm này.
Ở Tô Ngọc Vân, hội họa Tây Âu tuy đã đi vào lý trí nhưng lại thông qua tâm hồn dân tộc, chính điều này đã làm cho tranh sơn dầu của ông có màu sắc riêng, đạt đến độ ổn định. Ông đã sớm đoạt Huy chương Vàng- triển lãm thuộc địa tại Paris với bức sơn dầu "Bức thư". Tiếp theo đó là một loạt các sáng tác khác, cho đến nay đã thuộc vào kho báu nghệ thuật hội họa Việt Nam hiện đại: Thiếu nữ bên hoa sen, Thiếu nữ bên hoa huệ, Gia đình Việt Nam, Duới bóng nắng, Buổi trưa, Hai thiếu nữ và em bé...

8 Chân dung thiếu nữ.
9 Thiếu nữ ngắm tranh (1938)







10 Buổi trưa (1936).
11 Thiếu nữ bên hoa sen (1944).








15
16 Chị cốt cán.
17
18 Hai chiến sĩ (màu nước - 1949).

19 Đốt đuốc đi học. 1954, thuốc nước. Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam








Cách mạng tháng Tám 1945 đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp của ông, mở đầu là bức “Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ Phủ” (1946). Đầu năm 1946 được Hội văn hóa Cứu quốc giới thiệu, ông cùng các họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhà điêu khắc Nguyễn Thị Kim vào Bắc Bộ phủ vẽ tranh và nặn tượng Bác. Tác phẩm “Hồ Chủ Tịch làm việc tại Bắc Bộ Phủ” đã được trưng bày tại triển lãm mỹ thuật toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội. Đây là bức chân dung sơn dầu đẹp nhất của Tô Ngọc Vân sáng tác trong thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Một bức tranh giản dị, trang nghiêm mà không kém phần tráng lệ huy hoàng. Tô Ngọc Vân bố cục hình Bác khoan thai và đĩnh đạc, choán cả diện tích nền tranh, ánh sáng ngang, rực lên, làm rõ một không khí mộc mạc mà vô cùng sinh động.

20 Bác Hồ làm việc ở chiến khu - Tranh in và khắc. Eye Art Gallery
21 Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ.
22 Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ. 1946, sơn dầu. Bảo tàng Mĩ thuật Việt Nam







Những bức tranh cổ động lớn: Phá xiềng; Việt Nam được giải phóng; (hai tác phẩm được đánh giá cao) Hà Nội vùng đứng lên hòa nhập một cách hữu cơ với không khí thời đại, tiêu biểu cho sự chuyển biến lớn lao trong tư tưởng của thế hệ họa sĩ lúc đó.
Nổi danh là họa sĩ chuyên vẽ phụ nữ đẹp theo quan niệm tiểu tư sản (Thiếu nữ bên hoa huệ; Hai chị em gái), nhưng hầu như ngay lập tức, xuất hiện trên giá vẽ của Tô Ngọc Vân những hình ảnh, những khuôn mặt phụ nữ Việt Nam dọc đường kháng chiến, với quan niệm về cái đẹp thay đổi theo nhân sinh quan thời đại.

