II. ĐỒNG TỈNH – HOA CẦU NGÀN NĂM VĂN VẬT - PHONG TỤC TẬP QUÁN

Monday, March 18, 2013

PHONG TỤC TẬP QUÁN



Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết

A. ẨM THỰC TRANG PHỤC



Ăn uống là nhu cầu thiết yếu của bất cứ động vật sống nào, loài người cũng vậy, không phân biệt màu da, sắc tộc, chính kiến, tôn giáo, tín ngưỡng tất cả hoạt động sống tồn tại, duy trì được là nhờ vào khả năng hấp thụ và chuyển hoá thức ăn thành vi chất dinh dưỡng trong cơ thể.

Mỗi cộng đồng dân tộc, tuỳ theo hoàn cảnh địa lí, môi trường sinh thái, truyền thống lịch sử mà có các sở thích chế biến thức ăn khác nhau, đồ uống khác nhau, những quan niệm về ăn uống dần dần được hình thành cùng thời gian năm tháng trở thành những tập quán, phong tục ăn uống khác nhau.

Ở ĐỒNG TỈNH với sự thiên di của dân cư từ nhiều vùng khác nhau đến, khiến phong tục ăn uống kiêng khem mỗi vùng đều có những điểm khác biệt, mang dấu ấn đặc trưng riêng của vùng đất mình sinh ra, nhưng tựu chung lại các sản vật như lúa gạo, khoai mì, thịt cá, rau xanh các loại vẫn là món ăn chủ đạo trong bữa cơm thường ngày của tất cả mọi người.


Cơm tẻ là món chủ đạo không thể thiếu của các bữa ăn trong ngày. Cơm tẻ được thổi nấu từ nhiều loại gạo tẻ trồng trên ruộng nước.

Cơm nếp, xôi chế biến từ gạo nếp dùng trong các dịp tế lễ sóc vọng, giỗ chạp, cưới xin, ma chay.

Rau xanh được coi là nguồn cung cấp các laọi khoáng chất, Vi ta min A, B, C… cho cơ thể con người được dùng thường xuyên trong các bữa ăn, chế biến thành nhiều món thích hợp khẩu vị và khẩu phần ăn của các thành viên gia đình trong bữa cơm.

Thịt, cá, các loại thực vật có nguồn đạm cao là nguồn cung cấp chất bổ dưỡng cho bữa ăn cũng có mặt trong bữa cơm mọi gia đình.

Mắm muối gia vị, là nguồn cung cấp các chất muối khoáng, đạm tinh chất cho cơ thể. Được dùng kết hợp để chế biến các món ăn thường ngày.

Dân dã sử dụng đồ uống như một nhu cầu giải khát hàng ngày trực tiếp bù cho cơ thể lượng nước thiếu hụt.

Nước uống có nước lá vối, nước lá chè tươi hoặc phơi khô, khi uống đun sôi hoặc ngâm vào nước sôi trong bình pha, sau đó rót ra uống khi khát.

Rượu trắng (rượu ta) là đồ uống thông dụng của các đấng nam nhi và cả một số nữ nhi thích “cảm giác bồng bềnh”, được chế biến từ gạo nếp (rượu nếp, rượu cái), hoặc gạo tẻ (rượu gạo), hoặc các loại củ khoai sắn, quả mơ mận (rượu sắn, rượu mơ) theo cách ủ lên men và chiết xuất bằng thuỷ phân. Được dùng làm đồ uống trong các bữa ăn với quan niệm dân gian “uống chút rượu cho ấm lòng”, bữa tiệc chiêu đãi, hoặc tiếp đón khách khứa thăm viếng trong các dịp tế lễ, giỗ chạp, hiếu hỉ” không rượu không thành lễ”.


Rượu cồn (rượu ngoại) có nhiều chủng loại, đáp ứng đủ mọi sở thích của mọi người tiêu dùng, có đặc điểm được sản xuất theo lối công nghiệp với công nghệ cao, độ cồn thấp, giá thành tất nhiên cũng cao hơn rất nhiều so với rượu ta, được một số người tiêu dùng thuộc tầng lớp dân cư khá giả, có điều kiện kinh tế sử dụng trong các dịp lễ tết.

Bia chai và bia hơi được sản xuất từ lúa mạch, theo công nghệ lên men vi phân và chưng cất theo công nghệ riêng được nhiều người ưa thích, sử dụng như đồ uống giải khát hoặc thay rượu trong các bữa ăn, các cuộc gặp gỡ hội hè, các đám hiếu hỉ.

Trang phục truyền thống
Tương tự như phong tục tập quán ăn uống, quần áo cũng có rất nhiều kiểu dáng, màu sắc, chất liệu, và hoa văn trang trí trên trang phục mang nét riêng biệt, làm nên diện mạo và bản sắc riêng của mỗi vùng, các loại trang phục truyền thống này hiện nay ít được sử dụng, đa phần chỉ được mọi người mặc vào các dịp lễ tết, hội hè.

Trang phục phổ thông
Là các loại trang phục may sắn, đa dạng kiểu dáng, màu sắc phong phú, có nguồn cung cấp từ các cơ sở may lớn trong nước như Việt Tiến, May 10, hoặc các thương hiệu sản phẩm may mặc nổi tiếng như levis… v.v., được nhiều người ưa chuộng bất kể dân tộc thiểu số nào, đặc biệt tầng lớp thanh niên, các loại trang phục may sẵn luôn dành được sự quan tâm hàng đầu của họ mỗi khi có dịp đi chợ mua sắm.

Đầu tóc, răng lợi
“Cái răng, cái tóc là góc con người” là nét văn hoá truyền thống Việt Nam, luôn quan tâm và đề cao hình thức của con người qua mái tóc, khi nhắc đến “đầu bù tóc rối” là mọi người liên tưởng ngay đến hành trạng của người cầu bơ, cầu bất, lang thang đầu đường xó chợ, “đầu bù, răng bựa” dùng để chỉ hạng người vô tích sự, ham ăn, ham chơi, lười nhác lao động, truyền thống đàn ông con trai cắt tóc ngắn, đàn bà phụ nữ nuôi tóc dài đã thành nét đẹp văn minh, văn hoá truyền thống.

Tục mài răng, nhuộm răng chỉ tồn tại trong một số lớp người thuộc thế hệ sinh trước năm 1945, đến nay không còn tồn tại.

Tuỳ theo địa hình cư trú của mỗi gia đình mà kết cấu nhà ở có những điểm khác nhau, nói chung kết cấu nhà ở của người Việt ngày nay đều chú trọng đến tính tương đồng, tương thích cùng môi trường sinh thái, ít phân biệt theo truyền thống của từng dân tộc.

Các kiểu nhà vách đất nện, mái lợp lá hoặc các vật liệu dễ kiếm có sẵn trong môi trường tự nhiên xung quanh.

Hiện nay đa phần các ngôi nhà đều được xây dựng theo lối bê tông hoá, mái bằng đổ bê tông cốt thép, nền lát đá, gạch hoa, tường gạch đỏ, hoặc gạch xỉ, nhà cửa được xây dựng theo lối mới, cột bê tông chịu lực, tường che, cửa gỗ kính, hoặc cửa xếp sắt. Cầu thang nối các tầng và lan can trang trí được dùng bằng gỗ tiện trang trí hoặc loại thép trắng chống rỉ, rất phù hợp với dải khí hậu nóng ẩm của nước ta.



B. HÔN LỄ - CƯỚI HỎI - SINH NỞ - MỪNG THỌ - MA CHAY



Hôn nhân là việc trọng đại của một đời người, ngay từ thủa xa xưa chịu ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến việc chọn vợ gả chồng cho con cái do cha mẹ, hoặc các huynh trưởng quyết định, vấn đề yêu đương tìm hiểu và tự do hôn nhân không hề tồn tại hay là có khái niệm trong giai đoạn đó.
Ngày nay, hôn nhân đã được sự bảo trợ của pháp luật, và tục đa thê, đa phu cũng đã bị xoá bỏ thay vào đó là luật hôn nhân với quy định của pháp luật chỉ cho phép một vợ, một chồng.
Các cặp trai gái đến tuổi trưởng thành, yêu đương tìm hiểu nhau được tự do cởi mở tâm tình, có quyền lựa chọn cho mình người bạn đời mà cô ta (anh ta) cảm thấy gắn bó nhất, yêu quý nhất. Sau khi đã thống nhất chấp nhận xây dựng cuộc sống gia đình với nhau, hai người sẽ từng bước ra mắt và xin phép bố mẹ hai bên để tiến tới mục đích chung sống lâu dài với nhau, cuộc hôn nhân chính thức được tiến hành.

Các lễ thức của việc hôn nhân
Khi được pháp luật thừa nhận là có đủ điều kiện và năng lực đáp ứng những quy định, quy chế pháp luật hiện hành để đi tới mục đích hôn nhân của đôi trai gái qua việc cấp giấy “đăng ký kết hôn” cho đôi uyên ương của Uỷ ban nhân dân phường, xã nơi cô dâu hoặc chú rể cư trú. Sau đó hai bên gia đình đại diện là bố mẹ cô dâu chú rể và các bậc phụ huynh trong tộc họ bắt đầu tiến hành bàn bạc và thực hiện lần lượt các nghi thức, vai trò chủ yếu thuộc về nhà trai:

Lễ chạm ngõ
Nhà trai đưa lễ vật đến nhà gái thông thường là trầu cau, rượu, trà để ước hẹn với nhau sẽ vun đắp cho đôi trẻ lên vợ nên chồng. Nhà gái nhận lễ sẽ đem cúng gia tiên và chia biếu các vị tôn trưởng trong tộc họ.
Từ lễ chạm ngõ cho tới lễ ăn hỏi không giới hạn thời gian, tuỳ theo điều kiện thực tế của đôi trai gái như kinh tế, công ăn việc làm, tang ma trong nội tộc. Cũng có nhiều trường hợp sau khi dạm ngõ, vì lí do nào đó mà không thể thực hiện được các bước tiếp theo nữa thì hôn ước coi như bị xoá bỏ.

Lễ ăn hỏi
Nhà trai đưa lễ vật đến nhà gái để xin xác định ngày làm lễ thành hôn cho đôi trẻ, lễ vật không thể thiếu là buồng cau, cơi trầu, hoa quả, bánh kẹo, rượu bia, thuốc lá, trà…vv, lễ vật đặt trong những quả ơn son thếp vàng và những mâm son phủ lụa đỏ (lụa điều), tuỳ theo từng lễ ít nhất là 3 mâm, nhiều có thể lên tới 9 hoặc 11 mâm quả.
Nhà gái tiếp nhận lễ vật, bày cúng gia tiên, mỗi thứ đồ lễ đều san bớt lại một phần trao lại cho nhà trai (gọi là lại quả) phần lễ nhận sẽ được chia đều cho họ hàng, bạn bè thân thuộc, hàng xóm láng giềng gọi là quà báo hỷ của nhà gái.


Lễ cưới
Đối với nhà trai là lễ đón dâu, nhà gái là lễ tiễn dâu
Trước giờ đón dâu, hoặc trước khi đoàn đón dâu nhà trai đến cổng ngõ nhà gái, phải cử ra một người phụ nữ đứng tuổi có thể là mẹ chú rể đại diện cho đoàn rước dâu cùng vài ba bà khác đem cơi trầu, trong có đặt tờ giấy bạc mới (tiền mới) mang tính chất tượng trưng không tính đến giá trị thực của đồng tiền, đến xin dâu, sau đó chú rể và đoàn rước dâu đúng giờ tốt đã định khởi hành đến nhà gái đón dâu về. Tại nhà gái, cô dâu và chú rể mới làm lễ trước bàn thờ gia tiên cẩn cáo cùng tiên tổ về chứng giám nhận mặt con cháu và coi chú rể đã chính thức là một thành viên trong gia đình.
Sau lễ gia tiên, cô dâu làm lễ vái chào bố mẹ, người thân, họ hàng nhà gái, cùng đoàn phù dâu lên xe hoa về nhà chồng.
Tại nhà trai, khi đoàn rước dâu về đến cổng thì mẹ chú rể tạm thời lánh mặt sang nhà hàng xóm, sau khi đôi vợ chồng trẻ làm xong các thủ tục lễ gia tiên trước bàn thờ tổ tông, cô dâu chú rể về vị trí chủ toạ nhận lời chúc phúc của bạn bè và mọi người khách dự tiệc cưới, người chủ hôn khi này có vai trò hoạt náo, mua vui cổ động mọi người múa hát văn nghệ chào mừng cho đôi trẻ bên nhau đến đầu bạc răng long.

Lễ lại mặt
Sau ba ngày tổ chức đám cưới, sang ngày thứ tư nhà trai sắm sửa cau trầu, xôi gà cho đôi vợ chồng đem sang nhà gái làm lễ cúng gia tiên, gọi lễ này là lễ lại mặt (tứ hỷ).
Ngày nay thường là ngay sau ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ đã đưa nhau về bên nhà vợ làm lễ cúng gia tiên rồi bày cỗ ăn mừng, đó cũng là lại mặt nhưng là lễ (nhị hỷ).

Sau lễ thành hôn, cả hai bên gia đình nội ngoại của cô dâu, chú rể đều mong ngóng “tin mừng” từ phía cô dâu tức tin cô dâu báo có thai. Đó là ước vọng chính đáng của ý thức duy trì nòi giống, truyền lưu dòng dõi huyết thống, mong có người nối tiếp nghiệp nhà, và đặc biệt điều này mang đậm nét văn hoá của nền văn minh nông nghiệp “trẻ cậy cha, già cậy con”.

Mang thai
theo cách tính toán cổ truyền từ khi có tin mừng cho tới khi sinh nở là chín tháng mười ngày trong khoảng thời gian gần 300 ngày này người phụ nữ mang thai phải thực hiện chế độ kiêng cữ chặt chẽ, mọi người trong gia đình đều tự ý thức tạo điều kiện chăm sóc thuận lợi và thoải mái nhất cho cô con dâu đang mang bầu.

Sinh nở
Thông thường thai nhi đến kỳ, đủ ngày đủ tháng thì người mẹ trở dạ sinh nở, có nơi đón bà mụ người đỡ đẻ về tận nhà để giúp sản phụ sinh nở mẹ tròn con vuông, có dân tộc người phụ nữ phải tự xoay sở vật lộn “vượt cạn” một mình, hiện nay việc sinh nở và chăm sóc bà mẹ mang thai được các trung tâm y tế cơ sở đảm nhiệm với các gói đẻ sạch, chăm sóc và dành cho thai nhi các điều kiện chăm sóc thuận lợi tối ưu.

