Làng Xuân Cầu tổ chức tưởng niệm 762 năm ngày hóa đức Thành hoàng làng

Sunday, September 2, 2018

Làng Xuân Cầu tổ chức tưởng niệm 762 năm ngày hóa đức Thành hoàng làng

Video Dat Tuan





Nguồn: YouTube 29 thg 5, 2018

Đại tá an ninh Nguyễn Tài và 2000 ngày đấu trí với CIA

Saturday, September 1, 2018

Đại tá an ninh Nguyễn Tài và 2000 ngày đấu trí với CIA

Lan Hương (thực hiện)

Từng bị bắt giam và tra tấn suốt 5 năm trời, được CIA coi là tù nhân quan trọng nhất và không chấp nhận đánh đổi với mọi giá, nhưng ngay cả những tên điệp viên sừng sỏ nhất của CIA tại Việt Nam, với đầy đủ ngón nghề tra tấn và hỏi cung lão luyện cũng không khuất phục được ông - Đại tá an ninh Nguyễn Tài - nguyên Thứ trưởng Bộ Công an.

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Lực lượng Công an nhân dân, Chuyên đề An ninh thế giới Giữa tháng - Cuối tháng xin được giới thiệu với độc giả về một con người là biểu tượng cho ý chí không thể khuất phục được của những người chiến sĩ công an.


Rơi vào tay CIA

Ngày 10/6/2002, tại TP Hồ Chí Minh, Bộ Công an đã tổ chức trọng thể lễ tuyên dương Anh hùng LLVTND thời chống Mỹ cho Đại tá an ninh Nguyễn Tài - nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan. Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi đó là người đã đề nghị Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho ông với hai lý do: Trung kiên bảo vệ Cách mạng trong nhà tù Mỹ - ngụy và dũng cảm bảo vệ nhân cách trong sáng của một Đảng viên trước nhân dân.

Ngày hôm đó, vợ ông - người đã luôn ở bên ông trong suốt chặng đường đấu tranh để chứng minh sự trong sạch của chồng mình, khi chứng kiến giờ phút ông được vinh danh, đã có một hành động khiến tất cả những người có mặt trong buổi lễ đó lặng người đi vì xúc động: Bà kính cẩn hôn lên chiếc huân chương Anh hùng LLVTND trên ngực ông và khóc. Khi đó ông “nạt” bà: “Sao lại khóc trong giờ phút này?”. Nhưng tất cả những người chứng kiến giây phút ấy đều hiểu lý do vì sao bà khóc. Bà khóc bởi để đi đến được ngày hôm nay, người chồng anh hùng của bà đã phải hi sinh xương máu, đã phải đấu tranh không mệt mỏi để bảo vệ lẽ phải, để đòi lại công lý và sự trong sạch cho bản thân mình.

Đại tá Nguyễn Tài tên thật là Nguyễn Tài Đông, sinh ngày 11/12/1926, là con trai của nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan. Cái tên Nguyễn Tài là tên ông lấy khi đi hoạt động cách mạng. Xuất thân trong một gia đình cách mạng, Nguyễn Tài đã sớm tham gia hoạt động trong Đoàn Thanh niên cứu quốc Hoàng Diệu từ hồi thanh niên. Tháng 3/1945, ông trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.

Có cha là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tài đã từng làm công tác biên tập và phụ trách in báo Nước Nam Mới (cơ quan của Khu giải phóng Tân Trào), sau đó là sáng lập viên của báo Công an Mới (tiền thân của báo Công an nhân dân ngày nay). Nhưng các nhà lãnh đạo Đảng sớm nhận ra tố chất của ông, nên đã đào tạo ông trở thành một sĩ quan an ninh gạo cội của lực lượng Công an Việt Nam.

31 tuổi, ông đã giữ chức Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị - một trong những cục có thể nói là quan trọng nhất của ngành Công an, với nhiệm vụ đập tan mọi hoạt động mang tính bí mật của các thế lực nhằm chống lại Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.

Năm 1964, Nguyễn Tài xung phong vào miền Nam chiến đấu. Thời điểm đó, ông là cán bộ miền Bắc có chức vụ cao nhất trong ngành Công an vào chiến trường miền Nam. Là một sỹ quan an ninh có trình độ nghiệp vụ cao, nên Nguyễn Tài rất được Bác Hồ tin tưởng. Nguyễn Tài từng theo bảo vệ Bác Hồ trong những chuyến Bác đi thăm các nước trên thế giới.

Nhiều người kể rằng khi biết tin Nguyễn Tài xung phong vào Nam, Bác Hồ đã gửi một bức điện vào chiến trường miền Nam với nội dung: “Chú Nguyễn Tài là tài sản quý của Đảng, mọi người phải bảo vệ chú ấy”. Năm 1964, Nguyễn Tài vào miền Nam bằng đường biển. Ông trở thành Trưởng ban An ninh T4 (Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định, tiền thân của Công an TP. HCM ngày nay), hoạt động với bí danh Tư Trọng.

Bà Nguyễn Thị Nghiêm - vợ của Đại tá Nguyễn Tài kể rằng, tuy là vợ chồng và có với nhau 4 mặt con, nhưng cho đến tận trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, bà không hề mảy may biết bất cứ một điều gì về công việc và nhiệm vụ của chồng. Tất cả những gì ông cho bà biết về ông là “một cán bộ công tác tại Bộ Công an”. Năm 1964, ông lên đường vào Nam chiến đấu rồi những năm sau này, cho đến trước khi ông bị bắt năm 1970, trong những bức thư ông gửi về thăm vợ con, ông cũng tuyệt đối không hé răng về nhiệm vụ của mình.

6 năm đầu vào Nam chiến đấu, đều đặn mỗi năm 2 - 3 lần, Nguyễn Tài đều gửi thư về nhà báo tin cho gia đình. Nhưng bắt đầu từ cuối năm 1970, thì gia đình nhà văn Nguyễn Công Hoan không còn nhận được tin con trai nữa. Bà Nguyễn Thị Nghiêm nhớ lại: “Suốt gần 1 năm trời không có tin của chồng tôi, dù không nói ra nhưng cả gia đình tôi đều đã linh cảm có chuyện không lành.

Đến cuối năm 1971 thì mẹ chồng tôi quyết định lên gặp đồng chí Trần Quốc Hoàn, khi đó là Bộ trưởng Bộ Công an, hỏi chuyện. Mẹ chồng tôi nói với Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn: “Gia đình tôi có rất nhiều người đi tù và hi sinh trong kháng chiến chống Pháp, chúng tôi đã quen chịu đựng nỗi đau này. Chúng tôi luôn chuẩn bị tinh thần đối mặt với tình huống xấu nhất và sẵn sàng chịu đựng nó. Vì thế nếu con trai tôi có chuyện gì không lành, xin anh cứ nói”.

Sau một hồi lâu cân nhắc, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn mới nói: “Đồng chí Nguyễn Tài không may bị địch bắt trong một chuyến công tác. Nhưng theo thông tin chúng tôi có được hiện nay, đồng chí Tài hiện vẫn an toàn”. Đó là một tin sét đánh đối với mẹ chồng tôi. Nhưng trước mặt Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, mẹ tôi đã bình tĩnh hết mức có thể: “Cảm ơn anh đã nói thật với gia đình. Chúng tôi hứa sẽ chỉ có 3 người lớn trong nhà chúng tôi biết điều này. Đây sẽ là bí mật đối với các cháu tôi”.