Ông được Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cử làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam. Trường Cao đẳng Mỹ thuật là một trong 6 trường Đại học và Cao đẳng đầu tiên của nền giáo dục cách mạng, trụ sở trường được đặt tại phố Lò Đúc, Hà Nội. Khóa đầu tiên khai giảng ngày 15-11-1945, trong điều kiện trường sở bị thiếu thốn nhưng ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao (Khoá học đầu tiên đã tồn tại đến thời điểm Toàn quốc kháng chiến. Tô Ngọc Vân đã cùng nhiều văn nghệ sĩ lên chiến khu tham gia kháng chiến. Năm 1950, Trường Cao đẳng Mỹ thuật tiếp tục khai giảng với khoá học 21 sinh viên. Trong điều kiện kháng chiến gian khổ, họa sĩ Tô Ngọc Vân đã cùng các giảng viên Trường Mỹ thuật Kháng chiến luôn cố gắng đảm bảo chất lượng giáo dục và đời sống cho các sinh viên. Từ phương thức “Học trong cuộc sống”, Trường đã tạo ra một chuyển biến quan trọng trong sinh viên là đưa nghệ thuật trở về với cuộc sống thường nhật, phục vụ công cuộc kháng chiến của dân tộc). Cùng với việc mở trường, ông tham gia sáng tác và trưng bày tác phẩm trong những triển lãm mỹ thuật đầu tiên của Cách mạng.
Những ngày ở Việt Bắc ông làm nhiều việc: Công tác tại Đội tuyên truyền xung phong, vẽ tranh, kẻ khẩu hiệu trên những mảng tường, sau đó chuyển sang công tác làm họa sĩ tại Đội kịch Tháng Tám.
Năm 1947, Tô Ngọc Vân là Trưởng đoàn Văn hóa Cứu quốc ở khu Mười. Ông cũng đồng thời là Giám đốc xưởng Mỹ thuật, Hiệu trưởng trường Mỹ thuật kháng chiến. Tô Ngọc Vân đã tổ chức một xưởng khắc và in tranh tuyên truyền trên một quả đồi lớn ở làng Xuân áng, Phú Thọ. Ông cùng các văn nghệ sĩ trong đoàn kháng chiến: Thế Lữ, Bùi Huy Phồn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khang... và các đồng nghiệp và học trò của mình đi khắp các ngả đường chiến dịch, với tấm lòng một người yêu nước và lòng khát khao sáng tác của một nghệ sĩ lớn. Tô Ngọc Vân luôn luôn có những cuộc tranh luận thẳng thắn về nghệ thuật, không phải chỉ một lần. Lúc Tô Ngọc Vân đang nổi tiếng về tranh sơn dầu chứ chưa làm sơn mài bao giờ, nhưng ông vẫn bênh vực cho chất liệu theo ông là đậm chất dân tộc khẳng định những ưu điểm quý giá của sơn mài và tự mình sáng tác tranh Nhã Nam tiêu thổ kháng chiến để chứng minh.

Năm 1948, ông làm đoàn trưởng đoàn Văn hoá kháng chiến, rồi làm biên tập viên đầu tiên và là người sáng lập ra Báo Văn nghệ, là tác giả của một số bài viết như: “Bây giờ mới có hội họa Việt Nam”; “Tranh tuyên truyền với hội họa”, “Học hay không học”, … sau đó làm giám đốc Xưởng họa sơn mài Việt Nam.
Tại Đại hội văn hóa toàn quốc (1948), ông được bầu làm ủy viên Ban chuyên ngành Mỹ thuật.
Ông luôn tranh thủ thời gian ký họa cuộc sống con người, cảnh vật của núi rừng Việt Bắc. Thời kỳ này ông sáng tác nhiều tranh, đáng chú ý là các bức khắc gỗ: Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ, Hà Nội vùng đứng lên (1948), Bác Hồ với thiếu nhi (1951) và các bức tranh sơn mài: Thiếu nữ, Khi giặc đi qua, Nghỉ chân bên đồi, Nữ cứu thương (1948), Chạy giặc trong rừng (1949). Loạt tranh ký họa về Tây Bắc bằng chì, bút sắt, màu nước về bộ đội, dân công, nông dân, ta có thể kể tới các bức Hai chiến sĩ, Chân dung hai bà lão nông dân, Bộ đội trong hang, Ruộng bậc thang, Một bản ở Tây Bắc (1951). Loạt ký họa màu nước, chì than về nông dân vào năm 1953 tiêu biểu như: Ông lão cầm đuốc đi học, Bủ đường đi học, Tôi có ý kiến, Con trâu quả thực;.... Loạt ký họa về bộ đội từ năm 1949 đến 1954 bằng chất liệu chì, màu nước, bút sắt, bột màu, sơn dầu, tiêu biểu như Hai chiến sĩ, Sinh hoạt trong hang, Xưởng quân giới... Cùng với nhiều họa sĩ khác, các hoạt động đi thực tế sáng tác, triển lãm của họ đã làm cho Việt Bắc không những là thủ đô kháng chiến mà còn là thủ đô của mỹ thuật trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Cuối năm 1949, họa sĩ Tô Ngọc Vân được giao làm Giám đốc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Trung ương (sau chuyển thành Trường mỹ thuật Việt Nam) tại xóm Chòi, Yên Dã thuộc huyện Đại Từ, Thái Nguyên. Cùng giảng dạy tại nhà trường có các danh họa Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Sĩ Ngọc. Lớp sinh viên khóa kháng chiến với hơn 20 người được sự dạy dỗ trực tiếp của Tô Ngọc Vân và các họa sĩ tài danh khác đã trở thành những họa sĩ tên tuổi của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam, ta có thể kể tới các họa sĩ Trần Lưu Hậu, Lưu Công Nhân, Trọng Kiệm, Đào Đức, Nguyễn Thế Vị, Mai Long, Lê Huy Hòa, Lê Lam... Ông thường nhắc nhở học sinh học kết hợp với hành và bản thân ông cũng gương mẫu thực hiện. Những chuyến đi thực tế cùng sinh viên, hoặc đi “ba cùng” trong cải cách ruộng đất đã giúp ông sáng tác nhiều tác phẩm mang dấu ấn của cuộc sống nông thôn, miền núi, quân đội...