Đặt tên cho trẻ
Khi mới sinh con, mọi người đều tránh đặt tên ngay mà thường dùng các tên gọi tạm thời như cún, vện, cu, hĩm để gọi đứa bé, tuỳ theo giới tính của trẻ mà gọi tên. Sau khi đầy tháng hoặc đầy năm, tuỳ từng nơi tổ chức lễ đặt tên chính thức cho con trẻ. Ngày xưa tên thường được ông nội hoặc bố đứa trẻ đặt, để tránh trùng tên với ông bà, cụ kỵ tiên tổ nội tộc nhà chồng, thứ nữa là tránh đặt tên trùng với tên thành hoàng làng, thần làng, tiếp đến phải tránh trùng tên với các bậc cao niên, anh em họ hàng nội ngoại và những người già cả trong làng nơi gia đình nhà chồng định cư sinh sống.
Ngày nay có nhiều trường hợp đặt tên ngay sau khi đứa trẻ ra đời, để tiện việc làm giấy khai sinh cho trẻ, cha mẹ trẻ đỡ phải tốn nhiều công đi lại làm thủ tục khai sinh và đăng ký khai sinh. Tên khai sinh này gắn bó suốt đời với đứa trẻ, là tên gọi hợp pháp được sử dụng trong tất cả các giấy tờ chứng minh nhân thân, có tư cách pháp nhân trong mọi giao dịch, giao tiếp với xã hội, được pháp luật gián tiếp bảo hộ.


Đi học
Nhiều dòng họ chú trọng tới việc học hành của trẻ, tự đặt ra những lệ tục như hàng năm tổ chức buổi họp mặt đông đủ mọi người trong tôn tộc và làm lễ ghi danh những đứa trẻ đến tuổi đi học vào sổ khuyến học của dòng họ, kết hợp tổ chức tuyên dương thành tích và trao quà thưởng cho những đứa trẻ có thành tích xuất sắc trong học tập.

Mừng tuổi
Thường vào dịp đầu xuân hàng năm, xuất phát từ lệ coi trọng tuổi trời, đứa trẻ sinh ra dù vào dịp cuối năm hoặc trước giao thừa vẫn được tính thêm một tuổi khi bước vào năm mới. Vào dịp tết Nguyên Đán đứa trẻ nào cũng náo nức chờ đợi được nhận tiền mừng tuổi của người lớn, số tiền mừng tuổi thường được gói trong phong bao đỏ hoặc hồng điều là những tờ giấy bạc mới kèm theo món tiền mừng tuổi này là những câu chúc phúc cho đứa trẻ hay ăn chóng lớn, học hành tiến bộ giỏi giang.
Với những người cao tuổi, con cháu cũng thực hiện lệ này với tấm lòng thành tôn kính cầu mong cho các cụ được khoẻ mạnh sống lâu.

Trong các thôn bản, làng phố, những người từ 50 tuổi trở lên được coi vào diện lão, nhân những dịp tròn 50, 60, 70, 80, 90 tuổi con cháu trong gia đình thường tổ chức các buổi lễ mừng thọ và mừng thượng thọ, các cụ ông, cụ bà được ngồi vào ghế đặt ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà, con cháu lần lượt vào tặng quà và gửi lời chúc thọ.

Qua lời chúc đại thể là cám ơn công đức sinh thành dưỡng dục của mẹ (cha, ông bà, cụ kị) và bày tỏ niềm hạnh phúc của mình khi được chăm sóc cho mẹ (cha, ông bà, cụ kị) cũng như cầu mong cho mẹ (cha, ông bà, cụ kị) được trường thọ, sống lâu thêm nhiều tuổi nữa, đó cũng là hồng phúc của các cháu con.

Chết là kết thúc vòng sinh trưởng sinh học của một đời người. Việc chết của một con người từ nhiều đời nay đã được nhân loại quan tâm, tìm hiểu bản chất thực của cái sự chết, đã có không ít luận thuyết được xây dựng nên xung quanh vấn đề này. Việc đón nhận cái chết như một lẽ tự nhiên hay tìm mọi cách chế ngự kéo dài, khuất phục nó đã khiến nhân loại tốn không biết bao nhiêu trí lực, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của tất cả mọi người tới mọi vấn đề nảy sinh xung quanh cái chết.
Trong tín ngưỡng dân gian quan niệm chết là sự trở về với thế giới vĩnh hằng, là được về cõi niết bàn, cõi Phật, ở đó không tồn tại những ý niệm không - thời gian, không tồn tại sự khổ đau mà trần tục loài người đang gồng mình hứng chịu. quan niệm “Sống gửi thác về”, “sống có phận, chết có số” “Trần sao âm vậy” đã khiến nảy sinh ra rất nhiều phong tục, tập quán trong việc đón nhận và xử lý thi hài đồng loại sau khi chết.

Một số bước chuẩn bị khi trong nhà có người chết
Khi người già có những triệu chứng khó ở, thường được con cháu dành riêng cho một cái giường kê ở vị trí giữa nhà và gạn hỏi những điều trăn trối cuối như tâm tư nguyện vọng nào mà người sắp chết chưa được thoả mãn, còn việc gì chưa hoàn thiện để con cháu và những người đang sống gánh vác thực hiện thay, sau đó người giữ trách nhiệm cúng tế chính trong các buổi giỗ chạp sau này sẽ ghé tai người sắp chết thì thầm đọc “tên hèm” để sau khi chết, hồn người đó mỗi khi nghe con cháu đọc nhắc đến cái tên ấy thì về nhận đồ tế lễ, tránh trường hợp những vong hồn không nơi nương tựa về hưởng tranh phần.


Khi người đã chết thực sự, con cháu thấy không còn thở nữa bằng cách đặt một nhúm bông hoặc lông gà vào mũi mà không thấy lay động, hoặc đặt cái gương vào mũi mà không thấy gương mờ vì hơi nước khi thở thì thi thể khi ấy sẽ được chuyển đặt xuống đất một lát với ý nghĩa tín ngưỡng mong cho sinh khí phục hồi, sinh ra trưởng thành từ đất mẹ, nay lại trở về với đất mẹ. Sau đó lại chuyển thi thể người đã chết lên giường, phủ kín bằng tấm vải niệm, riêng phần mặt được che đậy bằng một lớp giấy bản. Trong thời gian chờ phát tang để mọi người thân cùng bà con lối xóm đến chào tiễn biệt lần cuối cùng, người nhà phải đi mời thầy địa lý về xem giờ chết tốt hay xấu và mời phường kèn định giờ phát tang, nhập quan, hạ huyệt để căn cứ vào đó bố trí thời gian tổ chức tang lễ cho phù hợp.

Lễ hú hồn
Nhà có người vừa chết, người con cầm áo người chết mặc khi tắt thở mới thay, trèo lên mái nhà theo lối cửa trước, hú gọi hồn người chết trở về ba lần, sau đó tụt xuống theo mái nhà bên kia vào theo lối cửa sau phủ tấm áo ấy lên trên thi thể người chết mong cầu sự hồi sinh lại của người vừa chết.

Lễ phạm hàm
Chắc chắn rằng cơ thể người đã chết hẳn rồi, con cháu trong gia đình khi ấy lấy một chiếc đũa gài ngang miệng, sau đó bỏ một nhúm gạo, ba đồng tiền hoặc mảnh vàng lá vào trong miệng người chết. Hành động tín ngưỡng này có ý nghĩa trên đường người chết đi đến cõi cực lạc, luôn có sẵn lương thực và tài sản mang theo làm lộ phí sẽ không gặp trở ngại. Lễ này gọi là Phạm hàm.

Lễ khâm liệm
Gồm tiểu liệm và đại niệm. Tiểu niệm gồm một mảnh vải dọc, ba mảnh vải ngang, thường là vải trắng, những nhà có điều kiện có thể dùng vóc, lụa. Xếp các mảnh tiểu liệm cho ngay ngắn, đặt tấm vải rộng (vải khâm) lên trên, rồi khênh thây đặt vào chính giữa, xếp các đồ chèn thường là giấy bản rồi buộc thi thể lại cho chặt. Đại liệm gồm một mảnh dọc, năm mảnh ngang, cũng được sắp xếp tuần tự như tiểu liệm.

Lễ nhập quan
Sau khi đã xem xét cẩn thận giờ giấc, giờ lành thì con cháu tiến hành nghi thức nhập quan cho người chết, khênh thây đã khâm liệm đặt vào quan tài quay đầu ra phía ngoài sau đó dùng giấy bản chèn cho chặt bốn xung quanh. Nếu người chết phạm giờ xấu, thì khi nhập quan người nhà sẽ để vào theo một cỗ bài tổ tôm 120 quân, cuốn lịch cũ hoặc dán bùa yểm để trừ tà khí rồi đậy nắp quan tài, gắn chặt bằng sơn ta. Trên nắp thiên bày các bát hương, bát cơm đơm đầy cùng quả trứng gà bóc vỏ kẹp giữa hai chiếc đũa cắm thẳng đứng, đầu đũa vót xơ bông. Theo tín ngưỡng dân gian, khi người chết phạm vào cung giờ xấu (giờ quan tuần đi bắt lính) nếu linh hồn của người chết bị sung quân, quan có hỏi thì linh hồn người đó sẽ đưa dần các quân bài có sẵn trong quan tài khi liệm và nhận là con cháu của mình để tránh tai hoạ cho gia đình, thân tộc.


Lễ đặt bàn thờ
Bàn thờ tạm thường được đặt trước linh cữu, phía ngoài che màn vải xô. Trên bàn thờ ngoài bát hương, đèn, nến có kèm theo hình ảnh chân dung của chết và bài vị thờ cúng bằng giấy ghi rõ chức vụ, quán tịch, họ tên khi sống, tên tự, tên hèm, địa vị ngôi thứ trong gia đình bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Việt quốc ngữ viết giả theo lối Hán tự. Trước bàn thờ treo một tấm vải ngang, viết bốn chữ Hỗ sơn vân ám (Mây che núi Hỗ) nếu người chết là cha tang chủ hoặc Dĩ lĩnh vân mê (mây mờ phủ núi Dĩ) nếu người chết là mẹ. Hai bên bàn thờ còn treo các câu đối bằng vải trắng ghi lại lời thương tiếc cha mẹ của các con trong gia đình.

Lễ thành phục

Thiết lập xong bàn thờ thì con cháu dâu rể tiến hành làm lễ thay áo thường phục bằng áo tang, mũ tang hoặc khăn tang truyền thống. Con trai trong gia đình mặc áo xô gai, đầu đội mũ nùm rơm quấn bẹ chuối khô, tay chống gậy (cha gậy tre, mẹ gậy vông); con dâu, con gái mặc áo xô gai, lưng thắt dây bện bằng bẹ chuối, xoã tóc đội mũ mấn. Con rể, anh em thân thích mặc áo thụng trắng, đội khăn trắng. Hàng cháu đội khăn trắng, chắt khăn vàng, chút khăn đỏ.

Lễ phúng viếng

Sau lễ thành phục, là lễ viếng dành cho họ hàng xa gần, cùng bạn hữu gần xa, bà con chòm xóm đến thăm hỏi thắp nén hương chia tay người đã khuất. Khách viếng hành lễ trước bàn thờ vong vái hai vái (lạy), con cháu đáp lễ lại bằng nửa lễ một vái (lạy). Lễ vật khách viếng thường là cau, rượu, thẻ hương, nay đơn giản hoá bằng tiền gói trong phong bì có ghi đầy đủ tên họ, địa chỉ người viếng để sau này con cái gia chủ căn cứ vào đó mà trả lễ.

Lễ tế kèn
Sau lễ thành phục, nhà có đám thường thuê sẵn đội kèn (đội nhạc hiếu), mỗi khi có khách đến viếng, đội kèn lại tấu lên những khúc nhạc bi ai, rầu rĩ, ảo não sầu thảm riêng của các đám tang, kết hợp cùng lời than tiếng khóc của con cháu người quá cố. “Sống dầu đèn, chết kèn trống” là nét văn hoá của người Việt Nam từ trước đến nay.

Tục chọn đất hạ huyệt
Thường thì gia đình người quá cố kết hợp cùng thầy địa lý căn cứ vào giờ sinh giờ tử, cung mệnh của người vừa chết để xem xét lựa chọn phương hướng, hoặc dải đất hạ huyệt chôn cất thi thể người quá cố. Trong tín ngưỡng dân gian, việc chọn đất hạ huyệt có ý nghĩa quan trọng với mối liên hệ tâm linh của những người đang sống theo triết lý “Sống vì mồ, vì mả chứ không ai sống vì cả bát cơm” (chữ cả ở đây mang hàm nghĩa lớn, hàng đầu như lợn cả, ao cả, ruộng cả). Tất cả các tục sau khi chọn đất, như hạ nhát cuốc đầu tiên để đào huyệt cũng phải lựa đúng giờ tốt đã được ấn định.

Tục chuyển cữu – yết tổ

Ngày đưa đám được xác định, tang gia tiến hành chuyển cữu sang nhà thờ tổ (nếu có để cáo yết với tổ tông) có thể đơn giản hơn là thay thế việc chuyển cữu bằng áo mão, dải lụa đeo trước ngực tử thi (hồn bạch). Hoặc con cháu chỉ cần khiêng linh cữu quay một vòng (chuyển cữu) rồi đặt lại vị trí cũ tượng trưng cho việc cáo yết tiên tổ.

Tục đưa đám
Đúng ngày giờ đã chọn, gia chủ hành lễ xin đưa linh cữu về nơi an táng, bằng việc gõ ba hồi chín tiếng phèng la đồng báo hiệu cho mọi người trong thôn xóm biết đã đến giờ đưa đám, mọi người tập trung tại nhà tang chủ, và theo sau xe chở cữu đưa người quá cố ra nơi có huyệt mộ đã được đào chuẩn bị sẵn cho việc chôn cất tử thi.

Tục cúng 3 ngày

Tang chủ tổ chức cúng ba ngày liền sau khi đưa đám trở về, với ý nghĩa tín ngưỡng cầu mong cho người chết được yên vui nơi cực lạc, các đồ cúng thường là cơm, canh, bánh trái.

Tục viếng mộ
Quy định con cháu sau 3 ngày từ khi chôn cất phải ra thăm viếng, sửa sang lại mộ phần.

Tục cúng cơm
Trong vòng 100 ngày sau khi chôn cất, tang chủ phải làm cơm canh cúng ngày hai bữa, ngụ ý vẫn phụng dưỡng vong linh cha mẹ như lúc còn sống.