Tin Nguyễn Tài bị bắt là tin sét đánh đối với cha mẹ và vợ ông. Cả gia đình ông chuẩn bị tinh thần cho điều xấu nhất sẽ xảy ra, bởi dù không hề biết công việc ông làm, họ cũng lờ mờ cảm nhận được vai trò quan trọng của ông ở Bộ Công an. Khi đó Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn trấn an gia đình Nguyễn Tài rằng ông hiện vẫn an toàn và chưa lộ tung tích, nhưng sự thật thì giặc đã phát hiện ra ông là một “con cá lớn” mà chúng vô tình “kéo lưới” được và thực hiện đủ những thủ thuật tra tấn và hỏi cung nhằm khuất phục ông bằng mọi giá.

Ngày 23/12/1970, Nguyễn Tài bị địch bắt trên đường đi công tác với thẻ căn cước giả mang tên Nguyễn Văn Lắm. Khi bị phát hiện dùng thẻ căn cước giả, với bản lĩnh của một sĩ quan an ninh, Nguyễn Tài đã nhanh chóng vạch ra một “trò chơi nghiệp vụ” để đánh lạc hướng và gây rối cho quá trình điều tra, nhằm bảo vệ tuyệt đối cơ sở của Ban an ninh T4 cũng như quyết tâm không để địch phát hiện ra thân phận thật của ông.

Suốt 6 tháng đầu sau khi ông bị bắt, địch chỉ biết về ông theo những gì ông “bịa” ra: Đại úy Nguyễn Văn Hợp, sỹ quan tình báo hoạt động đơn tuyến, được cử vào miền Nam nhằm xã hội hóa, chờ ngày chiến tranh kết thúc thì sang hoạt động ở Pháp dưới vai trò phóng viên.

Nguyễn Tài bị đưa về số 3 Bạch Đằng - Trung ương Cục Tình báo của ngụy quyền Sài Gòn - nơi tập trung những tên tình báo sừng sỏ nhất của Mỹ - ngụy. Cục Tình báo của ngụy quyền Sài Gòn đã cho những tên hỏi cung chuyên nghiệp nhất đến hỏi cung ông, dùng máy kiểm tra nói dối đối với từng câu trả lời của ông, thậm chí còn gài người vào nhà tù, giả làm đồng chí đồng đội của ông để moi tin ông. Nhưng tất cả những thử thách đó của địch đều vô nghĩa với một sỹ quan an ninh kỳ cựu như Nguyễn Tài.

Sau 6 tháng trời lấy cung Nguyễn Tài, những tên tình báo sừng sỏ của ngụy quyền Sài Gòn hầu như đã bị Nguyễn Tài qua mặt. Bọn chúng có nằm mơ cũng không dám nghĩ rằng chúng đang có trong tay người lãnh đạo của Ban An ninh T4 và cũng là lãnh đạo cao nhất của Công an Việt Nam từ miền Bắc vào miền Nam chiến đấu.


Cuộc đấu trí trong xà lim của Trung ương Cục tình báo ngụy

Nguyễn Tài chỉ bị lộ vì một sự sơ suất đầy trớ trêu của số phận. Đúng vào lúc những tên tình báo ngụy ở Trung ương Tình báo ngụy quyền số 3 Bạch Đằng đã tin vào lời khai của ông, thì cũng là lúc địch vô tình thu giữ được một lá thư quan trọng khi bắt được Hai T. (một cán bộ công tác tại Ban An ninh T4).

Nội dung bức thư như sau đã được đồng chí Ba Tâm gửi cho Hai T: “Tìm Nguyễn Văn Lắm, bị bắt trên sông Cửu Long ngày 23/12/1970 hiện giam ở đâu để lo tiền chuộc”. Lấy làm lạ về lá thư này, địch đã cho người điều tra, bởi chúng thắc mắc tại sao một nhân viên tình báo hoạt động đơn tuyến lại được người của Ban An ninh T4 tìm chuộc. Cho người đi điều tra, địch phát hiện Ban An ninh T4 sẵn sàng bỏ ra vài triệu để chuộc người có cái tên Nguyễn Văn Lắm này.

Đến lúc này địch mới lờ mờ cảm nhận được Nguyễn Văn Lắm đã bị bắt và khai là Đại úy Nguyễn Văn Hợp - chắc chắn không thể là một sỹ quan tình báo bình thường mà phải là một nhân vật chóp bu của Ban An ninh T4, nên mới đáng để Ban An ninh T4 tha thiết chuộc với ngần ấy tiền. Với những nghi ngờ đó, cộng với việc Hai T. và một số cán bộ bị bắt không chịu được tra tấn đã phản bội, địch đã phát hiện ra Nguyễn Văn Lắm, tức Nguyễn Văn Hợp thực chất chính là Nguyễn Tài, tức Tư Trọng - Trưởng Ban An ninh T4, cái tên luôn nằm trong hồ sơ truy bắt ráo riết của ngụy quyền Sài Gòn.

Biết mình đã bắt được “con cá sộp”, Trung ương Cục tình báo của ngụy quyền Sài Gòn đã không bỏ lỡ cơ hội để tìm mọi cách moi tin từ Nguyễn Tài - người mà chúng gọi là “một trong những tên an ninh đầu sỏ của Việt cộng”.

Sau khi tìm mọi cách chụp trộm ảnh ông và cho những kẻ phản bội nhận diện ông, xác định được ông chắc chắn là Nguyễn Tài - Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị - Bộ Công an và Trưởng Ban An ninh T4, địch đã xây dựng một kế hoạch bài bản để moi thông tin của ông, từ việc điều tra nhân thân, đến việc sử dụng các biện pháp tra tấn về cả tinh thần lẫn thể xác. Những tên CIA Mỹ sừng sỏ nhất ở Việt Nam đích thân vào cuộc.

Trong hồi ký, Đại tá Nguyễn Tài kể, khi bắt đầu phát giác ra ông là Tư Trọng - Trưởng Ban An ninh T4 và là con trai của nhà văn Nguyễn Công Hoan, địch đã mang đến cho ông những cuốn tiểu thuyết và những cuốn sách có in ảnh cha ông - nhà văn Nguyễn Công Hoan, rồi mang cả tấm ảnh ông chụp với Bác Hồ trong chuyến đi thăm xứ Nam Dương. Sau khi đã “đánh bài ngửa” với ông, địch bắt đầu đối xử với ông theo cách mà chúng đương nhiên sẽ đối xử với một người tù là Đại tá an ninh.

Thời gian đầu, chúng mua chuộc ông bằng cách dùng bác sĩ kiêm nhân viên tình báo đến vừa khám bệnh, vừa đánh vào tâm lý. CIA Mỹ liên tục rót vào tai ông những lời dụ dỗ: “Nếu ông chấp nhận hợp tác với chúng tôi và nếu ông không thích sống trong nước nữa, ngay lập tức ông sẽ có 20 triệu USD và một căn biệt thự ở Thụy Sỹ, sống xa hoa suốt đời như một triệu phú”, nhưng ông từ chối.

Mỗi ngày ông đều bị đưa lên hỏi cung. Giờ hỏi cung khác nhau, không kể đêm ngày. Mục đích của CIA là làm ông rối loạn. Chúng bắt ông nhịn ăn, nhịn uống và giam ông trong một căn phòng sơn trắng toát, có luồng không khí lạnh buốt và không có không khí để thở khiến đầu óc ông rối loạn, không ngủ được. Căn phòng đó luôn bị CIA giám sát 24/24 bằng một máy camera hồng ngoại được đặt bí mật trên trần nhà. Bị thiếu ăn, lại sống trong điều kiện khắc nghiệt, mất ngủ, cộng với việc thường xuyên bị hỏi cung khiến đã có những lúc đầu óc ông luôn ở trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê. Nhưng Nguyễn Tài đã rèn cho mình một bản lĩnh thép. Lúc bình thường khi không bị hỏi cung, ông luôn mê mê tỉnh tỉnh. Nhưng cứ lúc bị CIA gọi lên, ông lại tỉnh táo lạ kỳ và đối đáp trơn tru trước sự thẩm vấn của chúng.