Tháng 4-1954, ông được lệnh lên đường đi Điện Biên Phủ. Trên đường ra trận, ông đã vẽ nhiều ký họa về bộ đội, dân công, phong cảnh và con người các dân tộc Tây Bắc: Giáo viên người Thái, Cô gái dân tộc Mèo, Ba cô gái Thái, Cho ngựa ăn. Ngày 17-6-1954 ông đã hy sinh tại cây số 41 Ba Khe, khi ông đã vượt qua đèo Lũng Lô. Chiếc cặp vẽ mà ông đem theo đi chiến dịch đã có nhiều ký họa dọc đường như: Trú quân, Hành quân qua suối, Lên đèo, Qua đèo Lũng Lô, Chuẩn bị lên đường. Đặc biệt trong đó có bức ký họa chì "Đèo Lũng Lô "được ghi ở góc ngày 15-6-1954, có thể đó là bức tranh cuối cùng trong cuộc đời sáng tác của ông. Danh họa Tô Ngọc Vân đã hy sinh trong khi đang sáng tác tại chiến trường. Lịch sử dân tộc và lịch sử Mỹ thuật ghi danh ông bởi nhân cách tỏa sáng của một họa sĩ bậc thầy và người chiến sĩ xung kích trên mặt trận tư tưởng trong kháng chiến chống Pháp năm xưa.

25 Bộ đội và dân công nghỉ trên đồi - Sơn mài, 1953.
26 Đèo Lũng Lô.
27 Xưởng quân giới, 1951.
28 Bừa trên đồi - Tranh bột màu - 1953





30 Ba cô gái Thái - Ký hoạ.
31 “Trú quân” – Ký họa (1954)
32 Con trâu quả thực (ký hoạ màu nước - 1954).















43 Cho ngựa ăn.













61 Kí họa bút chì.
62
63
64 Đi học đêm


65
66
67
68
69 Giáo viên người Thái




70
71
72 Hà Nội vùng đứng lên (Khắc gỗ, 1946)
73 Hà Nội vùng đứng lên
74







75
76








Họa sĩ Tô Ngọc Vân tốt nghiệp Trường cao đẳng mỹ thuật năm 1931. Dù nhiều người biết tiếng, ông vẫn không tìm được chỗ làm, phải sống thiếu thốn bằng nghề dạy học, vẽ tranh thuê, trình bày và minh họa cho một số tòa báo ở Hà Nội (khi minh họa trên sách báo ông thường ký tên Ái Mỹ, Tô Tử).
1Bản “Số đỏ” có bìa do họa sỹ Tô Ngọc Vân trình bày, NXB Minh Đức ấn hành từ năm 1946
2 LỬA THIÊNG - Tập thơ đầu của Huy Cận. Đời Nay xuất bản năm 1940. Hoạ sĩ Tô Ngọc Vân trình bày bìa.
3 BỨC TRANH QUÊ - Tập thơ đầu của nữ sĩ Anh Thơ.
Đời Nay xuất bản năm 1941.
Có 4 tranh phụ bản của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân







"Tú bà ghé lại thong dong dặn dò". 1942. Khắc gỗ màu. 20x28cm Tranh minh họa cho Tập văn hóa Kỷ niệm 9/10/1942 tại Hà Nội







Tô Ngọc Vân là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã sớm vẽ tem ngay từ thời Pháp thuộc (Postes Indochine). Mẫu tem Apsara được ông thiết kế từ nguồn tư liệu của những chuyến đi vẽ, sáng tác ở khu đền Ăngkor Vát, Ăngkor Thom (Campuchia). Hình tượng chính của con tem là nữ thần Apsara, một trong hàng ngàn tượng vũ nữ điêu khắc nổi trên những vách đền đài của nền văn hoá cổ Kh'mer.