Tục cúng 49 ngày (Thất lai tuần)
Sau mỗi bảy ngày tính từ khi người thân mất, tang chủ phải làm một lễ nhỏ lên chùa cúng cầu siêu cho vong hồn người quá cố, đủ bảy lần liên tục như vậy thì làm một lễ lớn hơn để cúng cầu siêu gọi là cúng thất lai tuần.

Tục cúng giỗ đầu
Một năm sau ngày người thân qua đời thì làm giỗ đầu, bỏ mũ áo xô gai, nhưng vẫn mặc trang phục vải trắng, chít khăn trắng. Ngày nay thay vào việc mặc tang phục những ngày sau đó, người trong gia đình có tang chỉ cần đính theo một miếng vải đen nhỏ trước ngực để báo tang.

Tục giỗ hết
Hai năm sau ngày người thân qua đời thì làm giỗ hết (đoạn tang) tức đại tường. Thời hạn để đại tang coi như đã hết, nhưng phải chờ sau khi lễ trừ phục tổ chức sau giỗ hết 2 đến 3 tháng thì mới được bỏ hết tang phục. Dân gian thường nói để tang 3 năm nhưng thực tế chỉ vào 27 tháng chịu tang mà thôi. Tổ chức giỗ hết tang chủ có thể làm lớn mời anh em họ hàng đến dự cúng giỗ.

Tục cải táng
Sau khi làm giỗ hết, là đến giai đoạn tổ chức lễ sang cát tức bốc dọn di hài xương cốt chuyển sang tiểu sành để chôn cất lại. Lần chôn cất này được coi là lần chôn cất cuối cùng và mang tính chất vĩnh viễn.
Sau khi cải táng, những nhà có điều kiện kinh tế thường xây đắp kiên cố mộ phần, người có quan tước, phẩm hàm thì xây lăng mộ, gắn bia khắc tên vào mộ phần. Hàng năm vào tiết thanh minh, con cháu đến thăm viếng làm công việc quét dọn mộ phần và bày đồ tế lễ cúng tại chỗ. Nhân ngày lễ tết, hoặc giỗ chạp có gia đình cũng ra tảo mộ.








Một vòng đời người kể từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành rồi già lão, bệnh tật mà mất đi đều gián tiếp hoặc trực tiếp góp phần vào công cuộc kiến tạo, bồi đắp thêm cho nền văn hoá tâm linh thuần Việt tồn tại, phong phú, đi vào đời sống muôn sau. Những phong tục đẹp, tập quán hay mà con người khi sống chịu tác động, có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách con người, nó dần được hoàn thiện theo hướng gạn thô lọc tinh và thẩm thấu vào hệ ý thức con người gián tiếp quy định mọi hành vi ứng xử, điều tiết chi phối các mối quan hệ xã hội, đó chính là thuần phong mĩ tục riêng có của dân tộc Việt Nam, được xây dựng trên cơ sở tâm linh văn hiến ngàn đời nay.




Tiểu mục phong tục tập quán này tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu và ghi hết lại được hoàn toàn các phong tục tập quán vùng đất Nghĩa Trụ, cũng như nhiều phong tục tập quán khác còn tồn tại trong đời sống hàng ngày của nhân dân. Hi vọng trong các tập sách khảo cứu tiếp theo chúng tôi sẽ tiếp tục sưu tầm khảo cứu và giới thiệu đến bạn đọc nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về những phong tục, tập quán đang hiện diện trên vùng văn hoá này.

II.1 CHUYỆN VỀ CÁC DANH NHÂN


DANH NHÂN



Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết


PHAN VĂN ÁI

(Ghi theo lời kể của nhà thơ, nhà báo Phạm Như Tiên)

Thân thế và sự nghiệp
Phan Văn Ái sinh năm canh tuất (1850) niên hiệu Tự Đức thứ ba, mất năm 1898, là con ông Phan Văn Chạch, cháu nội ông Phan Văn Chỉnh, ông còn có tên là Phan Văn Tâm, hiệu là Đồng Giang, người làng Đồng Tỉnh.

Năm 27 tuổi, đỗ cử nhân, hạng thủ khoa, khoa thi Hương, năm Bính Tí, đời Tự Đức thứ 29 (1876), được lĩnh mũ áo nhậm chức tri huyện, huyện Hương Trà, là huyện sở tại của kinh thành Huế. Ông là một ông quan liêm khiết thẳng thắn, cương trực và có khí phách, khi làm Tri huyện Hương Trà, ông đến xem nhà một ông quan đã nghỉ hưu vì nghe tiếng dị nghị ông này là một tham quan. Chủ nhân ngỏ ý mời ông ăn cơm và nói: "Nhà có nhiều món quý, ông thích ăn món gì để sai người nhà làm cơm", ông trả lời: Ông thích món ngô rang; chủ nhà thấy khác ý song vẫn cố nói: "Tôi không còn răng, ngô rang ăn sao được?" Cụ Ái đốp thẳng: "Bạc nén rắn như thế cụ còn gặm được huống hồ ngô rang, làm sao không ăn được?" thế rồi chủ khách tạm biệt nhau.

Tuy làm quan, bận rộn việc công, chăm lo cho dân bản huyện, nhưng ông vẫn tu thân ôn luyện, học hành đêm tối, gặp khoa thi Hội năm Canh Thìn (1880) niên hiệu Tự đức thứ... ông đỗ phó bảng (ất tiến sĩ). Được bà từ dụ gán gả công nương Tôn Thị Phan cho theo ông làm kế thất (Công nương Tôn Thị Phan là con gái vua Thiệu Trị).

Có sách chép rằng: Ông đã ra lệnh cho lính đánh chú ruột vua là đức ông Lạng quận công Hồng Dật, vì đã vi phạm luật của triều đình đề ra khi ấy là bất kì ai khi đi ra đường trong đêm tối đếu phải cầm đèn.
Năm 1883 vua Tự Đức mất, di chiếu cho Ứng Chân nối ngôi, lấy hiệu Dực Đức, được hai ngày thì ông vua này bị truất, Nguyễn Văn Trường và Tôn Thất Thuyết đề nghị bà từ dụ - Hoàng Thái hậu đưa Lãng quốc công là con thứ 29 của vua Thiệu Trị lên thay lấy hiệu Hiệp Hoà. Hiệp Hoà lên ngôi, vì mối thù bị Phan Văn Ái phạt đánh 30 trượng khi trước, triều đình đã thuyên chuyển Phan Văn Ái đi nhậm chức Tri huyện Quảng Điền.
Hiệp Hoà âm mưu cấu kết với Pháp, bị Thuyết và Trường phế đi, lấy Dưỡng Thiện lên thay, hiệu là Kiến Phúc, do vua tuyên bố sẽ chống lại Thuyết và Trường lên bị đầu độc chết, Ưng Lịch được nối ngôi lấy hiệu Hàm Nghi.
Con đường tiến thân của Phan Văn Ái sẽ gặp nhiều trắc trở, bởi Thuyết tuy là người thân, nhưng cũng khó che chở được, nên Thuyết đã cử ông ra Bắc nhậm chức Tri Phủ phủ Lý Nhân (thống hạt 5 huyện, Nam Sang, Duy Tiên, Bình Lục, Kim Bảng và Thanh Liêm).
Ra làm tri phủ chưa được bao lâu, lại được phong giữ chức tham biện Toà kinh lược Bắc Kỳ, với nhiệm vụ trông coi việc học, chủ bút tờ Đồng văn Nhật báo, là tờ báo bằng chữ Hán, đồng thời ông còn viết sách và viết văn.

Có lần con trai Hoàng Cao Khải là Hoàng Trọng Phu đi du học ở Pháp, đỗ tú tài tây, Khải mở tiệc ăn mừng, đến dự tiệc có các quan tuần phủ, án sát đứng đầu các tỉnh, trong nha môn có Tư vụ, Nguyễn Khuyến, và Phan Văn Ái, khi bữa ăn gần tàn, tuần phủ Hải phòng là Phạm Văn Tuấn đọc bốn câu thơ.

Bốn cọc trơ trơ đứng giữa trời
Anh thì bay ngước, chú bay khơi
Sinh sôi nảy nở đàn con cháu
Cặp chả dâng thầy đénh chén chơi
.

bốn câu thơ vừa có ý tán tụng, vừa có ý gần như nguyền rủa, thấy vậy Cao Khải nói luôn:
xin các quan có lòng mừng cho gia đình, xin các quan hướng vào mấy chữ trong kinh thi “Thiên hà ngôn tai”. Có một người đọc nối vào hai câu “tứ thời hành yên. Vạn vật sinh yên” có nghĩa “Ông trời có nói đâu nào” với bốn mùa làm yên, mọi vật sinh sôi nảy nở. Rồi người đó đọc bài thơ tán tụng họ Hoàng. Phan Văn Ái có tính thẳng thắn và cương trực đọc luôn 4 câu đúng đầu đề mà Khải đã đề ra:

Tao ngồi chót vót mãi trên cao
Mày thử xem tao có nói nào
Da tao xanh ngắt pha đen trắng
Bởi tại dì Oa vá váy vào

với hàm ý: Trời ngồi cao thấy suốt mọi thứ ở dưới đất, bán nước hại dân trời biết cả, nhưng trời không nói. Ngay gian lẫn lộn, đen trắng lẫn lộn đều biết cả. Ác hơn, Phan Văn Ái đã lấy cả hình ảnh cái váy của đàn bà đập vào bữa tiệc, làm cho không khí trầm lặng hẳn xuống, mọi người đang im lặng thì ông tư vụ cũng đọc một bài chung chung cốt xoa dịu đôi bên, rồi ông quay qua mời cụ Yên đổ làm một bài, sao cụ lại ngồi như phỗng đá. Cụ Yên đồ liền đứng lên đọc một bài ”Ông phỗng đá” trong đó cũng có những câu mỉa mai, châm biếm nhưng không dám đả mạnh vì còn là gia sư, (giam lỏng).

“Thôi thôi đừng chấp chuyện đâu đâu
Tái vũ trụ mặc đàn sau gánh vác
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác
Chén chú chén anh chén tôi chén bác
Cuộc tỉnh say. Say tỉnh cùng nhau
Nên chăng đá cũng gật đầu”

Phan Văn Ái cũng đọc tiếp một bài gần như hoạ lại

Non thiêng khéo đúc nên người
Trong chừng sành sỏi khác trần gian
Trải bao gió táp mây ngàn
Đã già già sức, lại gan, gan lì.
Gan lì con cóc
Há non chi mà sợ cóc gì ai
Người là người tớ cũng là người
Ngẫm cho kỹ vẫn chênh vênh đầu giốc
“Tương chi tằng thức năng công ngọc (1)
Mạc luyện như hà tả bổ thiên(2)”
Thôi mặc ai rằng trắng rằng đen
Thế như thế cẵng (3) ngồi yên như thế vậy
Còn trời còn đất, còn tai mắt ấy
Lặng mà coi hoạ thấy lúc nào chăng
Hãy về giã gạo ba trăng.



Tư dinh của Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà gần gò Đống Đa, nơi có miếu Trung Liệt thờ ba ông đã hi sinh vì Hà Nội là Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, và Đoan Thọ. Hoàng Cao khải đổi tên là miếu Trung Lương, có ý định sau này bắt dân thờ mình vào đó. Một hôm ông lên thăm miếu, không rõ nghĩ thế nào lại đề trên vách bài thơ như sau.

Núi Thái lông hồng đọ với nhau
Nước đau nào quản đến thân đau
Một nền chính khí trơ mưa gió
Ba khối hùng tâm chọi bể dâu.
Nợ với giang sơn đành phải trả
Người mà sà huỷ(1) kể vào đâu
Lòng trung chỉ có lòng trung biết
Đỗ Phủ(2) ngày xưa khóc Vũ Hầu(3)

Bài thơ trên đến tai Hoàng Cao Khải nên y không dám cải tên miếu nữa, nhưng một hôm ngồi nói chuyện, y bảo Phan Văn Ái rằng:
- Quan Tham Đồng Tỉnh muốn bắt chước Đỗ Phủ à, thì sẽ được như Đỗ Phủ.
Thời điểm này, giặc pháp đã dẹp yên được việc triều đình chống lại sự đô hộ của Pháp, Phan văn ái là chỗ tin cậy của Tôn Thất Thuyết cũng mất liên lạc 5-6 năm trời, nên ông cáo từ chức Tham biện toà kinh lược về quê hương, chủ trương xây dựng một khu căn cứ quân sự lấy một khu trung tâm giữa bãi sậy dốc sức khai phá, lập dinh điền, chiêu mộ nông phu khai khẩn mở rộng địa trang. Trong thời gian ở nhà, ông viết sách binh thư, soạn thảo kế sách “Việt bộ thuỷ đình”. Công việc đang trong giai đoạn phôi thai, Hoàng Cao Khải đã cho một toán lính, đóng giả kẻ cướp, nhân cơ hội đêm xuống đến dinh trại của ông để cướp, mà chỉ cướp sách vở không lấy tài vật.

Mối quan hệ giữa Tôn Thất Thuyết và Phan Văn Ái.
Tôn Thất Thuyết họ nội nhà vua, là quan phụ chính, trụ cột của triều đình, thấy Phan Văn Ái học rộng, tài cao, có nhân cách, thiên tính của một trung thần, lại lấy công chúa đương triều, trở thành con rể của hoàng gia nên mối quan hệ giữa hai người càng được thắt chặt thêm.
Hai người lại có chung tư tưởng và quan điểm trong cuộc kháng pháp, nên khi binh lực trong tay Tôn Thất Thuyết suy yếu dần, phải lẩn ẩn tránh khỏi vũ đài chính trị đương triều. Khi hoàng cao khải dâng sớ xin phong làm Phó Quốc Vương, Tôn thất htuyết đến đồng tỉnh và cất nhắc Phan văn ái lên Án Sát Sơn Tây kiêm nhiệm, thống hạt 6 tỉnh với nhiệm vụ “Vệ Quốc an dân xứ Bắc Kỳ”, chưa được bao lâu, Hoàng Cao Khái mua chuộc được đám hầu cận của ông và tiến hành đầu độc, sát hại (cho thuốc độc vào một quả đào) ông mất tháng 6 năm 1896. Sau khi ông mất, Khải ra lệnh cho tỉnh Sơn Tây phải đưa tang ông về Đồng Tỉnh, cứ khoảng 10 km phải có nhà tạm quàn thi hài ông, và hào lý các địa phương đoàn đưa tang qua phải tổ chức “Tế Điếu”. Từ Sơn Tây về tới Đồng Tỉnh phải qua 5 nhà quàn như thế.. gia đình và bạn bè ông cùng giới sĩ phu đương thời rất hài lòng.
Khi ông làm án sát Sơn tây thì công việc lập dinh điền và khai phá bãi sậy vẫn được các gia nhân tiếp tục, 3 xóm ấp được gọi là xóm trại”.