Sợ CIA sẽ tiêm các loại thuốc khiến mình mất kiểm soát, ông còn tập cho mình nói câu “quên”, “quên rồi” để đề phòng ngay cả lúc nửa tỉnh nửa mê ông vẫn có thể nói câu “quên rồi”. Có những đợt nhiều tháng trời, CIA hỏi câu nào, từ hoạt động cách mạng đến tổ chức của ngành Công an và các bí mật nghiệp vụ, Nguyễn Tài cũng chỉ trả lời duy nhất có một câu: ‘Quên rồi”.

Khi nhận ra kế hoạch “bàn tay nhung” không hiệu quả với một sỹ quan an ninh kỳ cựu như Nguyễn Tài, CIA đã dùng đến những biện pháp tra tấn dã man nhất. Đêm nào chúng cũng đánh ông 4 - 5 trận như thế, vừa tra tấn về thể xác, vừa tra tấn ông về tinh thần. Để củng cố tinh thần của mình, trong tù ông thường xuyên hát Quốc ca, chào cờ. Ông vẽ một ngôi sao ở trên tường và thường nhìn vào đó mỗi ngày để được tiếp thêm sức mạnh. Ông đi qua những trận tra tấn đó bằng một cách khiến những tên CIA cũng phải kinh hoàng. Chúng nói: “Thật kỳ lạ. Ông ta có thể bị ngất đi vì những trận đòn đau đớn, nhưng chưa bao giờ bật ra một tiếng rên la”.

Những tên CIA sừng sỏ nhất của Mỹ ở Việt Nam đã đến hỏi cung ông, sử dụng những “ngón nghề” giỏi nhất của CIA nhưng tất cả đều thất bại trước người chiến sĩ cách mạng Nguyễn Tài. Từ năm 1970 đến khi miền Nam hoàn toàn giải phóng năm 1975, sau rất nhiều những thủ đoạn, CIA đã thừa nhận chúng đã thất bại trong việc thẩm vấn “con cá lớn” mà chúng bắt được.

Trong khoảng thời gian Nguyễn Tài bị bắt, đã có những lúc giữa ta và Mỹ - ngụy thỏa thuận về việc trao đổi tù binh. Nguyễn Tài là cái tên được ta đưa lên hàng đầu trong việc thương lượng này. Cuối năm 1972, một hạ sỹ quan Mỹ đã được thả ra, kèm theo đề nghị thiện chí của ta: đổi Nguyễn Tài lấy một sỹ quan ngoại vụ của Mỹ bị bắt ở Việt Nam. Nhưng CIA đã kịch liệt chống lại việc trao trả Nguyễn Tài với lý do: “Tài là một cán bộ cao cấp nhất của tình báo Cộng sản; đó là người “quá quan trọng” để thực hiện bất cứ cuộc đổi chác nào”.

Trong hồi ký của mình, Frank Snepp đã khẳng định CIA coi Nguyễn Tài là “một tài sản hấp dẫn nằm trong tay Sài Gòn”, một thứ tài sản không thể đánh đổi. Chính vì lẽ đó mà Nguyễn Tài nằm ngoài mọi kế hoạch trao đổi tù binh. Ngay cả sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ - ngụy cũng không hề áp dụng chính sách trao trả tù binh với Nguyễn Tài.


Ngày trở về…

Trong lúc Nguyễn Tài bị giam và tra tấn gần 2.000 ngày, thì ở Hà Nội cả gia đình ông, từ cha mẹ đến vợ con đều không biết gì về sự an nguy của ông. Con trai của ông - Nguyễn Trường Thống Nhất nhớ lại: “Tôi là đứa con duy nhất biết bố bị bắt. Năm tôi học lớp 10, một hôm đến lớp, cậu bạn tôi là con một cán bộ cấp cao đến thì thào vào tai tôi, nói cậu ấy đã nghe lỏm được bố cậu ấy nói chuyện với các lãnh đạo khác và biết được thông tin bố tôi bị bắt. Ngày hôm đó tôi không học nổi nữa. Tôi về nhà vừa khóc vừa hỏi mẹ. Mẹ gật đầu xác nhận với tôi chuyện đó. Mẹ bảo: “Con đã biết rồi thì phải can đảm và giữ kín chuyện này. Hãy cùng ông bà và mẹ chờ đợi bố trở về”.

Những ngày tháng 4/1975, Nguyễn Trường Thống Nhất học ở Liên Xô. Anh kể rằng, dù ở nước ngoài, nhưng anh và những lưu học sinh Việt Nam luôn cập nhật tin tức về tình hình chiến sự trong nước từng phút một. Một cái bản đồ Việt Nam rất to được trưng trong sân trường và sân ký túc. Cứ giải phóng đến đâu, cờ đỏ sao vàng lại được cắm đến đó.

11h30 ngày 30/4, khi tin giải phóng miền Nam được lan đi, những sinh viên Việt ở Matxcova nghe tin báo độc lập loan trên đài đã ôm lấy nhau và òa khóc vì mừng rỡ. Ngày hôm đó không một sinh viên Việt Nam nào đi học. Họ tập trung diễu hành ngoài đường, cùng với những sinh viên nước ngoài khác để ăn mừng chiến thắng của dân tộc Việt Nam - chiến thắng mà cả thế giới mong chờ.

Giữa niềm vui ngày độc lập, Nguyễn Trường Thống Nhất đã trở về phòng ký túc xá, nằm quay mặt vào tường và khóc suốt ngày hôm đó. Khi đó anh nghĩ đến hoàn cảnh gia đình mình, nghĩ đến việc cha anh đã có thể mãi mãi không được nhìn thấy ngày này và gia đình anh không bao giờ có cơ hội đoàn tụ.

Nửa tháng sau đó, anh nhận được thư của ông nội - nhà văn Nguyễn Công Hoan gửi từ Việt Nam sang. Đọc xong lá thư đó, anh lại nằm quay mặt vào tường khóc suốt 1 ngày.

Lá thư đó báo tin cho anh biết cha anh còn sống…

“Ngay trước khi xe tăng Bắc Việt Nam tràn vào Sài Gòn, một quan chức cao cấp của CIA đã gợi ý với nhà chức trách Sài Gòn là tiện nhất là để y (tức Nguyễn Tài) biến mất. Bởi vì Tài là một tay khủng bố có kinh nghiệm, nên khó có thể mong đợi y là một kẻ chiến thắng rộng lượng. Người Nam Việt Nam đồng ý, Tài bị đưa lên một máy bay và ném xuống biển Nam Hải từ độ cao mười ngàn bộ. Đến đây thì ông ta đã trải qua hơn 4 năm bị biệt giam trong một phòng sơn trắng toát, và cũng chưa khi nào xác nhận một cách đầy đủ mình là ai cả” – Trong hồi ký của mình, cựu điệp viên CIA Frank Snepp, người từng trực tiếp tra hỏi Nguyễn Tài đã kể về ông như thế. Sau này, Frank Snepp vẫn đinh ninh Nguyễn Tài đã chết.

Nhưng ngụy quyền Sài Gòn đã không dám và cũng không còn tâm trí đâu để làm cái việc đưa Nguyễn Tài lên máy bay và ném ông xuống biển Đông. Trực thăng của chúng còn bận dùng để di tản chúng khỏi miền Nam Việt Nam trước khi quân cách mạng tràn vào.