Tem Apsara vẽ nét đơn giản, một màu, giữ được bản sắc cổ kính của điêu khắc đá đình chùa miếu mạo Á Đông. Mẫu tem thể hiện nét đặc trưng nghệ thuật Kh'mer với những nét hoa văn mây, lá, đầu rắn... uốn lượn, cách điệu theo lối cổ điển... hình lá đề - mô típ của Phật giáo.

Tem Apsara được in thành một bộ 5 con có 5 giá từ 50c đến 2$ và 5 màu khác nhau: nâu, tím, xanh dương, xanh lá, đỏ; in tại Paris, mang tiêu đề "Postes Indochine" và "RF", phát hành vào những năm 1932 đến năm 1941. Trên mỗi con tem ghi rõ tên tác giả: Tô Ngọc Vân, H.CHEFFER. Tem Apsara được lưu hành rộng trên toàn cõi Đông Dương.

Tem Apsara của danh hoạ Tô Ngọc Vân là mẫu tem thứ 23 của Bưu điện Đông Dương kể từ khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng là tem duy nhất ông góp vào nền nghệ thuật tem thư ở Việt Nam. Tem Apsara của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân còn là biểu hiện sự giao lưu văn hoá lâu đời của hai dân tộc Việt và Kh'mer.

1 Tem Apsara - Bộ tem bưu chính Đông Dương do Tô Ngọc Vân thiết kế.
2 Hai tác phẩm nổi tiếng của Tô Ngọc Vân trên tem bưu chính Việt Nam
3 Phong bì ngày đầu tiên của bộ tem "Hội họa Việt Nam" phát hành năm 1995



Tác phẩm của Tô Ngọc Vân đã được triển lãm nhiều lần trong nước và trên thế giới, được hoan nghênh và đánh giá rất cao. Do hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, nhiều tác phẩm đẹp và có giá trị đã bị thất lạc, thời gian phá huỷ. Số còn lại, cơ bản là ký họa và một số ít tác phẩm tranh sơn dầu, sơn mài đang còn lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.
Cả cuộc đời Tô Ngọc Vân đã dành cho hội họa, tác phẩm để lại của ông trở thành tài sản vô giá của nền mỹ thuật Việt Nam và mãi mãi được trân trọng, giữ gìn.




Trên trang web "belleindochine" đã giới thiệu một ấn phẩm có tựa đề "Les marchands ambulants et les cris de la rue à Hanoi" (Hàng rong và tiếng rao trên đường phố Hà Nội)...đây là một ấn phẩm quý còn duy nhất một, hiện đang được lưu giữ trong thư viện EFEO (Ecole française d'Extrême-orient) tại Paris.

Ấn phẩm độc đáo này là kết quả được tạo ra do sự góp sức của một số sinh viên Việt Nam của Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương thực hiện, với sự cố vấn của F. de Féniz. Hơn 20 trang ghi lại những họa phẩm giới thiệu về một số gánh hàng rong tại Hà Nội trong thập niên 1920. Những bản vẽ trắng đen và mầu, rất sống động. Nhưng hay nhất là những lời giới thiệu và chú thích của de Féniz, ghi chú rõ món hàng được bán và âm điệu của tiếng rao. Ông đã ghi chú rõ những tiếng rao trầm bổng nọ bằng những nốt nhạc, ngay dưới mỗi bản vẽ của từng nhân vật và hàng đặc trưng được bán.
...
Ấn phẩm được in năm 1929, kích thước 39x20cm... có chữ kỹ của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, Mai Trung Thứ...



     Theo Diễn đàn Viet Stamp



Mời xem thêm: Tô Ngọc Vân – tấm gương phản chiếu xã hội Việt Nam, 1906 – 1954





Mời xem tại Blog Danh họa Tô Ngọc Vân