Các di vật
  • Khi đậu phó bảng được vua ban mũ áo và biển vinh quy có 4 chữ “Ân tứ vinh quy”
  • Sắc được thụ phong: Sắc phong chánh tứ phẩm quang lộc tự khanh
  • Sắc phong ông thân sinh (cụ Trạch) chánh ngũ phẩm Hàn lâm viện thị độc.
  • Sắc phong bà chánh thất (bà tám) tứ phẩm cung nhân
  • Sắc phong bà kế thất (bà Phan) tức bà hoàng cô - tứ phẩm cung nhân

Tỉnh Sơn tây có khắc bia kỷ niệm công trạng của ông, trong bia còn lại hai bài lục bát như sau:

Anh hùng trí dũng tứ ân
Hà Tây vọng bái nhớ ơn nghìn đời
Sắc hộ quốc muôn đời ghi sử
Ngàn thu còn để dấu anh hùng.,...

Hiện nay tại miếu thờ thần hoàng còn lưu hai câu đối của cụ Phan Văn Ái
Cửu Tỉnh....


Chuyện cụ đốc Đông

(Ghi theo lời kể của nhà thơ Tô Hùng Long)

Tô Huân sinh năm 1817, mất năm 1896, năm 43 tuổi ứng thí khoa thi thi Mậu Thìn năm Tự Đức thứ 21 (1868), đỗ phó bảng, được triều đình nhà Nguyễn bổ dụng làm Tri huyện Thanh Trì, sau đó được điều về kinh (kinh thành Huế) giữ chức phó đô ngự sử, rồi được thăng đến chức phó quản đạo ở Hà Tĩnh coi việc học hành thi cử.

Khi những đội quân viễn chinh Pháp tiến đánh thành Hà Tĩnh, lực lượng trong thành ít, vũ khí chiến đấu thô sơ dẫn tới sự thất thủ hoàn toàn thành Hà Tĩnh về tay Pháp, Tô Huân cùng một số các quan giữ thành bị triều đình bãi chức. Tuy thoát được tội trọng nhưng vì muốn giữ tròn danh tiết của kẻ sĩ, ông nhân cơ hội đó xin được về quê nhà an trí và mở lớp dạy chữ thánh hiền tại trường làng cho con em quanh vùng.

Sau một thời gian được triều đình phục chức, phong làm đốc học tỉnh Đông, dân trong vùng thường gọi là cụ Đốc Đông. Vốn hay chữ và nổi tiếng uyên thâm trong giới nho đạo, ở tại nơi cụ dạy học cụ cho treo hai câu đối thể hiện rõ chức phận của mình:

Đốc chư sinh phụng thiên tử chiếu
Học hà sự độc thánh nhân thư

........

Có nghĩa:

Được làm thầy theo chiếu vua ban
Dạy học trò đọc sách thánh hiền.


Trong giới nho sĩ, cụ Đốc Đông nổi tiếng tận tình với trách nhiệm làm thầy của mình, lại tận tâm chỉ bảo rèn cặp chu đáo cho mỗi học trò, tiếng thơm bay xa, học trò các nơi về theo học nơi cụ rất đông, nhiều người thành đạt, có quyền cao chức trọng. Tiêu biểu là ông Tuần phủ Nam Định Phan Đình Hoè, nhớ ơn thầy học cũ khi thầy mất, đã cung tiến một bức hoành phi đại tự và một đôi câu đối ca ngợi công đức của cụ Đốc Đông, bức hoành phi này được các con cháu trong dòng họ của cụ Đốc Đông Tô Huân trang trọng treo ở gian giữa nhà tiền tế từ đường có 4 chữ:

THANH MÔN VĂN THÁI

Tạm dịch: Cửa thanh bạch nhưng trọng văn chương

Và hai bên cột chính treo hai câu đối:

Đại gia khoa bảng truyền giang bắc.
Ngô bối cầm thư đáo hải nam.


Dịch nghĩa:

Nhà có nhiều người đỗ đạt lừng danh vùng Giang Bắc.
Nhiều sĩ tử túi đàn cặp sách nổi tiếng miền Nam Hải
.



Hiện nay trên mảnh đất thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ là nơi cụ Tô Huân sinh sống, còn có ngôi từ đường thờ cụ làm cụ tổ trong chi họ, đã qua nhiều lần trùng tu, nâng cấp, sửa chữa với quy mô thờ tự nhỏ gọn nhưng vẫn toát lên vẻ khang trang, thu hút con cháu hàng năm về dự ngày giỗ kị.

Lịch sử tồn tại của ngôi đường này được ghi lại rất rõ qua bản gia huấn của dòng họ do cháu đời thứ 9 của dòng họ nhà thơ Tô Hùng Long còn lưu trữ được:

Từ đường trăm sáu mươi thu
Một lần kiến tạo trùng tu ba lần
Năm MỘT NGHÌN TÁM TRĂM BỐN MỐT
Cụ phong công xây dựng từ đường
Một toà đẹp đẽ khang trang
Tôn nghiêm ngày lễ khói nhang phụng thờ
Cơ nghiệp tổ từ xưa để lại
Rạng “Thanh môn văn thái” nho gia
Tu nhân tích đức nhà nhà
Bốn phương yêu quý ngợi ca thảo hiền
Nổi danh khoa bảng truyền Giang Bắc
Vang tiếng cầm thư khắp Hải Nam
Trải qua bảy chín mùa xuân
Nhà lim mưa nắng cũng dần tàn phai
Ông Tô Nghệ tú tài Đinh Dậu
Bán cầm đi gần mẫu ruộng hương
Cậy nhờ các chú đảm đương
Trông nom tiền hậu cung đường sửa sang
Thêm bảy chín mùa xuân nữa nhỉ
Năm cuối cùng thế kỉ hai mươi
Từ đường lại xuống cấp rồi
Mái hiên dột nát tường hồi mối xông
Con cụ cử là ông Tô Uý
Cùng sáu chi quết chí trùng tu
Một đoàn tiến sĩ kỹ sư
Tô Loan thủ quỹ chi thu rõ ràng
Tô Tần tài vụ làm kế hoạch
Tô Thảo cùng Tô Thạch ra công
Ngày đêm thiết kế mau xong
Tô Dũng, Tô Thế, Tô Long góp phần
Tìm mua sắt thép xi măng
Thi công giám sát khi cần có ngay
Nhà thờ tổ móng xây giằng hộp
Mái bê tông ngói lợp khang trang
Hai bên bia đá bảng vàng
Tô thêm truyền thống vẻ vang từ đường
Nơi thờ phụng tấm gương minh ngọc
Tổ tiên xưa đốc học tỉnh Đông
Cháu con về lễ tổ tông
Đáp đền ân đức gắng công học hành.



Tô Ngọc Vân


Tô Ngọc Vân là một trong những họa sỹ tiêu biểu của giai đoạn khởi đầu nền nghệ thuật tạo hinh hiện thực xã hội. Ông không những đã đào tạo được rất nhiều học trò xuất sắc mà còn thể hiện tài năng hiếm có qua những tác phẩm để đời.
Thủa nhỏ là một cậu bé con nhà nghèo, Tô Ngọc Vân phải đến sống nhờ bà cô, quá tuổi mới được đi học. Tuổi thơ nghèo khó đã tạo cho ông một ý chí tự lập, một cuộc sống nội tâm sâu sắc. Đang học trung học năm thứ 3, ông bỏ học đi theo con đường nghệ thuật. Năm 1926 ông trúng tuyển vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ở trường, ông tiếp nhận những kiến thức tạo hình mới với lòng hăng say không mệt mỏi. Phương pháp tạo hình mới, đặc biệt chất liệu sơn dầu, đã cuốn hút ông một cách mãnh liệt. Hầu hết các tác phẩm của ông đều thể hiện bằng chất liệu sơn dầu. Ông quan niệm: nghệ thuật giúp con người diễn đạt được những tình cảm rạo rực, bừng cháy trước cảnh vật và con người; chất liệu sơn dầu là chất liệu diễn đạt được những tình cảm mạnh mẽ, sự khát khao đến bến bờ hạnh phúc của con người.
Từ trước Cách mạng tháng 8 (1945) Tô Ngọc Vân đã phần nào thể hiện tính hiện thực qua các tác phẩm. Với tác phẩm Bức thư (1931), ông vẽ những cô gái đang say mê làm việc bên khung cửa. Đó là những cô gái thôn quê, chăm chỉ lao động và có một vẻ đẹp thuật khiết đang trao gửu những tình cảm đoan trang, kín đáo. Họa sỹ đã thể hiện sự dè dặt trước một khuynh hướng mới. Sau này, Tô Ngọc Vân đã thể hiện sự sâu đậm hơn hình ảnh của người phụ nữ với những đồng cảm trân trọng. Năm 1931 tranh sơn dầu Bức thư được tặng bằng khen danh dự ở Triển lãm hội họa tại Pháp và được trao huy chương vàng ở triễn lãm thuộc địa tại Pari. Thời gian này, ông cũng vẽ nhiều tác phẩm về cảnh đẹp như Ánh mặt trời, Bụi chuối ngoài nắng, Trời dịu...
Họa sỹ Tô Ngọc Vân tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật năm 1931 và dù nổi tiếng ông vẫn sống thiếu thốn bằng nghề dạy học, vẽ tranh thuê, trình bày và minh họa cho một số tờ báo ở Hà Nội. Năm 1935 ông mới được Pháp bổ nhiệm đi dạy vẽ ở Campuchia. Năm 1938 Tô Ngọc Vân trở về Hà Nội dạy ở trường Bưởi. Đến năm 1939, ông là giảng viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.


Đề tài sáng tác chủ yếu của Tô Ngọc Vân trước Cách mạng là hình ảnh người đàn bà thành thị. Tác phẩm Dưới bóng nắng vẽ người thiếu nữ mơ màng với cái nhìn lơ đãng dưới hoa trong nắng bên bờ ao. Ông không diễn tả một chân dung cụ thể mà chỉ thể hiện sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ. Bức tranh được mọi người biết đến nhiều nhất là bức sơn dầu Bên hoa huệ (1943). Cô gái ngồi vén tóc bên những đóa hoa huệ ngát thơm. Màu chủ đạo của bức tranh là màu trắng của áo dài và những bông hoa huệ. Người phụ nữ trong tranh của Tô Ngọc Vân luôn được thể hiện với lòng trân trọng chứ không sa vào khoái cảm nhục thể nhưng cũng không quá mơ hồ, ẻo lả hoặc kiêu kỳ như tranh vẽ của các họa sỹ cùng thời.
Các sáng tác của Tô Ngọc Vân luôn đem lại cho người xem nhiều cảm xúc. Đó là điều bất kỳ họa sỹ nào cũng mong ước. Lẽ ra ông còn cống hiến nhiều cho nên hội họa nước nhà nhưng ông đã hy sinh quá sớm khi tài năng đang trong thời kỳ bộc lộ đầy đủ nhất. Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiều tác phẩm đẹp của Tô Ngọc Vân đã bị đánh cắp, mất mát, thất lạc nên hiện nay trong nước chỉ còn lại một số ít tác phẩm sơn dầu, sơn mài. Tô Ngọc Vân xứng đáng được xem như một họa sỹ bậc thầy, một nhà trí thức lớn đã cống hiến tất cả tài năng và cuộc đời cho Tổ Quốc.
Mỹ thuật & Đời sống, 17/2000.





Tô Ngọc Vân (1906-1954) là một họa sĩ Việt Nam nổi tiếng, tác giả bức Thiếu nữ bên hoa huệ. Ông còn có những bút danh Tô Tử, Ái Mỹ.
Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng 12 1908 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội. Một vài tài liệu viết ông sinh năm 1906.
Năm 1926, ông thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thuộc thế hệ đầu tiên của trường, tốt nghiệp khóa 2 năm 1931. Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân đã có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao ở Pháp. Ông đi vẽ nhiều nơi ở Phnom Penh, Băng Cốc, Huế... Ông hợp tác với các báo Phong Hóa và Ngày Nay của Nhất Linh, báo Thanh Nghị... Từ 1935 đến 1939 ông dạy học ở trường trung học Phnom Penh, sau đó ông về dạy ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tới 1945. Thời gian đó ông vừa giảng dạy vừa sáng tác.
Sau cách mạng Tháng Tám, Tô Ngọc Vân tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc.
Tô Ngọc Vân được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Ông còn được xem là một trong những họa sĩ lớn của hội họa Việt Nam, nằm trong "bộ tứ" nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn (Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn).

Tô Ngọc Vân cũng là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã sớm vẽ tem ngay từ thời Pháp thuộc (Postes Indochine). Mẫu tem Apsara được ông thiết kế từ nguồn tư liệu của những chuyến đi vẽ, sáng tác ở khu đền Angkor Wat, Angkor Thom của Campuchia. Hình tượng chính của con tem là nữ thần Apsara, một trong hàng ngàn tượng vũ nữ điêu khắc nổi trên những vách đền đài của nền văn hoá cổ Khmer. Tem Apsara của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân là mẫu tem thứ 23 của Bưu điện Đông Dương kể từ khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng là tem duy nhất ông góp vào nền nghệ thuật tem thư ở Việt Nam.
Ông mất ngày 17 tháng 6 năm 1954 ở Đa Khê, vùng gần sát chiến trường Điện Biên Phủ. Họa sĩ Tô Ngọc Vân được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996). Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Việt Nam.