Ngày 30/4/1975, Nguyễn Tài được bộ đội ta giải phóng khỏi nhà giam số 3 Bạch Đằng. Nghe tin ông còn sống, đích thân Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn đã vào đón ông về. Cái tin Nguyễn Tài còn sống được Bộ trưởng Bộ Công an báo về Hà Nội giữa một cuộc họp của Bộ. Vì quá vui mừng, anh em trong cuộc họp đã quyết định hủy cuộc họp đó để chia nhau đi báo tin vui cho gia đình Nguyễn Tài cùng với các cục trong Bộ.

Ngày hôm đó, khi nghe tin con trai còn sống, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã đi từ căn nhà của mình sang căn nhà của cô con gái - nhà văn Lê Minh. Ông ôm lấy con gái và khóc mãi không thôi.

Sau khi trở về, Đại tá Nguyễn Tài trở thành Thứ trưởng Bộ Công an. Năm 1977, do yêu cầu công tác ông chuyển sang làm Tổng Cục trưởng Tổng cục Hải quan. Năm 2002, ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND. Vợ ông đã hôn chiếc huân chương trên ngực ông mà nước mắt tuôn trào. Bởi bà biết ông đã phấn đấu cả đời, đã đấu tranh cả đời, mới có được danh hiệu cao quý đó…

Lan Hương (thực hiện)


Đồng chí Nguyễn Tài và vợ chụp ảnh kỷ niệm trước phòng giam ở số 3 đường Bạch Đằng.

Vợ chồng Đại tá Nguyễn Tài chụp ảnh cùng 4 người con trước ngày ông lên đường đi B.

Đồng chí Nguyễn Tài (thứ hai từ trái sang) trong lễ đón nhận Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguồn: Báo Công an nhân dân điện tử - 10:42 14/08/2015




Tình Báo NGUYỄN TÀI, Con Nhà Văn NGUYỄN CÔNG HOAN – Điệp Viên Cộng Sản Được CIA Ca Ngợi Nhiều Nhất

Chuyện kỳ lạ về hai giếng cổ nghìn năm không cạn nước ở Hưng Yên

Chuyện kỳ lạ về hai giếng cổ nghìn năm không cạn nước ở Hưng Yên

Hà Trang
Ảnh, video: Trọng Trinh

Dân trí
Tại làng Xuân Cầu (Xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, Hưng Yên) hiện còn tồn tại hai chiếc giếng cổ có lịch sử hàng nghìn năm…


Cách Hà Nội không xa, làng Xuân Cầu vẫn giữ được nét cổ kính nhờ những công trình kiến trúc cổ

Nguyễn Tài, nhà tình báo lỗi lạc, trung kiên, từng bị bôi nhọ...

Wednesday, August 29, 2018

Nguyễn Tài, nhà tình báo lỗi lạc, trung kiên, từng bị bôi nhọ...

Tư liệu sưu tầm
23.02.2018

Nguyễn Tài (ảnh chụp 1970)
(11-12-1926/ 16-02-2016)

Tên khai sinh là Nguyễn Tài Đông, biệt danh Tư Trọng, Tư Duy, Ba Sáng, sinh ngày 11 tháng 12 năm 1926, quê làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Nguyên là Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Thứ trưởng Bộ Công an Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong chiến tranh Việt Nam, ông là tù nhân của CIA trong 5 năm, với biệt danh "The Man in the Snow White Cell". Được đối phương ca ngợi về lòng trung thành với chế độ Cộng sản, nhưng sau năm 1975, khi đương chức thứ trưởng, ông lại bị chính những người đồng chí của mình lợi dụng một tài liệu tình báo vô giá trị, nhằm hãm hại và đưa ông ra khỏi bộ Công an.

Ngày 16 tháng 2 năm 2016, ông từ trần do bệnh tại bệnh viện 198 - Bộ Công an, hưởng thọ 91 tuổi.

Nguyễn Tài Đông là người con thứ hai của nhà văn Nguyễn Công Hoan, đảng viên; có chú là Nguyễn Công Miều (tức Lê Văn Lương - ủy viên Bộ Chính trị; chú là Nguyễn Công Bông bị đày lên Sơn La; chú là Nguyễn Công Mỹ - tổng giám đốc Nha Bình dân học vụ. Anh ruột là Nguyễn Tài Khoái hy sinh năm 1947.

Ông không theo nghiệp văn giống cha. Ông Tài tham gia cách mạng khá sớm, gia nhập Đoàn thanh niên cứu quốc năm 18 tuổi, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 3-1945.

Tháng 9-1945, ông bắt đầu công tác trong ngành an ninh.

Trong chiến tranh Đông dương lần thứ nhất, khi mới 21 tuổi, ông là Trưởng ty Công an Hà Nội, rồi Giám đốc Sở Công an đặc khu Hà Nội. Tháng 9 năm 1951, dưới sự chỉ đạo của ông và lực lượng điệp báo bộ công an, một nữ điệp báo viên thành Hà Nội, đánh bom cảm tử tàu chiến Pháp. Đây có lẽ là vụ đánh bom cảm tử đầu tiên trên thế giới bởi phụ nữ.

Tháng 9-1958, ông là Cục trưởng Cục bảo vệ chính trị 2, mật danh KG2 (Bộ Công an).

Đầu những năm 1960, ông là người được Lãnh đạo Bộ Công an giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy toàn diện cuộc chiến chống gián điệp - biệt kích, góp phần làm thất bại âm mưu phá hoại miền Bắc của đối phương.

Theo nguyện vọng của ông, ngày 21-3-1964 ông được Trung ương cử vào miền Nam trực tiếp chiến đấu, “là người có cấp cao nhất trong ngành công an từ trước đến lúc đó đi Nam”.

Tại miền Nam, ông trở thành ủy viên Ban An ninh của Trung ương cục miền Nam, trực tiếp làm phó (1965), rồi trưởng (1966) Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định, ủy viên, rồi ủy viên thường vụ Thành ủy. Trong các cương vị đó, ông đã có công rất lớn trong việc xây dựng và phát triển Ban An ninh khu Sài Gòn - Gia Định thành một lực lượng vững mạnh, được Nhà nước khen thưởng danh hiệu Đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Ngay cả đối phương, trước thời gian ông bị bắt, cũng không nắm được đầy đủ về người lãnh đạo T4.

Năm 1964, ông vào hoạt động trong chiến trường miền Nam, giữ cương vị Phó ban An ninh Sài Gòn Gia định.

Ngày 23 tháng 12 năm 1970 trên đường đi dự một cuộc họp của Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Gia Định, ông bị bắt trong địa phận tỉnh Bến Tre. Đối phương hỏi: theo giấy căn cước, ông tên Nguyễn Văn Lắm, sinh ở Định Thủy, Mỏ Cày, Bến Tre, tại sao nói giọng Bắc? Ông giải thích: cha người Bắc, mẹ người Nam, sinh ở quê mẹ nhưng lớn lên ở quê cha, năm 1954 di cư vào Nam, sống ở Bến Tre. Để không ảnh hưởng tới tổ chức và nhân sự của Thành ủy (mà ông là ủy viên thường vụ) và Ban An ninh T4 (mà ông là trưởng ban), ông tạo ra một lý lịch giả, tự nhận là Nguyễn Văn Hợp, đại úy của Cục nghiên cứu, mới vào Nam tháng 11-1970 (một tháng trước khi bị bắt), bị bắt trên đường đi Hồng Ngự để được để được giao nhiệm vụ cụ thể, tạo dựng vỏ bọc hợp pháp nhằm qua Pháp hoạt động. (Lời khai này đã gây ra rắc rối cho ông sau năm 1975, trong vấn đề thẩm tra và đánh giá lại quá trình ông bị bắt). Sau này, đối phương phát hiện ra danh tính thật của ông nhờ chỉ điểm của những chiêu hồi viên.