Tô Chấn


Đồng chí Tô Chấn, anh ruột của đồng chí Tô Hiệu thuộc thế hệ cách mạng tiền bối của Đảng ta, sinh năm 1904 trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang.
Cụ nội của đồng chí là cụ Tô Ngọc Nữu, Đốc học Nam Định. Khi triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Thân 1884 gọi là hoà ước, thực chất là hàng ước Patenôtre, đặt đất nước Việt Nam bị chia làm 3 kỳ dưới sự thống trị của thực dân Pháp, cụ đã phản đối bằng cách từ chức về dạy học.
Ông ngoại của đồng chí là cụ Ngô Quang Huy, Đốc học Bắc Ninh, người lãnh đạo có uy tín trong phong trào Bãi Sậy, Hưng Yên, do cụ Nguyễn Thiện Thuật (tức Tán Thuật) đứng đầu. Cũng như Nguyễn Thiện Thuật, cụ được Vua Hàm Nghi phong chức Tán Tương Quân Vụ, thường được nhân dân gọi là cụ Tán Ngô hay cụ Tán Bắc. Bà Ngô Thị Lý, mẹ đẻ của đồng chí Tô Chấn, đã có công lớn trong việc nuôi dưỡng và bảo vệ cán bộ thời kỳ hoạt động bí mật trước 1945. Các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Tử Bình... thường về Xuân Cầu hoạt động, được bà chăm sóc chu đáo.
Phát huy truyền thống cao đẹp của gia đình và quê hương, đồng chí Tô Chấn đã tham gia cách mạng từ rất sớm. Từ năm 1925, đồng chí tích cực tham gia hoạt động cách mạng trong các tổ chức yêu nước cách mạng ở Hà Nội, Sài Gòn và Nam Bộ. Năm 1927, đồng chí tham gia Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu và trở thành đảng viên cốt cán, kiên cường, được cử làm Đảng trưởng kỳ bộ Nam Kỳ.


Tháng 10/1930, khởi nghĩa Yên Bái thất bại. Nguyễn Thái Học bị thực dân Pháp xử tử hình, đồng chí được đề cử thay Nguyễn Thái Học và tiến hành mưu sát toàn quyền Đông Dương, vì chúng đang câu kết đàn áp phong trào cách mạng. Việc chưa thành thì đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội, kết án tử hình, sau đó giảm án xuống chung thân, đày đi Côn Đảo.
Năm 1930-1936, trong nhà tù Côn Đảo, đồng chí đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí hăng hái tham gia đấu tranh kiên cường, tích cực học tập, trở thành một đảng viên nổi tiếng có kiến thức uyên bác và trí nhớ tuyệt vời về lý luận Mác-Lênin, được anh em rất tín nhiệm. Đồng chí đã tham gia ban lãnh đạo nhà tù cùng với các đồng chí Ngô Gia Tự, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng....
Đầu năm 1936, đồng chí được chi bộ nhà tù bố trí vượt ngục Côn Đảo cùng đồng chí Ngô Gia Tự và một số đồng chí khác, chẳng may đều hy sinh trên biển.
Đồng chí Tô Chấn cũng là người đã dìu dắt, giác ngộ đồng chí Tô Hiệu và một số thanh niên của làng Xuân Cầu đi làm cách mạng như các ông: Tô Dĩ (Lê Giản - nguyên Giám đốc Nha Công an TƯ), Tô Quang Đẩu - nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ...


Tô Hiệu


Tô Hiệu (1912-1944) là một nhà cách mạng cộng sản Việt Nam. Tô Hiệu sinh 1912, trong một gia đình nhà nho nghèo ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Năm 1927 Tô Hiệu học tại trường Pháp Việt thị xã Hải Dương và sớm tham gia vào các phong trào yêu nước của học sinh như bãi khoá truy điệu Phan Chu Trinh, tham gia phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu.
Năm 1928, vào Sài Gòn, cùng anh ruột là Tô Chấn tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1929 ông là Đảng viên Quốc dân Đảng, hoạt động tại Sài Gòn. Năm 1930, ông bị bắt và bị kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Những năm tháng tại Côn Đảo, Tô Hiệu đi theo lý tưởng cộng sản và chỉ một thời gian sau, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1934, Tô Hiệu mãn hạn tù. Không chịu được sự quản thúc của chính quyền thực dân ở địa phương, ông trốn đi Hà Nội hoạt động và được phân công xây dựng cơ sở cách mạng ở Thái Nguyên. Mặc dù bị ho lao do kết quả 4 năm tù khắc nghiệt tại Côn Đảo, Tô Hiệu vẫn hăng hái công tác và năm 1936 được cử vào Ban thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách công tác tuyên huấn.
Cuối năm 1938, Tô Hiệu đựơc phân công phụ trách miền Duyên hải Bắc Kỳ. Tại Hải Phòng, Tô Hiệu hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức nhiều cuộc đình công, biểu tình và trực tiếp tham gia đấu tranh. điển hình là cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng, bắt đầu từ tháng 4/1939 đến ngày 21 tháng 5/1939. Tô Hiệu chỉ đạo chi bộ Đảng nhà máy Tơ lãnh đạo tranh đấu, liên hệ với báo Đời Nay, yêu cầu đưa tin ủng hộ, gặp tổ chức Thanh niên dân chủ Pháp và Thanh niên dân chủ Việt Nam yêu cầu giúp đỡ. Cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng gây được tiếng vang lớn, được Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang hoạt động ở nước ngoài quan tâm chú ý.


Ngày 30 tháng 5/1939 Tô Hiệu trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước của hàng ngàn công nhân tiểu thương và lao động thành phố Hải Phòng. Thực dân Pháp bắt 72 người biểu tình, trong đó có Tô Hiệu; nhưng Tô Hiệu thoát được ra ngoài. Tháng 10 năm 1939, Xứ uỷ Bắc Kỳ thành lập các khu Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương và vùng mỏ thuộc khu B (sau đó gọi là liên tỉnh B) trong đó Tô Hiệu làm Bí thư Khu uỷ, xúc tiến ra báo Chiến Đấu, cơ quan tuyên truyền của Khu uỷ B.
Trước sự đàn áp của thực dân Pháp đối với phong trào, Tô Hiệu chuyển hướng hoạt động từ công khai rút vào bí mật, sàng lọc cán bộ công khai. Trong suốt thời kỳ hoạt động ở Hải Phòng, Tô Hiệu với cương vị Bí thư Khu uỷ B đã không thành lập Thành uỷ Hải Phòng mà trực tiếp lãnh đạo phong trào.
Ngày 1 tháng 12 năm 1939, Tô Hiệu bị bắt tại một cở sở in ở xóm Hạ Lý, khu vực nhà máy chỉ và bị tra tấn. Bị kết án 5 năm tù, Tô Hiệu bị kết án tù tại nhà tù Sơn La. Tại đây, ông được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, tham gia công tác tuyên truyền cách mạng và đấu tranh cải thiện chế độ nhà tù.
Ông mất ngày 7 tháng 3 năm 1944 tại nhà tù Sơn La. Mộ ông được an tháng tại nghĩa địa Vườn ổi.





Tô Hiệu người làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang. Cha ông làm nghề dạy học. Ông đi học từ năm lên 6 tuổi, nhà nghèo nhưng học rất chăm chỉ.
Những năm 1925-1926 ông theo học trường Pháp - Việt tại thị xã Hải Dương, tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh nên bị đánh trượt trong kỳ thi tiểu học.
Năm 1927 Tô Hiệu lên Hà Nội, vừa học vừa kiếm tiền nuôi thân, vừa tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào học sinh. Sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930 ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt, chúng kết án 4 năm tù giam, đày đi Côn Đảo. Ra tù ông bị bọn mật thám xếp vào loại “nguy hiểm”, phải về quê nhà và bị quản thúc.
Trong những năm tháng sống ở quê, không bỏ phí thời gian, ông tìm mọi cách liên lạc với Đảng và lại lao vào hoạt động. Ông còn vận động bà con thôn xóm góp công sức xây dựng trường học cho con em. Năm 1935 ông được điều lên Thái Nguyên để xây dựng cơ sở cách mạng. Sau chuyển về Hà Nội làm ủy viên Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách tuyên huấn, trực tiếp lãnh đạo phong trào ở Hà Nội. Ông viết bài đăng trên các báo công khai để hướng dẫn công tác và cử cán bộ xuống vùng mỏ hoạt động, nhờ đó phong trào đấu tranh của công nhân mỏ lên mạnh.
Mùa thu năm 1938, ông được Trung ương Đảng phân công phụ trách miền duyên hải Bắc kỳ, trực tiếp làm Bí thư Ban cán sự Đảng Hải Phòng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh được đẩy lên mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi cải thiện đời sống của công nhân các nhà máy xi măng, máy điện, máy tơ, máy nước… đạt kết quả. Điển hình là cuộc đấu tranh của 3000 công nhân nhà máy tơ từ ngày 16 đến 22/4/1939 do Tô Hiệu trực tiếp chỉ đạo, bọn chủ đã phải giải quyết toàn bộ yêu sách của công nhân.
Ngày 30/5/1939, Tô Hiệu lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước. Cảnh sát Pháp đàn áp bắt 72 người, nhờ sự bảo vệ của anh em công nhân, ông trốn thoát. Thời gian này Tô Hiệu bị bệnh lao phổi nặng, sức khoẻ giảm sút. Xứ ủy yêu cầu nghỉ chữa bệnh nhưng ông vẫn thiết tha xin tiếp tục công tác. Ông tổ chức chỉ đạo báo “Chiến đấu” bí mật lưu hành ở Hải Phòng, số đầu tiên ra ngày 7/11/1939 - số đặc biệt kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga. Ông chủ trì hội nghị Trung ương lần thứ 6.


Ngày 1/12/1939, ông bị bắt trên đường đi in tài liệu ở Hải Phòng. Bọn giặc tra tấn rất dã man nhưng ông tỏ rõ khí phách hiên ngang của người cộng sản. Những lúc hồi tỉnh ông lại tiếp tục tuyên truyền động viên anh em trong nhà lao Hải Phòng giữ vững chí khí cách mạng, đấu tranh chống chế độ nhà tù, tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Đảng 3/2/1940 trong nhà tù đế quốc. Chính quyền thực dân đưa ông ra xét xử ở toà án Kiến An, kết án 5 năm tù.
Năm 1940 ông bị đày lên Sơn La. Tại đây Tô Hiệu được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, ông đã lãnh đạo anh em kiên trì đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù. Ông cùng với mới số đồng chí viết tài liệu, mở lớp chính trị, văn hóa giảng dạy cho bạn tù “biến nhà tù thành trường học” và đào tạo cán bộ cách mạng, tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng ở bên ngoài. Tên công sứ Pháp ở tỉnh Sơn La là Cút - xô thẳng tay đàn áp, chế độ nhà tù ngày một hà khắc. Anh em tù tuyệt thực để phản đối, nhiều người bị chúng giam trong hầm tối.
Do cuộc sống khắc nghiệt của nhà tù cùng với sự tra tấn tàn bạo của kẻ địch, sức khỏe Tô Hiệu ngày một giảm sút, nhưng ông vẫn tin tưởng, lạc quan. Năm 1943, nghe tin Hồng quân Liên Xô thắng lớn ở Lêningrát, tuy đang mệt nhưng ông đã nhận định “Liên Xô sẽ thắng, phát xít sẽ thua, chiến tranh sẽ kết thúc, cách mạng Việt Nam sẽ thắng lợi”. Ngày 7/3/1944 Tô Hiệu qua đời tại Sơn La. Mộ ông được an tháng tại nghĩa địa Vườn ổi.
Ngày nay, đến thăm nhà tù Sơn La, giữa bức tường đá nhà ngục lạnh lẽo, cây đào do ông trồng vẫn xanh tươi đầy sức sống. Cành đào được mang về từ Sơn La cứ mỗi lần xuân về tết đến lại nở hoa đỏ thắm ở làng Xuân Cầu quê hương ông. Nhiều đường phố, trường học, nông trường mang tên Tô Hiệu.

Dương Thị Cẩm

Lê Văn Lương (NGUYỄN CÔNG MIỀU)


Đồng chí Lê Văn Lương (1912-1995), nguyên uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Nho học. Đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, tham gia nhóm Cộng sản Đông Dương từ năm 1929, vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Bị thực dân Pháp bắt giam, kết án tử hình. Do sức ép phong trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước và tiến bộ, thực dân Pháp đã phải giảm án xuống chung thân khổ sai, đầy ra Côn Đảo. Tại nhà tù Côn Đảo, đồng chí đã tham gia Ban chấp hành Đảng bộ nhà tù, biến nhà tù đế quốc thành trường học của người Cộng sản.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng chí đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhiều khoá tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được cử vào Ban Bí thư và Bộ Chính trị. ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần cách mạng, tận tuỵ, trung thành với sự nghiệp của Đảng.

Đồng chí Lê Văn Lương: Vì nước, vì dân
Tất cả những ai từng gặp Nguyễn Công Miều (tên thật của đồng chí Lê Văn Lương) những năm 20 của thế kỷ trước, hẳn sẽ mãi nhớ dáng vẻ nho nhã, lành hiền, thoạt gặp cứ có vẻ như lành lạnh nhưng thực ra lại rất đôn hậu, của cậu học trò trường Bưởi này.
Quê ở làng Xuân Cầu xứ Đông từng đi vào ca dao "Ai về Đồng Tỉnh, Hoa Cầu / Để thương, để nhớ, để sầu cho ai...", anh đã mang về với những bè bạn ở Thăng Long tâm tính chân thành đến độ thẳng thắn, cởi mở đến độ hồn nhiên để cùng nhau giác ngộ cách mạng từ tuổi 15, gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1927. Và từ đấy, lửa thử vàng, gian nan thử sức, người cộng sản Lê Văn Lương cho tới phút cuối cùng của cuộc đời mình vẫn giữ nguyên tính cách quý hiếm của một người hiền chính trực, luôn nói thật và chỉ nói thật trong mọi tình huống. Bác Hồ, như hồi ức của thư ký Vũ Kỳ kể lại, đã nhận thấy trong đồng chí Lê Văn Lương "những đức tính chuẩn mực" ấy để tin cậy và trao đổi những điều tâm huyết nhất trước lúc vĩnh viễn đi xa.
Đồng chí Lê Văn Lương sinh ra trong một gia đình nhà nho hiếu học và nhiều tài năng. Chính từ dòng họ Nguyễn Công đã lớn lên những tên tuổi sáng chói trên nhiều lĩnh vực. Anh ruột đồng chí Lê Văn Lương là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Đồng chí Nguyễn Tài, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, Anh hùng LLVTND, là cháu gọi đồng chí Lê Văn Lương là chú ruột (thân phụ đồng chí Nguyễn Tài là nhà văn Nguyễn Công Hoan)... Họ ngoại của đồng chí Lê Văn Lương là họ Tô với những nhà cách mạng tên tuổi như Tô Hiệu...Như không ít bè bạn cùng thời ở trường Bưởi, cậu học trò Nguyễn Công Miều đến với lý tưởng cách mạng cứu dân cứu nước như một lẽ tự nhiên. Và trong "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" dường như còn có một chút gì lãng mạn cổ kính kiểu tráng sĩ phương Đông, coi cái chết vị nghĩa nhẹ tựa lông hồng. Có lẽ chính vì thế nên chàng thư sinh Nguyễn Công Miều đã đi vào Nam "vô sản hóa".


Và khi phải vào Khám Lớn Sài Gòn ở tuổi 17-18 để chờ thi hành án tử hình vì "tội" làm cách mạng, người chiến sĩ trẻ Lê Văn Lương, cũng như các đồng chí của mình, mới có thể hành xử được như sau này đồng chí kể lại:
"Vừa đến khu xà lim án chém, đã nghe có tiếng gọi quen quá:
- "Lương, Lương, thôi có bạn rồi, vào ở đây cho vui!"
Ngỡ ai, hóa ra là anh Hùng. Anh đang ngồi kề ngay cửa xà lim chơi. Lúc bấy giờ, các anh đã đòi phải mở cửa xà lim mỗi ngày vài bận cho sáng xà lim, và nhìn ra ngoài cho vui. Thanh và Rỗ cũng mời: "Các anh vào đây. Chật một tí không sao ạ!". Thế là bảy mạng cả thảy trong một xà lim.
Anh Hùng nói đùa: "Để mai, bảo nó dọn bữa tiệc, ta nhậu với nhau". Trong này, mỗi chủ nhật muốn uống rượu, cứ gọi y tá đến "Ờ thày này, bọn tôi "ho" quá, có gì uống nhỉ?". Y tá hiểu ý, đem rượu ở nhà thuốc lên ngay.
Được vài hôm, tên gácđiêng sếp người Pháp đến. Nó bảo anh Hùng: "Y án chém các anh rồi. nhưng gặp vụ án vừa qua phải đợi Paris xét thêm nên còn chờ. Thấy các anh không phải người sợ chết, tôi mới nói cho mà biết đấy. Tôi đã mua rom và xì gà. Mỗi người một ly rượu rom và một điếu xì gà". Bọn Pháp cho tù tử hình uống rom và hút xì gà trước khi chém, nghe đâu để cho hăng.
Anh Hùng nói luôn: "Đâu, đem chúng tôi dùng ngay bây giờ. Lúc nào chém sẽ hay!". Tên gácđiêng sếp đưa rượu rom và ba điếu xì gà đến. Anh Hùng vặn nó: "Chúng tôi bảy người, anh đưa có ba, không đủ". Nó lại lấy thêm. Chúng tôi mỗ người phì phèo một điếu. Khói om xà lim...". Đúng là "trông chết cười ngạo nghễ"! Trước đó, ở phiên tòa đại hình kết án chém đối với mình, đồng chí Lê Văn Lương cũng đã lớn tiếng công khai kết tội lại chế độ thực dân: "Các anh nói mình là dân chủ nhưng đó là thứ dân chủ kiểu gì vậy nếu như khi muốn lấy đầu người ta, các anh lại chỉ cho phép người ta nói độc câu "uẩy u nông" (có hay không)?!".
Và cũng chính tinh thần mã thượng ấy đã giúp đồng chí Lê Văn Lương vượt qua được không chỉ án tử hình mà cả 11 năm đằng đẵng trong xà lim địa ngục trần gian Côn Đảo... Trở về đất liền ngày 23/9/1945 sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí lại lao mình vào cuộc chiến đấu mới cùng cả dân tộc chống lại các loại giặc thời chiến và thời bình. Đồng chí đã trải qua nhiều cương vị lãnh đạo quan trọng, từng là Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác tổ chức, Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chánh văn phòng Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội...


Nguyễn Công Hoan


Tiểu sử
Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 (8 tháng 2 năm Quỹ Mão). tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh tỉnh Hưng Yên, mất 6-6-1977 tại Hà Nội. Sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng và Nguyễn Công Mỹ.
Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Nhà văn đã từng là Giám đốc Trường Văn hóa Lý Thường Kiệt. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ).


Xuất thân làm nghề giáo, Nguyễn Công Hoan có dịp đi nhiều, chứng kiến nhiều cảnh sống của nhiều tầng lớp xã hội. Cuộc sống thôi thúc ông cầm bút viết về "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". bắt đầu văn nghiệp của mình vào những năm hai mươi của thế kỷ này khi ở Việt Nam, văn học được viết bằng quốc ngữ đã khá phổ biến. Truyện ngắn đầu tiên "Quyết chí Phiêu lưu", ông viết năm 17 tuổi. Năm 20 tuổi xuất bản tập truyện ngắn "Kiếp Hồng Nhan" Những truyện ngắn đăng thường xuyên trong "Xã Hội Ba Ðào Ký" và tiểu thuyết "Những cảnh khốn nạn" tập I, dầy 218 trang in, xuất bản năm 1932, viết trong thời gian ông dạy học ở Lao Cai, đã báo hiệu con đường văn độc đáo của ông sau này đi tới trọn đời. Nhưng phải đến năm 1935 với tập truyện Kép Tư Bền Nguyễn Công Hoan trở thành nhà văn có danh tiếng trên văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1938, Nguyễn Công Hoan cho xuất bản tiểu thuyết Bước đường cùng - một tác phẩm góp vào bức tranh chung về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng
Ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-Nghệ thuật (đợt I, 1993)
Những tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan được Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I-1996) gồm Kép Tư Bền (truyện ngắn, 1935). Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938). Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955). Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956), Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960), Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961), Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971), và Tuyển tập truyện Nguyễn Công Hoan (3 tập).
Năm 1936, truyện dài Tắt lửa lòng của ông đã được Trần Hữu Trang chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng Lan và Điệp.





Thành tựu nghệ thuật
Nguyễn Công Hoan là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Tác phẩm Kép Tư Bền (viết năm 1927, xuất bản năm 1935) đã gây chấn động trên văn đàn, và là đề tài cho cuộc bút chiến giữa hai quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh lúc bấy giờ. Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông các cấp.
...Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời" mà đặc trưng là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian, tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một "vũ khí của người mạnh" để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng... Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp... Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn... Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại... Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là "cổ điển" trong nền văn học hiện đại."[3]


Từ điển bách khoa Việt Nam đánh giá:
Có thể nói Nguyễn Công Hoan là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam... Nguyễn Công Hoan đến với chủ nghĩa hiện thực bằng văn học trào phúng. Từ những truyện đầu tiên, ông đã tìm đề tài trong những người nghèo khổ, cùng khốn của xã hội. Đa số nhân vật phản diện của ông đều thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có và quan lại, cường hào. Toàn những cảnh xấu xa, bỉ ổi, những chuyện bất công, ngang ngược, những con người ghê tởm, đáng khinh bỉ. Nguyễn Công Hoan tạo ra những tình huống bất ngờ, rồi phá lên cười và làm cho người khác cười theo, nhưng ngẫm lại thật thương tâm đau xót."[4]
Ngoài sáng tác, những bài tiểu luận, phê bình văn học của ông cũng được đánh giá cao vì có cái nhìn, cách tiếp cận sắc sảo về các tác giả văn học Việt Nam.
Ông từng có mặt trong Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô từ thập niên 1960[5]. Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1984 tại Hà Nội.
Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.






Giai thoại
Mặc dù sinh thời, Phạm Quỳnh nhận xét về Nguyễn Công Hoan rằng: "Truyện viết hay như Tây" nhưng ông rất ít đọc các tác phẩm văn học nước ngoài, kể cả tác phẩm của các tác giả bậc thầy. Theo ông kể lại, ngày còn đi học, ông được một người thân cho ba đồng bạc để mua sách, ông góp thêm tiền vào mua được bộ tiểu thuyết "Bá tước Monte Cristo" (bấy giờ được dịch sang tiếng Việt là "Ngọc Sơn bá tước") của Alexandre Dumas. Sách mua về, ông chỉ đọc có chương đầu tiên rồi bỏ, từ đấy cuốn sách chỉ để cho mượn. Khi ông được người bạn cho mượn một tập truyện ngắn của Guy de Maupassant thì ông cũng chỉ đọc có truyện đầu là truyện "Lão ăn mày", rồi không xem thêm nữa.[6]

Chuyện xảy ra ở nhà 66 Thợ Nhuộm
Trong những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhà ông Nguyễn Công Hoan ở 66 Thợ Nhuộm (nằm trong trụ sở Báo CAND hiện nay). Hồi đó, giáp tường nhà ông Nguyễn Đức Thuận (hiện nay là nhà ông Phạm Thế Duyệt - Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam), gia đình đào một cái hầm tránh bom. Có lần máy bay Mỹ đến, bà Yến (vợ ông Hoan) gọi hết con cháu xuống hầm, nhưng ông Hoan vẫn đứng “hiên ngang” ngửa mặt lên trời nhìn máy bay địch. Bà hốt hoảng gọi: “Ông ơi, xuống đi, không máy bay nó bắn chết bây giờ đấy!”. Bà không ngờ ông bảo: “Bà yên tâm, nó có nhìn thấy tôi đâu mà nó bắn”. Đó là cái lý của nhà văn trào phúng, coi việc sống chết cứ như chuyện chơi!


Ông trêu bà
Năm 1968, chiến tranh ác liệt. Đang học lớp một, tôi cùng ông bà và ba anh chị em của tôi sơ tán về quê bà nội ở thôn Đôn Thư, xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Hàng ngày, bà nấu cơm cho ông và các cháu ăn. Ông nghiện thuốc lá, thỉnh thoảng uống rượu. Nhất là lúc có chuyện gì bận tâm, ông lại nhâm nhi chén rượu.
Một hôm, ông dọn cái mâm ra, mang một chai nước trắng rót ra chén, giả vờ ông cháu uống rượu để... trêu bà. Ông bảo các cháu ngồi vòng tròn, đưa cho mỗi đứa một chén. Lúc bà từ nhà bếp đi lên, thấy ông ngồi uống “rượu”, bà nghĩ, hôm nay có chuyện gì đây? Bà nhìn kỹ, thấy mỗi cháu một chén, bà “tá hoả” kêu lên: “Trời đất, ông lại còn đầu độc chúng nó nữa à?”. Ông giả vờ nghiêm nét mặt, bảo: “Bà! Tôi có việc suy nghĩ, tôi phải uống”. Bà nói: “Thế nhưng sao ông lại cho chúng nó uống ruợu?”. Ông làm bộ bực mình bảo: “Bà nói nữa, tôi đổ hết rượu bây giờ”. Nói rồi, ông đùng đùng đứng dậy, đổ hết “rượu”. Bà sợ quá. Lũ trẻ chúng tôi không nhịn được nữa, cười phá lên. Lúc này bà mới biết ông... trêu bà!

Ông làm bà... hỉ hả
Tính ra, nhà văn Nguyễn Công Hoan phải vào nằm viện vài đợt. Khi nằm viện, ông cũng có phần áy náy về vợ ông. Chả là sau khi ông xuất bản cuốn tự thuật “Đời viết văn của tôi”, bà đọc mãi mà chẳng thấy ông nhắc gì tới bà. Bà buồn lắm. Đang nằm trên giường bệnh, một hôm ông tâm sự với bà: “Bà biết không, đời tôi mà nếu không gặp bà thì không thể viết văn được cho đến bây giờ. Cho nên trong sự nghiệp của tôi có một nửa của bà”. Nghe ông nói thế, bà cảm động rơi nước mắt. Bà vui và hỉ hả lắm.


Nguyễn Công Mỹ


Nguyễn Công Mỹ(1909 - 1949)
Người làng Xuân Cầu xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Xuân Cầu là một làng văn hiến ở cạnh quốc lộ 5 và có nhiều người đến làm ăn sinh sống ở nội thành Hải Phòng sống khá đông ở khu chợ Con. Gia đình Nguyễn Công Mỹ cũng vậy, em ông là Nguyễn Công Bồng, đảng viên cộng sản dạy ở trường Tổng sư Đại Lộc, trường Tiểu Bàng (Kiến Thuỵ) từ 1937-1943. Cháu ông là Nguyễn Tài Khoái (Tĩnh) tham gia thành uỷ Hải Phòng sau cách mạng thành công. Dòng họ Tô làng Xuân Cầu cũng có nhiều người hoạt động cách mạng nổi tiếng gắn bó với Hải Phòng như Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, anh em Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Mỹ, Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng đều được gia đình chăm lo dạy dỗ, cho ăn học, mặc dù nhà nghèo, có khi phải dựa vào ông bác ruột làm quan.
Nguyễn Công Mỹ học ở Hải Phòng năm 1925 tham gia biểu tình đòi tha nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Năm 1930 đang học năm thứ tư trường Sư phạm Hà Nội bị đuổi học vì tham gia hoạt động cách mạng. Sau đó ông về dạy tư ở nội thành Hải Phòng và tiếp tục hoạt động. Là nhà giáo đức độ, tài năng, ham hoạt động nên có uy tín, ảnh hưởng rộng. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông được Đảng phân công hoạt động công khai, ông đã cùng các thầy giáo Nguyễn Hữu Tảo, Lê Xuân Phùng cộng tác với Vũ Quí tổ chức Hướng Đạo Sinh Hải Phòng đi vào con đường hoạt động yêu nước. Khi bầu cử hội đồng thành phố, Thành Đảng bộ Cộng sản Hải Phòng đã chọn Nguyễn Công Mỹ ra tranh cử với đốc tờ Đệ. Lúc này theo chủ trương của Đảng, Nguyễn Công Mỹ hoạt động công khai trong hội Ánh Sáng và đã thay Bùi Vũ Trụ làm trưởng ban Uỷ ban chống nạn thất học. Với hoạt động xã hội rộng rãi nên Nguyễn Công Mỹ có ảnh hưởng sâu rộng, nhưng do chính quyền Pháp tổ chức bầu cử gian lận nên đốc tờ Đệ đã thắng. Ngày công bố kết quả bầu cử, thanh niên công nhân đã công kênh rước Nguyễn Công Mỹ trước quảng trường toà Đốc lý, hô vang khẩu hiệu đòi tự do dân chủ. Tháng 5/1938. Hội Truyền bá quốc ngữ thành lập, cơ sở của hội ở Hải Phòng-Kiến An lần lượt ra đời và là những nơi có phong trào mạnh của Bắc Kỳ lúc ấy. Nguyễn Công Mỹ đảm nhiệm công tác trưởng ban cổ động.