Tháng 11 năm 1971, Bí thư thành ủy Sài Gòn - Gia Định Trần Bạch Đằng viết thư nhân danh Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam gửi Mỹ đặt vấn đề trao đổi Nguyễn Tài với một tù binh Mỹ là Douglas Ramsey - nhân viên bộ ngoại giao Mỹ bị bắt từ năm 1966. Mỹ từ chối vì cho rằng "Nguyễn Tài quá quan trọng để đáng đổi lấy Ramsey". Sau này, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn nói rằng đó là một hình thức ngăn cản Mỹ và Việt Nam Cộng hòa thủ tiêu Nguyễn Tài. Kết quả là các cuộc tra tấn đối với Nguyễn Tài lập tức chấm dứt, mạng sống của ông trở thành quá giá trị đối với CIA để có thể rủi ro, "ông trở thành một con tốt trong một ván cờ chính trị cấp cao".

Đầu năm 1972, qua đề nghị trao đổi của miền bắc, Cơ quan Tình báo trung ương CIA “nhận thức được giá trị của Tài” nên giành lấy quyền thẩm vấn ông từ tay Trung tâm thẩm vấn quốc gia. Lần lượt CIA cử hai chuyên viên thẩm vấn có trình độ cao là Peter Kapusta và Frank Snepp (Sau mấy tháng hỏi cung mà không moi được thông tin gì mới, Peter Kapusta lấy lý do “vợ bị tai nạn ôtô bên Mỹ” để xin về nước. Frank Snepp[1] được cử sang thay. Lúc đó Snepp còn trẻ, mới 28 tuổi, đỗ thạc sĩ ngành quốc tế học tại Đại học Columbia. Bắt đầu làm việc cho CIA từ 1968, qua Nam Việt Nam năm 1969, sau đó về Mỹ. Tháng 10-1972, sang Sài Gòn để phụ trách thẩm vấn Nguyễn Tài vì, như Snepp tự nhận, anh ta là “một trong những chuyên gia của CIA thông thạo nhất về chính sách và chiến lược của Bắc Việt Nam”) từ Mỹ sang để trực tiếp tiến hành việc hỏi cung ông Tài. Khác với các thẩm vấn viên của Thiệu, các chuyên gia CIA không dùng nhục hình làm biện pháp duy nhất. CIA sử dụng kết hợp các kỹ thuật cả về thể xác lẫn tâm lý trong một phương pháp cùng cực. Việc đầu tiên của CIA là cho xây cho ông Tài một xà lim đặc biệt ngay trong khuôn viên Trung tâm thẩm vấn quốc gia của Thiệu, một xà lim hình vuông, mỗi cạnh 2 mét. Các bức tường đều sơn trắng toát khiến tinh thần người tù luôn bị căng thẳng; trần gắn 5 ngọn đèn thắp sáng choang 24 trên 24 giờ nhằm làm cho người tù mất khái niệm về thời gian. Xà lim kín mít khiến người tù “không bao giờ thấy ánh sáng bình minh của ngày mới”, chỉ có một lỗ nhỏ trên cánh cửa ra vào để đưa thức ăn. Tường và cửa đều dày, cách âm, người bên trong không nghe tiếng động bên ngoài. Trên trần có gắn máy thu âm và thu hình ngày đêm truyền hình ảnh và âm thanh sang phòng bên cạnh để các cai ngục có thể bí mật theo dõi mọi hành động và cử chỉ của người tù. Ngoài ra, còn có hệ thống máy lạnh mở ở công suất cao vì CIA biết ông Tài chịu lạnh kém. Snepp gọi xà lim đặc biệt đó là “môi trường làm mất phương hướng” (disorienting environment). Theo McCoy, bị biệt giam ở đó trong thời gian dài, người tù bị “một sức ép tâm lý mãnh liệt” khiến nhận thức của họ bị rối loạn và có thể tiết lộ thông tin một cách vô ý thức. So với các nhục hình của các thẩm vấn viên của Thiệu, cách hỏi cung bằng tra tấn tinh thần và tâm lý của các chuyên viên CIA tinh vi hơn, độc ác hơn.

Năm 2009, tức gần 40 năm sau, Snepp thú nhận “vẫn còn bị ám ảnh bởi những gì tôi đã làm” trong thời gian thẩm vấn ông Tài. Nguyễn Tài tìm cách chống lại các thủ đoạn “làm mất phương hướng” của các thẩm vấn viên CIA. Theo Otterman, “ông tự động thức dậy lúc 6 giờ sáng mỗi ngày. Lúc đó, ông hát thầm Quốc ca của Bắc Việt Nam, tập các động tác thể dục đơn giản, sáng tác các bài thơ, bài hát trong đầu, chào một ngôi sao mà ông vẽ trên tường xà lim tượng trưng cho Quốc kỳ của Bắc Việt Nam. Ông lặp đi lặp lại những sinh hoạt đó trong ngày và đi ngủ vào lúc 10 giờ tối mỗi ngày”. Cuối cùng, Otterman kết luận: “Tài đã đánh bại các phương pháp của KUBARK (mật danh của CIA) vì đã giữ vững thế chủ động cả về thể chất lẫn tinh thần”. McCoy thừa nhận điều đó: “Phần lớn những thông tin mà ông khai có lẽ chỉ là những thông tin bị làm sai lạc một cách có tính toán”. Do đó, theo Otterman, “trong ba năm... các thẩm vấn viên CIA vật lộn với Tài nhưng không thu được hiệu quả”. Frank Snepp được giao thẩm vấn 8 tù nhân tại Trung tâm thẩm vấn quốc gia, nhưng ông thú nhận “thẩm vấn Nguyễn Tài là thẩm vấn nhiều thách thức nhất của tôi” và kết luận: cho đến 30-4-1975, “Tài đã trải qua hơn bốn năm bị biệt giam trong xà lim nhưng ông chưa từng khai nhận một cách đầy đủ ông là ai”.

Ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris được ký. Theo Hiệp định Paris, hai bên trao trả cho nhau tù binh và tù dân sự. Nhưng Việt Nam Cộng hòa vi phạm trắng trợn hiệp định, tiếp tục giam giữ nhiều người (trong đó có ông Tài) đến tận 30-4-1975, tức thêm 2 năm 3 tháng nữa. Cuối năm 1974, ông gửi lá thư thứ hai cho “nhà đương cục Mỹ và Việt Nam Cộng hòa” yêu cầu trao trả theo đúng Hiệp định Paris.

Ngày 26-4-1975, khi 5 cánh quân của miền bắc sắp tiến vào Sài Gòn, “một viên chức cao cấp của CIA gợi ý cho nhà cầm quyền Nam Việt Nam cần làm cho Nguyễn Tài biến mất” để tránh việc “Tài được giải thoát bởi các đồng chí chiến thắng của ông ta”. Nguyễn Khắc Bình, tư lệnh Cảnh sát quốc gia kiêm đặc ủy trưởng Phủ đặc ủy trung ương tình báo, ra lệnh cho số cầm đầu Trung tâm thẩm vấn quốc gia thủ tiêu ông Tài theo lệnh của CIA. Tuy nhiên, theo Pribbenow, “lệnh đến quá trễ. Tất cả các viên chức cao cấp của Phủ đặc ủy trung ương tình báo đang tìm cách chạy trốn khỏi Nam Việt Nam”. Bản thân các viên chức CIA - trong đó có Frank Snepp - cũng lo tháo chạy thoát thân. Hai năm sau, 1977, trong lúc quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang gián đoạn, Snepp hoàn toàn không có tin tức gì về ông Tài, yên trí là Nguyễn Khắc Bình đã thi hành lệnh của CIA, nên anh ta viết trong cuốn Decent Interval (Khoảng cách thích đáng): “Tài bị đưa lên một máy bay và bị ném xuống biển Đông ở độ cao 1.000 feet”. Sự thật không phải vậy. Pribbenow cho biết: “Các nhân viên cấp dưới (của Trung tâm thẩm vấn quốc gia) sợ bị trừng phạt nếu những người Cộng sản chiến thắng biết họ đã giết Tài”, do đó họ “không dám thi hành (lệnh thủ tiêu) vì sợ mang thêm tội với Cách mạng”.