Cánh mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Công Mỹ giữ chức Uỷ viên tư pháp trong Uỷ ban nhân dân cách mạng thành phố. Ngày 8/9/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, Nguyễn Công Mỹ nguyên trưởng ban Uỷ ban chống nạn thất học học của Thành uỷ Hải Phòng, được bổ nhiệm chức Tổng giám đốc Nha. Nhiệm vụ chống nạn thất học là một trong ba quốc sách hàng đầu của nhà nước cách mạng non trẻ và được Bác Hồ đặc biệt quan tâm. Vừa nhận nhiệm vụ, ông đã bắt tay chuẩn bị xây dựng bộ máy, chương trình, nội dung, sách giáo khoa, nguồn giáo viên, học viên... Ngày 17/9/1945, ông chủ trì hội nghị cán bộ toàn Nha để bàn và thông qua kế hoạch.
Với kinh nghiệm hoạt động chống thất học và vận động thanh niên ở Hải Phòng thời kỳ bí mật, Nguyễn Công Mỹ đã cùng đồng sự dựa vào chính quyền các cấp hoạt động tích cực. Chỉ một năm sau ngày 8/9/1946 cả nước đã có 2.520.678 học viên, 95.665 giáo viên, 74.957 lớp học, do nhân dân, giáo viên, học viên tự nguyện tự giác tham gia. Rồi kháng chiến nổ ra ở Miền Nam đến 19/12/1946 lan ra toàn quốc, nhưng phong trào diệt dốt vẫn duy trì phát triển khắp nước không chỉ ở vùng tự do, vùng du kích mà cả nhiều nơi để vùng địch tạm chiếm.
Đến tháng 6/1950, cả nước đã có trên 10 triệu người thoát nạn mù chữ, 10 tỉnh, 80 huyện, 1424 xã, 7248 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Cũng năm này, Quốc hội họp kỳ II đánh giá: Cũng như thành tích chống giặc ngoại xâm và thành tích chống giặc đói, thành tích bồi dưỡng học viên chống giặc dốt rất là vĩ đại....... Những thành tích vĩ đại trên có phần đóng góp to lớn của người Tổng giám đốc Nha đầu tiên, nhà giáo cách mạng Nguyễn Công Mỹ, mặc dù ngày 6/1/1949 ông đã hi sinh khi đi công cán.







Một làng quê có năm đại biểu dự Ðại hội lần thứ II của Ðảng

Sunday, February 3, 2013



_ Tạ Quang Dũng _
Ðại hội II của Ðảng diễn ra từ ngày 11 đến 19-2-1951, giữa núi rừng Việt Bắc, tại xã Vinh Quang (Chiêm Hóa, Tuyên Quang). Trong số 158 đại biểu chính thức về dự đại hội, làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang, Hưng Yên) vinh dự có năm người là đại biểu tham dự. Ðây là niềm tự hào của bao thế hệ cán bộ, đảng viên và người dân Xuân Cầu.



Từ sự kiện hiếm có trong lịch sử Ðảng

Chúng tôi may mắn được gặp đồng chí Nguyễn Văn Trân, nguyên Bí thư T.Ư Ðảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội, là một trong hai đại biểu tham dự Ðại hội II của Ðảng hiện còn sống. Mặc dù đã 97 tuổi, nhưng đồng chí vẫn nhớ rất rõ những kỷ niệm về Bác Hồ và Ðại hội II của Ðảng. Ðồng chí nhớ lại: Ðại hội II là Ðại hội đầu tiên sau khi Ðảng ta giành được chính quyền toàn quốc trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và trở thành Ðảng cầm quyền, lãnh đạo cuộc kháng chiến cứu nước lần thứ nhất. Ðây cũng là lần đầu Ðảng ta, sau những năm rút vào hoạt động bí mật, ra hoạt động công khai với tên gọi mới - Ðảng Lao động Việt Nam. Nhiệm vụ chính của Ðại hội là đưa kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn và xây dựng Ðảng Lao động Việt Nam. Chủ đề này của Ðại hội đã được nêu bật trong Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc cũng như trong Luận cương Cách mạng Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày. Ðại hội II thể hiện một cách sâu sắc bản lĩnh chính trị, tầm trí tuệ, tinh thần cách mạng, dân chủ kỷ luật và đoàn kết, thống nhất trong Ðảng... Ấn tượng đặc biệt đối với tôi là những phút giải lao trong những ngày diễn ra Ðại hội. Trong không khí phấn khởi và chân tình, Bác Hồ đã tới chia sẻ, hỏi thăm, động viên các đại biểu về dự Ðại hội.

Ðại hội II của Ðảng với sự tham dự của 158 đại biểu chính thức, đại diện các lớp đồng chí từ ngày Ðảng mới thành lập trên mọi miền Tổ quốc. Trong số các đại biểu tham dự Ðại hội lần này có năm đại biểu là người con làng Xuân Cầu, gồm các đồng chí: Lê Văn Lương (tên thật là Nguyễn Công Miều), Tô Quang Ðẩu, Lê Giản (Tô Gĩ), Tô Duy, Trần Bình (Nguyễn Thưởng). Theo đồng chí Nguyễn Văn Trân, một làng quê mà có đến năm người là đại biểu cùng dự một kỳ Ðại hội là sự kiện hiếm có trong lịch sử Ðảng ta. Ðồng chí Trân kể: "Tại Ðại hội II của Ðảng, đồng chí Lê Văn Lương được bầu vào BCH T.Ư, được T.Ư bầu làm Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị. Tôi có nhiều dịp làm việc và trò chuyện với các đồng chí này, nhất là đồng chí Lê Văn Lương trong những năm giúp việc Bác Hồ. Họ là những chiến sĩ cộng sản kiên trung, một lòng, một dạ theo Ðảng và sau này đã trở thành những cán bộ cao cấp của Ðảng, Nhà nước".



Vùng quê giàu truyền thống

Từ xa xưa, Xuân Cầu (trước đây có tên là Hoa Kiều, Hoa Cầu, Huê Cầu) vốn là miền đất nổi tiếng không chỉ có nhiều người kiệt xuất mà còn là mảnh đất cửa ngõ phía đông của kinh thành Thăng Long xưa. Xuân Cầu án ngữ cả đường thủy và đường bộ lai kinh của hào kiệt trấn Ðông và là đường đi trấn giữ vùng Hải Ðông, có cửa biển Vân Ðồn giao thương với bên ngoài của Nhà nước phong kiến Ðại Việt. Làng Xuân Cầu có tên trong "Dư Ðịa Chí" (1435) của Nguyễn Trãi.

Trong suốt chiều dài lịch sử, vùng đất này luôn sản sinh ra những danh nhân, những nhà khoa bảng cho đất nước. Xuân Cầu có đến 12 người thi đỗ đại khoa trong các triều đại phong kiến, nhất là dòng họ Nguyễn và họ Tô. Thuộc dòng họ Nguyễn, có cụ Nguyễn Hằng đỗ tiến sĩ năm 1586, Nguyễn Tính đỗ tiến sĩ năm 1640, Nguyễn Hành đỗ tiến sĩ năm 1688, Nguyễn Gia Cát đỗ tiến sĩ năm 1787... Ðối với dòng họ Tô, có cụ Tô Trân đỗ tiến sĩ năm 1826, Tô Ðăng đỗ cử nhân năm 1867, Tô Huân đỗ phó bảng năm 1868, Tô Ngọc Huyền đỗ cử nhân năm 1825, Tô Ngọc Nữu đỗ cử nhân năm 1850... Ðầu thế kỷ 20, làng Xuân Cầu lại xuất hiện nhà văn lớn Nguyễn Công Hoan, với nhiều tác phẩm văn học có giá trị lớn, đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn học Việt Nam và Tô Ngọc Vân - họa sĩ bậc thầy trong làng hội họa nước ta, người đầu tiên được vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bắc Bộ Phủ năm 1954...

Xuân Cầu là một làng quê giàu truyền thống cách mạng, với những người con ưu tú, những chiến sĩ cộng sản kiên trung như: Tô Hiệu, Tô Chấn, Lê Văn Lương (tức Nguyễn Công Miều), Tô Quang Ðẩu, Tô Gĩ (Lê Giản), Tô Duy... Tấm gương liệt sĩ Tô Hiệu sáng mãi trong lịch sử dân tộc ta, với tinh thần lạc quan cách mạng. Tấm gương về bản lĩnh và khí phách cách mạng của đồng chí Lê Văn Lương. Trong suốt 15 năm lao tù, trong đó có 11 năm bị giam giữ tại nhà tù Côn Ðảo, nơi được coi là địa ngục trần gian, nhưng đồng chí luôn giữ vững khí tiết cách mạng, phẩm chất người cộng sản kiên trung, biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng...



Từ trái qua phải:  Ðồng chí Tô Duy, Lê Giản, Lê Văn Lương, Trần Bình, Tô Quang Ðẩu tại Ðại hội Ðảng lần thứ II (1951) ở Việt Bắc.      Ảnh Tư liệu .
Từ trái qua phải: Ðồng chí Tô Duy, Lê Giản, Lê Văn Lương, Trần Bình, Tô Quang Ðẩu tại Ðại hội Ðảng lần thứ II (1951) ở Việt Bắc. Ảnh Tư liệu.



Phát huy truyền thống quê hương

Cụ Tô Hiểu, 87 tuổi đời, 66 năm tuổi Ðảng nhớ rất rõ những kỷ niệm khi được chứng kiến tình cảm của đồng chí Lê Văn Lương với quê hương Xuân Cầu. Mặc dù hoạt động cách mạng xa quê, nhưng đồng chí vẫn luôn hướng về quê hương. Ðồng chí Lê Văn Lương trực tiếp về đổ móng xây dựng nhà truyền thống của xã Nghĩa Trụ tại làng Xuân Cầu, khánh thành cây cầu nối xã với quốc lộ 5... Trong câu chuyện thường ngày, cụ Tô Hiểu vẫn hay kể cho con, cháu nghe về truyền thống quê hương, cụ cho biết: "Xuân Cầu tự hào vì có năm người con là đại biểu dự Ðại hội II của Ðảng và điều đặc biệt nữa là năm đại biểu ấy đều là những người con ưu tú của dòng họ Nguyễn và họ Tô ở Xuân Cầu. Xuân Cầu còn tự hào có bốn người con ưu tú được đặt tên đường phố lớn ở Hà Nội: Lê Văn Lương, Tô Hiệu, Nguyễn Công Hoan, Tô Ngọc Vân. Thời nào Xuân Cầu cũng có những người con ưu tú và thế hệ trẻ Xuân Cầu hôm nay cần phải tiếp nối truyền thống văn hóa, cách mạng của quê hương".

Năm 2012 đối với người dân Xuân Cầu có ý nghĩa đặc biệt, là năm Tỉnh ủy Hưng Yên tổ chức trọng thể lễ kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Tô Hiệu và đồng chí Lê Văn Lương. Ðây cũng là dịp để thế hệ trẻ làng Xuân Cầu ôn lại truyền thống cách mạng của quê hương. Bí thư Ðoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Nghĩa Trụ Lê Văn Thành cho biết: "Hằng năm, chúng tôi thường tổ chức lễ dâng hương tại nhà thờ các đồng chí Tô Hiệu, Lê Văn Lương. Ðến đây, chúng tôi có dịp ôn lại truyền thống của quê hương và nhất là tấm gương của những nhà cách mạng tiền bối. Ðiều đó thôi thúc lớp trẻ của Xuân Cầu hôm nay phải nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong lao động, sản xuất, học tập để xứng đáng với truyền thống của các thế hệ đi trước. Những năm qua, Ðoàn thanh niên xã tích cực tham gia vào thực hiện có hiệu quả việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực".

Trong những năm đổi mới, xã Nghĩa Trụ cũng như thôn Xuân Cầu, đã có nhiều đổi thay theo hướng tích cực. Bộ mặt nông thôn ngày càng khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Tại thôn Xuân Cầu, Quỹ khuyến học của các dòng họ Tô và họ Nguyễn rất phát triển nhằm động viên con em nỗ lực học tập. Hằng năm, Xuân Cầu có 40-50 em thi đỗ các trường đại học. Bí thư Ðảng ủy xã Nghĩa Trụ Lê Ðức Dân phấn khởi cho chúng tôi biết: Cùng với việc tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, Ðảng bộ xã luôn quan tâm công tác xây dựng Ðảng. Trong nhiều năm liền, Nghĩa Trụ được Tỉnh ủy Hưng Yên công nhận là Ðảng bộ trong sạch, vững mạnh, được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 2012, Ðảng bộ xã đẩy mạnh triển khai thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XI) về xây dựng Ðảng, gắn với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng những việc làm thiết thực như các phong trào xây dựng quỹ "Tình đồng đội" của Hội Cựu chiến binh, xây dựng gia đình "bốn chuẩn mực" của Hội Phụ nữ, tri ân các anh hùng, liệt sĩ của Ðoàn Thanh niên xã...

Tự hào là một vùng quê có truyền thống yêu nước và cách mạng người dân Xuân Cầu đều nhận thức được trách nhiệm để truyền thống ấy tiếp tục tỏa sáng, có nhiều đóng góp cho quê hương, đất nước.


 ✯✯ 




Khánh thành chùa Xuân Cầu

Thursday, April 19, 2012
_ Cẩm Vân _
Sáng ngày 18 tháng 03 năm 2012 tại chùa Xuân Cầu – thôn Tam Kỳ - Phúc Thọ - Hưng Yên đã long trọng tổ chức lễ Khánh thành chùa Xuân Cầu.

Tham dự và chứng minh buổi lễ có
chư Tôn đức giáo phẩm Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN);
HT. Thích Thanh Dũng – Thành viên HĐCM GHPGVN;
HT. Thích Thanh Nhiễu Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hòa thượng Thích Thanh Nhiễu (1952- nay) là một trong những lãnh đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam,[1] Ông hiện là Phó chủ tịch thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trụ trì chùa Bái Đính (Ninh Bình).[2]

Thân thế
Sư thế danh là Vũ Đức Chính, sinh năm 1952 tại Nam Trực, Nam Định.[3] Năm 11 tuổi, sư xuất gia tu hành tại chùa Nhất Trụ (Ninh Bình) và thọ Đại giới vào năm 20 tuổi.

Hoạt động Đạo - Đời
Sau Hội nghị thống nhất các tông phái Phật giáo Việt Nam để thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào năm 1981, Sư được cử làm nhân viên Văn phòng I Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Tham gia lãnh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Từ năm 1987, Sư được Trung ương Giáo hội cử làm Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự kiêm Phó Văn phòng I. Trong giai đoạn 1997-2007, Sư đảm nhiệm chức Phó Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự kiêm Chánh Văn phòng I Trung ương Giáo hội.