Trưa 30-4-1975, một tiểu đoàn thuộc Quân đoàn IV tiến vào Sài Gòn, chiếm Phủ đặc ủy trung ương tình báo. Ông Tài được giải thoát khỏi xà lim trắng toát sau 4 năm 4 tháng 10 ngày bị biệt giam.

Sau khi ra khỏi nhà tù, Nguyễn Tài quay lại làm việc ở trong ngành Công an Việt Nam với chức vụ Ủy viên Thường vụ Thành ủy TP Hồ Chí Minh, Giám đốc Sở Nội vụ TP Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Nội vụ - phụ trách điều tra xét hỏi nhân viên tình báo VNCH sau năm 1975. Rồi ông bị đình chỉ công tác vì có một tài liệu nói ông đã bị CIA sử dụng cùng với một số nội dung về ông trong hồi ký Decent Interval của Frank Snepp - chuyên gia CIA từng tham gia thẩm vấn ông.

Tài liệu này là của Cục phản gián - phòng chống gián điệp (dưới quyền Nguyễn Sỹ Huynh) thu được, nói về cách "giải quyết 4 tù binh là cán bộ cao cấp miền bắc" bị quân lực VNCH bắt, được viết vào năm 1973. Năm 1976, tài liệu được gửi đi sao lưu và phân tích tại cục kỹ thuật nghiệp vụ - bộ nội vụ, do sự tắc trách về dịch thuật, và sự yếu kém về chuyên môn của một số cục nghiệp vụ an ninh nội bộ và kỹ thuật, tài liệu này được một số kẻ cơ hội trong bộ nội vụ, dưới sự tiếp tay của các thứ trưởng đương thời như Hoàng Thao, Dương Thông đã biến thành tại liệu về "cách sử dụng 4 tù binh là cán bộ cao cấp của miền bắc". Ban đầu các đối thủ chính trị của ông đã dựng lên rằng, tài liệu này do lực lượng kỹ thuật bộ nội vụ chụp trộm trong vali của một doanh nhân người Nhật (được cho là điệp báo viên nước ngoài) công tác tại Việt Nam, nhằm vu cho ông làm việc với CIA. Sau 1975, ông được giao xét hỏi nhân viên khối đặc biệt (tình báo) của Tổng nha cảnh sát VNCH, trong số này có những ngươi đã tham gia hỏi cung ông trong thời gian ông ngồi tù, điều này đặt ra nghi ngờ với Lê Đức Thọ và ban Bảo vệ nội bộ Đảng. Tháng 10 năm 1977, Nguyễn Tài bị đình chỉ chức vụ lập tức và triệu tập lấy lời khai tại ban bảo vệ Trung ương Đảng (lúc này nằm dưới trướng của Phan Văn Đáng, tức Hai Văn - nguyên phó bí thư trung ương cục miền nam). Tên ông cũng bị bôi đen trong cuốn sách lịch sử của bộ công an. Trong suốt 4 năm, ông đã đề nghị làm rõ vụ việc, tham gia đối chất với những cán bộ an ninh phụ trách thu thập tài liệu và kiểm chứng nguồn gốc văn bản thu được. Ông Lê Đức Thọ cũng trực tiếp xuống hỏi cung các nhân viên Tổng nha cảnh sát về Nguyễn Tài, nhưng áp đặt ý định của mình lên những người này, để có bằng chứng đưa Nguyễn Tài ra khỏi ngành công an. Năm 1981, vì những chỉ đạo chủ quan và công tác thẩm tra không được nghiêm túc, Ban bí thư ra kết luận, do Lê Đức Thọ ký, cho rằng ông đã dao động, phạm khuyết điểm khai báo cơ sở nhưng không quan trọng, ngay cả thứ trưởng Viễn Chi (nguyên cục trưởng cục phái khiển A13 tiền thân của Tổng cục Tình báo Công an Nhân dân Việt Nam) người chịu trách nhiệm các hoạt động tình báo của Hà Nội cũng không bảo vệ ông. Ông đã không hài lòng về kết luận này của Trung ương.

Với chủ trương miệng không sử dụng tiếp những cán bộ bị đối phương bắt trong lực lượng an ninh - tình báo, cuối năm 1981, ông được điều về công tác tại Ủy ban Pháp luật Nhà nước, rồi làm Tổng cục trưởng đầu tiên của Tổng cục Hải quan Việt Nam (1985 - 1989).

Sau 11 năm đằng đẵng, nhờ sự công tâm của thế hệ lãnh đạo mới trong Đảng, những người từng làm việc với ông trong thời gian chiến tranh như Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Mười Hương, ông được minh oan vào năm 1988. Kết luận số 570 ngày 23/12/1988 của Ban Bí thư khoá VI, ngay trong những dòng đầu ghi rõ "Tài liệu làm căn cứ cho việc đình chỉ công tác đối với đồng chí Nguyễn Tài để thẩm tra là không đúng". Văn bản cũng khẳng định “Đồng chí Nguyễn Tài đã có tinh thần chịu đựng sự tra tấn dã man của địch, khôn khéo đối phó với địch, bảo vệ cơ sở và những bí mật của Đảng mà mình biết”. Kết luận này là kết luận cuối cùng, thay cho các kết luận trước kia của Ban bí thư về thẩm tra thời gian ngồi tù của ông trong chiến tranh.

Ông về hưu năm 1992.

Năm 2003, Ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương yêu cầu ông không phát tán rộng rãi hồi ký của mình, trong hồi ký của ông, những đánh giá về những người thẩm tra vụ án chính trị của ông như Phan Văn Đáng và Lê Đức Thọ, đi ngược lại những đánh giá chung của Đảng Cộng sản.


Trong mắt đồng đội và đối phương bên kia chiến tuyến

Trong chiến tranh Việt Nam, có hàng trăm vạn người Việt Nam bị VNCH và Hoa Kỳ bắt giam, tù đày và tra tấn, nhưng có lẽ ông Tài là người được các tác giả Mỹ đề cập đến nhiều nhất. Họ gọi ông là “Người trong xà lim trắng toát” (The Man in the Snow White Cell).

Đặc biệt, Frank Snepp - chuyên viên CIA thẩm vấn ông trong thời gian lâu nhất, được CIA thưởng Huân chương công trạng về tình báo (Intelligence Medal of Merit, ngày 16-12-1975) - giữ nhiều ấn tượng sâu đậm về ông. Hugh D.S.Greenway kể: “Sau chiến tranh [ở Việt Nam], Snepp rời khỏi CIA, nhưng anh ta không thể đưa Tài ra khỏi tâm trí của mình. Anh ta sang Paris để nói với phái bộ Việt Nam [ở Pháp] rằng Tài đã xử sự một cách đáng kính trọng và đã chết một cách dũng cảm (Tai had comported himself honorably and died bravely)”.

Năm 1977, Snepp dành hẳn một chương trong cuốn hồi ký Decent Interval để kể chuyện ông Tài. Cuốn hồi ký này là một trong những nguyên nhân để Ban bảo vệ Trung ương xem xét lại hoạt động ngồi tù của ông. Sau đó, trong một số bài phỏng vấn, Sneep cảm thấy hối tiếc và dành thái độ tôn trọng, khâm phục Nguyễn Tài.

Gần tới ngày kỷ niệm lần thứ 34 chế độ Sài Gòn sụp đổ (27-4-2009), Snepp viết trên báo Los Angeles Times một bài nhan đề “Bị quá khứ tra tấn” (Tortured by the Past) thuật lại thời gian thẩm vấn ông Tài.

Những người Mỹ khác, tuy không chia xẻ lập trường chính trị của ông, họ vẫn dành cho ông nhiều từ tốt đẹp như “một cán bộ Cộng sản tận tâm” (a dedicated Communist cadre), “kiên quyết” (determined), “một người từng trải, thông minh, được đào tạo tốt” (sophisticated, intelligent, well-educated man), “một người cứng cỏi không dễ gì làm suy yếu” (a tough nut to crack)...

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, người từng có thời gian hoạt động chung với ông trên chiến trường miền Nam, nhận định: “Quá trình hoạt động cũng như quá trình đấu tranh kiên trung, mưu trí khi bị địch bắt trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của đồng chí Nguyễn Tài cho thấy đồng chí thực sự xứng đáng là một anh hùng”.

Nhắc đến Nguyễn Tài, không chỉ nhắc đến người Cộng sản trung thành với chế độ Hà Nội, giữ vững niềm tin trong suốt thời gian cầm tù của đối phương, mà còn phải nhắc đến 4 năm bị đình chỉ chức vụ, bị nghi oan là làm việc với CIA, 11 năm ròng rã, đòi lại chân lý và công bằng của ông.

Nhận định đó được nhiều người tán thành.

Năm 2002, ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân và sau đó được thưởng Huân chương Hồ Chí Minh. Cố vấn Võ Văn Kiệt đã đưa ra đề nghị này với hai lý do: "Trung kiên bảo vệ Cách mạng trong nhà tù Mỹ - Ngụy" và "dũng cảm bảo vệ nhân cách trong sáng của một đảng viên trước nhân dân".

Ngoài ra, ông còn được các danh hiệu cao quý khác như:

Huân chương Độc lập hạng nhất
Huân chương Quân công hạng nhất
Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất và hạng Nhì
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
Huân chương Giải phóng hạng Nhì
Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng


Tư liệu sưu tầm


----------------
[1] Người sau này viếtt cuốn sách giá trị: “Sài Gòn sụp đổ”, đã dịch và xuất bản tại Việt Nam những năm Tám mươi thế kỷ XX. – Chú thích của Triệu Xuân).

Cổng làng nét văn hóa truyền thống

Friday, February 2, 2018

Truyền hình Hưng Yên - HYTV
Xuất bản 21 thg 7, 2015

Làng Khoa Bảng Xuân Cầu

Monday, January 1, 2018


Trích từ "Làng Khoa Bảng Và Danh Nhân Làng Khoa Bảng Việt Nam"


Miếu thờ Thành Hoàng làng Xuân Cầu


ĐẤT VÀ NGƯỜI XỨ NHÃN
Hữu Tính

Sáng chủ nhật ngày 26.11.2017 (tức ngày mùng 9 tháng 10 âm lịch), người dân Xuân Cầu sẽ tổ chức lễ khánh thành công trình xây dựng và tôn tạo miếu Thành Hoàng làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang).

Làng Việt cổ Xuân Cầu có lịch sử trên 2000 năm. Thế kỷ thứ VIII đến IX, thời nhà Đường đô hộ nước ta, có nhiều người Hoa định cư tại đây nên gọi là làng Hoa Kiều, sau đổi thành Hoa Cầu, tiếp đến là Huê Cầu, rồi được gọi là Xuân Cầu như ngày nay. Xưa kia, làng có khung cảnh hữu tình, có cây đa, bến nước, sân đình… Riêng hai thôn Tam Kỳ, Phúc Thọ có hai ngôi đình đẹp, có chung một miếu thờ Thành Hoàng.
Theo thần tích, thần sắc còn lưu lại tại thư viện Viện Thông tin KHXH, ngôi miếu cổ có niên đại gần 800 năm thờ Đức Thành Hoàng Hoa Kiều Lang Đại Vương. Ngài có tên hiệu là Hoa Kiều Lang (có nghĩa là: Người đàn ông làng Xuân Cầu), tên húy là Hùng Lang, sinh ngày mùng 10 tháng 10; hóa ngày mùng 9 tháng 4; hiển thánh ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch. Thân phụ của ngài là Lê Thuận, thân mẫu là Tô Thị Huyền, người làng Xuân Cầu. Ngài là nhân thần, có công giúp vua Trần Thái Tông đánh bại quân xâm lược Nguyên – Mông năm 1258, được các vương triều Trần, Lê, Nguyễn ban tặng 24 sắc phong, ban nhiều mỹ tự như đoạn trích sau từ sắc phong của các triều vua:
Thượng Đẳng Phúc Thần Tối Linh Hoa Kiều Lang Đại Vương là người tư chất mẫn tiệp, đức vốn thông minh, xuất chúng tài giỏi hơn người, biến hóa khôn lường, nhìn không thấy, nghe chẳng hay, cuồn cuộn trên cao, cảm ứng sẽ hanh thông, cầu xin tất ứng nghiệm, vô cùng linh ứng, có thể trừ tai họa, ngừa hoạn nạn, âm phù vững chắc làm quốc gia yên ổn, khiến dân chúng thịnh vượng, công tích với đất nước thật lớn lao.

Trung liệt hùng nghị dũng lược Đại vương, Người là chung đúc chính khí của trời cao, tinh anh của Nhị khí, trở thành Thần thiêng của nước Nam. Sức mạnh của Thần đã nhiều lần hiển hiện linh ứng, phù trì kéo dài vô cùng đến muôn năm, công lao khánh hạ rất nhiều. Thần đã hiển ứng phù hộ Hoàng gia phúc trạch lâu bền, Vương nghiệp nối dài vĩnh viễn, âm phù uy binh, tiễu trừ nghịch đảng, thu phục biên cương, hộ quốc an dân, giữ gìn xã tắc.
Theo tín ngưỡng của người Việt từ ngàn xưa, Thành Hoàng làng là vị phúc thần tối thượng thiêng liêng bảo hộ cho người dân trong làng xã làm ăn sinh sống, mùa màng tươi tốt, “quốc thái dân an”, không phân biệt dòng họ, giàu nghèo, già trẻ, trai gái. Miếu Thành Hoàng diễn Nôm là nhà của ngài, đến ngày lễ hội thì dân làng mới rước ngài ra đình.

Miếu thờ Thành Hoàng làng Xuân Cầu



Do tàn phá của chiến tranh và tác động của thiên nhiên, hơn 60 năm nay ngôi miếu này cùng với đình làng đã bị hủy hoại hoàn toàn. Năm 2017, ông Tô Quyết Tiến và nhiều người con quê hương Xuân Cầu đã phát tâm công đức, bỏ tiền của và công sức xây dựng lại miếu thờ Thành Hoàng trang nghiêm, đẹp đẽ trên khuôn viên đất cũ thiêng liêng của vùng đất địa linh nhân kiệt, bên Bến Ngóng của dòng Nghĩa Giang. Từ nay, người Xuân Cầu lại có ngôi miếu tôn nghiêm hàng ngày hương khói thờ phụng, tưởng nhớ đến Đức Thành Hoàng – Vị Phúc thần của cả làng, đồng thời tự nhủ phải sống sao cho xứng đáng với truyền thống lịch sử của quê hương, xây dựng quê hương Xuân Cầu ngày nay thêm giàu đẹp, văn minh. Đúng là:

Hiếu trung tiết liệt tồn kim cổ
Miếu vũ lâu đài kỷ hậu lai

Tấm lòng hiếu trung tiết liệt của Ngài sẽ sống mãi với thời gian
Công trình miếu được trao gửi lại cho thế hệ mai sau.