Tại Đại hội VI của Giáo hội Phật giáo Việt Nam diễn ra tại thủ đô Hà Nội vào năm 2007, Sư được suy cử đảm nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự.

Tại Hội nghị Thông qua việc giới thiệu Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu đảm nhiệm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng trị sự, ngày 26 tháng 12 năm 2011 tại thành phố Hồ Chí Minh, Với 100% phiếu thuận, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã chính thức thông qua việc giới thiệu Thượng tọa Thích Thanh Nhiễu đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ tịch Thường trực hội đồng trị sự thay thế Trưởng lão hòa thượng Thích Thanh Tứ - nguyên Phó Chủ tịch Thường trực HĐTS đã viên tịch.[4]
– Phó chủ tịch thường trực HĐTS GHPGVN;
Nhị vị tôn đức Phó chủ tịch HĐTS GHPGVN
HT. Thích Thiện Nhơn
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn

HT.TS Thích Thiện Nhơn hiện là Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Trong các nhiệm kỳ trước, Hòa thượng từng đảm nhiệm các chức vụ:
Phó ban Trị sự - Chánh Thư ký Thành hội Phật giáo TP.HCM,
Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phật học,
Phó ban Hoằng pháp TƯ và nhiều chức vụ quan trọng khác.

Hòa thượng là tác giả của vài chục tác phẩm Phật học có giá trị, vừa là nhà giáo dục - hoằng pháp vừa là nhà hành chính Phật giáo.

Theo Đạo Phật Ngày Nay
– Tổng thư ký HĐTS GHPGVN;
HT. Thích Bảo Nghiêm
Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm

TT.Thích Bảo Nghiêm thế danh Đặng Minh Châu Sinh ngày 27/12/1956 tại xã Vũ Lăng, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Hiện là Phó chủ tịch HĐTS, Trưởng ban Hoằng Pháp TW.GHPGVN, Trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư - số 50 phố Lý Quốc Sư quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. www.chuabang.com

Sinh ra và lớn lên trong gia đình cách mạng, bố là Đảng viên, bác sỹ Bệnh viện tỉnh Thái Bình, mẹ là Y tá Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam Bungari tỉnh Thái Bình. Từ nhỏ sống, đi học văn hóa với bố mẹ ở xã Nhân Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Do nhà gần chùa nên sớm tối lui tới chùa lễ Phật và mến mộ đạo Phật. Năm 1971 xin phép cha mẹ xuất gia tu tại chùa Diên Phúc thôn Nam Hà, xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.

+ Năm 1972, được tu học tại Trường tu học Phật Pháp Trung Ương. Năm 1981 – 1985 học tại trường cao cấp Phật Học Việt Nam khoá I ( nay là Học viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội- chùa Quán Sứ Hà Nội). Trong kỳ thi tốt nghiệp là một trong 6 vị tăng ni sinh xuất sắc đỗ loại ưu.
+ Tháng 2/1986 được Giáo hội bổ nhiệm công tác và lưu trú Tại văn phòng Thành Hội Phật Giáo Hà Nội ( chùa Bà Đá số 3 phố Nhà thờ Hà Nội.
+ Tháng 11/1987 tại Đại hội Phật Giáo Hà Nội lần thứ II được cử chánh Văn Phòng ban trị sự Thành Hội.
+ Tháng2/1989 được Ban giám hiệu mời làm giảng sư và Thư Ký trường Cơ bản Phật học Hà Nội.
+ Tháng 3/1992 Thành hội bổ nhiệm trụ trì Chùa Lý Triều Quốc Sư - số 50 phố Lý Quốc Sư Hà Nội.
+ Tháng 4/1992 Đại hội Thành hội Phật Giáo Hà Nội nhiệm kỳ III được cử giữ chức Chánh Thư Ký kiêm Chánh Văn Phòng Thành Hội Phật Giáo Hà Nội.
+ Tháng 2 năm 1992 được bổ nhiệm trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư tại số 50 đường Lý Quốc Sư, Hà Nội.
+ Tháng 11/1992 Đại hội Phật Giáo Việt Nam lần thứ III được cử thành viên Hội đồng trị sự Trung Ương, Chánh thư ký Ban hướng dẫn nam nữ Phật tử Trung Ương.
+ Năm 1993 Ban giám hiệu Trường Cao cấp Phật Học Việt Nam thỉnh mời làm giảng sư của Trường.
+ Năm 1994 Đại hội Mặt trận Tổ Quốc Thành phố Hà Nội được tham gia Uỷ Viên Uỷ ban khoá 12 và Uỷ vên Uỷ ban Mặt trận Tổ Quốc quận Hoàn Kiếm.
+ Năm 1994 tham gia Uỷ viên Uỷ ban Hoà bình Thành Phố Hà Nội.
+ Ngày 02.06.1996: Được bổ nhiệm trụ trì chùa Linh Tiên Tự hay còn gọi là Chùa Bằng A. tại Phường Hoằng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
+ Tháng 8/1997: Đại hội kỳ IV Thành hội Phật Giáo Hà Nội được tái cử Chánh thư ký kiêm Chánh Văn phòng Thành Hội.
+ Tháng 11/1997 Đại hội lần thứ IV GPGVN được suy cử trong Ban Thường trực kiêm Uỷ viên kiểm soát Hội đồng Trị sự GHPGVN, Phó ban Hoằng Pháp Trung ương, Phó thư ký Ban Giáo Dục Tăng Ni Trung ương. Tại Đại hội này đã được Giáo Hội tấn phong Giáo Phẩm Thượng Toạ.
+ Tháng 12/1997 Ban trị sự Thành Hội cử chức Phó hiệu trưởng kiêm Giáo Vụ Trường cơ bản Phật học Hà Nội.
+ Tháng 2/1999, được bổ nhiệm trụ trì Chùa Cảm Sơn tại Phường Đại Lài, TP Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
+ Tháng 8/1999 Đại hội Mặt trận Tổ Quốc Thành Phố Hà Nội chức lần thứ 13, được tái cử Uỷ viên Uỷ ban và là Uỷ viên UBMTTQ quận Hoàn Kiếm và phường Hàng Trống(đương nhiệm).
+ Giới đàn Phật Giáo Hà Nội được tổ chức hàng năm sau khoá hạ an cư, được thỉnh làm điển lễ và giới sư các giới đàn.
+ Năm 2001 là ủy viên hội bảo tồn di sản văn hóa Thăng Long Hà Nội.
+ Năm 2002: là Phó Ban thường trực Ban trị sự Thành hội Phật Giáo Hà Nội - nhiệm kỳ 5.
- Tại Đại Hội Đại biểu Phật Giáo toàn quốc của GHPG Việt Nam lần V, được cử làm Ủy viên Thư ký Hội Đồng trị sự GHPG Việt Nam nhiệm kỳ 2002 - 2007, kiêm Phó trưởng Ban Hoằng Pháp Trung Ương.
+ Năm 2004: Tái đắc cử Hội đồng nhân dân Thành phố Hà Nội khóa 13 nhiệm kỳ 2004 - 2009 và tái đắc cử là ủy viên Ủy ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Thành Phố Hà Nội khoá 14 nhiệm kỳ 2004 - 2009.
+ Năm 2005: được cử làm Trưởng Ban đại diện Phật Giáo tỉnh Hà Tĩnh.
+ Năm 2006: vào Tháng 7, được mời làm Phó viện trưởng Học viện PG Việt Nam tại Hà Nội, phụ trách giáo dục đào tạo và công tác của sinh viên.
+ Năm 2007: là ủy viên Ban Chấp hành TW Hội Chữ Thập Đỏ khóa 8. Tại Đại Hội Đại Biểu Phật Giáo Tỉnh Hà Tĩnh lần I tổ chức vào Tháng 8, được suy cử làm Trưởng Ban Trị sự tỉnh Hà Tĩnh. Cũng trong Tháng 8, được suy cử làm Phó Chủ tịch Ủy Ban Hòa bình TP Hà Nội.
- Tháng 9: Tại Đại Hội VI của Thành Hội PGHN được suy cử là Phó trưởng Ban thường trực Hội Đồng Trị Sự Thành Hội PG Hà Nội nhiệm kỳ 2007 - 2012.
- Tháng 10: được cử làm Phó CT Ủy Ban Quốc Tế Phật Đản của Việt nam ( IOC).
- Tháng 12: tại Đại Hội VI của GHPG Việt Nam, được suy cử làm Phó Chủ Tịch Hội Đồng Trị Sự TW GHPG Việt nam kiêm Trưởng Ban Hoằng Pháp TW GHPG Việt Nam nhiệm kỳ 2007 - 2012.
+ Năm 2008: Vào trung tuần Tháng 2 năm 2008, Thủ tướng Chính Phủ cử làm Ủy viên Ban điều phối Đại Lễ Phật Đản LHQ tại Việt Nam kiêm Trưởng ban trang trí khánh tiết tại Đại Lễ.
Tháng 12, Tại Hội Nghị Hợp nhất Phật Giáo Hà Nội và Hà Tây được cử làm Trưởng Ban trị sự Thành Hội PG Hà Nội mới.
+ Năm 2009: vào tháng 4 là Trưởng phái đoàn Đại biểu của GHPG Việt Nam đi Hoằng Pháp tại các nước Châu Âu.
+ Từ năm 2000 đến nay, là Giới sư các Giới Đàn của Thành Hội PG Hà Nội tổ chức (mỗi năm một đàn). Kiêm Giới sư của các Giới đàn tỉnh Vĩnh Phúc, Tỉnh Hà Nam, Thanh Hóa. Là giảng sư Trường Trung cấp Phật Học Hà Nội, Hà Tây, Hải Dương, Nam Định khóa I, II. Là Giảng sư Học viện PG Việt Nam khóa 3 đến khóa 6.

+ Từ năm 1988 đến năm 1992: là giáo viên giảng dạy Phật Pháp tại Trường Đại học Văn Hóa Hà Nội. Cũng là vị tu sỹ đầu tiên làm giảng viên dạy Phật Pháp tại trường Quốc gia hệ Đại học.

- Các phần thưởng, bằng khen trong quá trình làm công tác Phật sự và Hoằng Pháp:
- được nhiều bằng tuyên dương công đức của GHPG Việt Nam
- 2 Bằng khen của Thủ Tướng Chính Phủ: trong đó
1 kỷ niệm chương của UB Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam
1 cúp vàng Vì Sự Phát Triển của Cộng Đồng.(Năm 2010)
- 01 Bằng khen của Hội Đồng Nhân Dân TP Hà Nội
- 04 Bằng khen của Chủ tịch UB Nhân Dân TP Hà Nội và Bằng khen của UB MT Tổ Quốc TP Hà Nội.
- 01 huy chương Vì Hòa Bình Hữu Nghị giữa các Dân Tộc của Đoàn Chủ Tịch Liên Hiệp các tổ chức Hữu Nghị Việt Nam tặng.

Trong quá trình công tác, chúng tôi luôn hoàn thành nhiệm vụ với trách nhiệm của một tu sĩ Phật Giáo, hoạt động theo phương châm của Giáo Hội “Đạo pháp dân tộc, Chủ nghĩa xã hội”.

Theo Đại Đức Giảng sư
– Trưởng Ban hoằng pháp TW;
HT. Thích Gia Quang – Phó tổng thư ký HĐTS GHPGVN
cùng Tăng Ni BTS Tỉnh hội Phật giáo Hưng Yên và đông đảo tín đồ Phật tử.

Tới dự có Trung tướng Tô Lâm – Thứ trưởng Bộ công an
cùng các vị lãnh đạo đại diện các cơ quan ban ngành Trung ương và địa phương cùng về tham dự.

Sau nghi lễ niệm hồng danh đức Bản sư, ĐĐ. Thích Thanh Quang tuyên bố lý do giới thiệu thành phần tham dự.

Tại buổi lễ ông Lê Minh Đức – thay mặt UBND xã Nghĩa Trụ đọc diễn văn khai mạc:

Được biết chùa Xuân Cầu có lịch sử từ lâu đời, năm 1954 đã bị chiến tranh phá hủy, nhân dân không còn nơi thờ cúng, từ năm 2010 chùa xây dựng lại ngôi Tam bảo, nhà Tổ, nhà mẫu khang trang, tôn nghiêm.


Tổng kinh phí xây dựng chùa hơn 8 tỷ đồng. Chùa được hoàn thiện trong 3 năm, đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng dân dân tại địa phương.

Làng Xuân Cầu là quê hương của các nhà cách mạng, Tô Hiệu, Tô Chấn, Lê Văn Lương, Lê Giản (Tô Dĩ)… quê hương của nhà văn Nguyễn Công Hoan, họa sỹ nổi tiếng Tô Ngọc Vân…. Phát huy truyền thống yêu nước, nhân dân làng Xuân Cầu luôn đoàn kết hòa hợp, chấp hành tốt luật pháp, thực hiện nếp sống văn hóa mới.

Tại buổi lễ, Sư cô Thích Đàm Lương – Trụ trì chùa Xuân Cầu phát biểu bày tỏ sự tri ân đối với các cơ quan đoàn thể, các cấp lãnh đạo, nhà hảo tâm và các quý vị Phật tử đã phát tâm công đức xây dựng chùa cảnh được khang trang để trở thành trung tâm văn hóa tín ngưỡng cho nhân dân địa phương. Cũng trong dịp này Sư cô đã vinh dự đón nhận những lẵng hoa và phẩm vật của chư tôn đức Giáo phẩm cùng các vị lãnh đạo đại diện các cơ quan ban ngành trao tặng.

Cuối buổi lễ HT. Thích Thiện Nhơn
Hòa thượng Thích Thiện Nhơn

HT.TS Thích Thiện Nhơn hiện là Phó Chủ tịch – Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự GHPGVN.

Trong các nhiệm kỳ trước, Hòa thượng từng đảm nhiệm các chức vụ:
Phó ban Trị sự - Chánh Thư ký Thành hội Phật giáo TP.HCM,
Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phật học,
Phó ban Hoằng pháp TƯ và nhiều chức vụ quan trọng khác.

Hòa thượng là tác giả của vài chục tác phẩm Phật học có giá trị, vừa là nhà giáo dục - hoằng pháp vừa là nhà hành chính Phật giáo.

Theo Đạo Phật Ngày Nay
ban đạo từ, chúc mừng ngày khánh thành chùa Xuân Cầu, Hòa thượng đã động viên phật tử và nhân dân địa phương thực hiện tốt phương châm Đạo pháp – Dân tộc góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.


 ❧ ❀ ❧