Hữu Tính

(Ông Tô Quyết Tiến biên soạn theo các thần tích, thần sắc lưu tại thư viện Viện KHXH, số 1 Liễu Giai, Hà Nội).

Nguồn: "baohungyen.vn" - 22/11/2017, 19:27 [GMT+7]



Miếu thờ Thành Hoàng làng Xuân Cầu




Câu đối viết tặng Tô Chấn - Tô Hiệu

Monday, December 18, 2017
Câu đối viết tặng Tô Chấn - Tô Hiệu

Nhân kỷ niệm 70 năm ngày hy sinh của liệt sĩ Tô Chấn, Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu đã làm đôi câu đối lớn gồm 128 chữ đầy công phu và tâm huyết tưởng niệm cuộc đời oanh liệt của nhà cách mạng và tặng nhà thờ liệt sĩ Tô Chấn:
Gió Xuân Cầu lồng lộng chí nam nhi, hai chục tuổi lên đường cứu nước! Nào dựng xây tổ chức, nào giác ngộ đồng bào, nào mở rộng phong trào, nào ngược xuôi Nam Bắc, cùng nhân dân gắn bó nghĩa tình. Rồi phải buổi sa cơ mắc lưới, chốn lao lung tay xích chân cùm: Khí tiết vẫn sáng ngời trong sắt thép!
Hầm Côn Đảo nấu nung gan chiến sĩ, hơn sáu năm đối mặt quân thù. Vẫn vững chắc tinh thần, vẫn đấu tranh bất khuất, vẫn nâng cao kiến thức, vẫn rèn luyện ngày đêm, được Đảng bộ tin giao trọng trách. Cho đến khi vượt biển chìm bè, dù thể phách sóng gió vùi dập: Hồn thiêng còn tỏa rộng giữa trời mây!


Tô Hiệu (1912 - 1944), em ruột của Tô Chấn. Năm 1929, Tô Hiệu vào Sài Gòn hoạt động cùng với người anh ruột của mình là Tô Chấn. Năm 1930, Tô Hiệu bị địch bắt, đầy đi Côn Đảo. Năm 1934, mãn hạn tù, Tô Hiệu trở về và bị quản thúc tại quê nhà. Năm 1939, Tô Hiệu lại bị địch bắt và giam ở đề lao Hải Phòng, ông bị kết án 5 năm tù và bị đày đi nhà ngục Sơn La. Năm 1944, do bị tra tấn dã man và bệnh lao phổi nặng, Tô Hiệu đã hy sinh tại nhà ngục này. Anh hùng Lao động - Giáo sư Vũ Khiêu đã dành tâm huyết viết câu đối trác tuyệt ca ngợi Tô Hiệu:
“Cuộc đấu tranh vượt bể băng ngàn, Kết giao tuấn kiệt, Tuyển lựa hiền tài, Trọn một đời vì Đảng vì dân, Vầng nhật nguyệt ngời soi khí phách”
“Đường cách mạng vào tù ra tội, Kiên định tử sinh, Đạp bằng uy vũ, Trải bao độ thử vàng thử sức, Đấng anh hùng chói sáng tinh khôi”

Câu đối đề tặng nhà tù Sơn La năm 2000 của Vũ Khiêu:
Vạn lý đào hoa nghinh quốc vận
Giang sơn hồng nhật chiếu gia thanh
Nghĩa:
Giang sơn muôn dặm hoa đào nở
Sử sách ngàn thu tiếng suối reo


Câu đối khắc trên ban thờ Cố Bí Thư Thành Ủy Hà Nội Lê Văn Lương (1912 - 1995)
Lê Văn Lương tên thật là *Nguyễn Công Miều, sinh tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên (xưa thuộc tỉnh Bắc Ninh). Trung ương Đảng đã cử đồng chí Lê Văn Lương, Ủy viên Bộ chính trị về Thành ủy Hà Nội và sau đó, đồng chí được BCH Đảng bộ thành phố bầu là Bí thư Thành ủy. Đôi câu đối của Giáo sư Vũ Khiêu trên gian thờ đồng chí Lê Văn Lương đã khái quát phẩm chất cách mạng của người cộng sản suốt đời vì dân, vì Đảng:
“15 tuổi lên đường, chính khí vươn cao trời biển rộng
70 năm cùng Đảng, công huân rực sáng cổ thu soi”

Nguồn: Câu đối của Vũ Khiêu

Tướng quân Bãi Sậy - Ngô Quang Huy

Saturday, December 16, 2017

284 Anh hùng hào kiệt của Việt Nam

Ngô Quang Huy

_ Vũ Thanh Sơn _

Ngô Quang Huy biệt hiệu là Quang Hiên, sinh năm 1835 ở xã An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn An Lạc, xã Trưng Trắc, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.

Ngô Quang Huy là người thông minh, nổi tiếng hay chữ một vùng, đương thời có câu: “Thần Siêu, Thánh Quát, trẻ Quang Huy”. Năm 17 tuổi ông đỗ Cử nhân khoa Nhâm Tý, Tự Đức thứ 5 (1852) tại trường thi Hà Nội, được bổ làm Đốc học tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1883 Triều đình Huế kí Hoà ước với Pháp ra lệnh bãi binh. Nguyễn Thiện Thuật bỏ quan về huyện Đông Triều chiêu mộ quân đánh Pháp. Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, đỗ cử nhân khoa Đinh Mão, Tự Đức thứ 20 (1867) tại trường thi Hà Nội đang làm Huấn đạo huyện Mỹ Đức đều bỏ quan chiêu mộ được hơn 100 quân đến Đông Triều gia nhập đội quân khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật.

Ngô Quang Huy là nhà nho từng làm đốc học, nên ông hiểu rõ tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, giáo dục. Ông đã thành lập một đội tuyên truyền gồm các nho sinh hô hào đồng bào gia nhập nghĩa quân, tiếp tế lương thực cho nghĩa quân. Nghĩa quân do các ông chỉ huy hoạt động mạnh ở các huyện Đông Triều, Chí Linh, Kinh Môn, Thanh Hà, Cẩm Giàng, Mỹ Hào và vùng chung quanh lỉnh lị Hải Dương.

Chiều 12/11/1883 nghĩa quân do Nguyễn Thiện Thuật, Hai Kế, Đề Vinh chỉ huy xuất phát từ Đông Triều về hạ thành Hải Dương. Đánh nhau đến gần sáng ngày 13 tháng 11, nghĩa quân không hạ được thành phải rút. Ngô Quang Huy trở về An Lạc cùng Nguyễn Cao, Hoàng Văn Hoè, Tạ Hiện thành lập Tam tỉnh nghĩa quân còn gọi là “Đại nghĩa đoàn". Nghĩa quân có 5.000 người, xây dựng căn cứ ở núi Nham Biền (Yên Dũng, Bắc Giang) và các căn cứ ở Trúc Ty, Vân Cốc, Trung Đồng. Sau vài tháng bị quân Pháp liên tục tấn công, lực lượng nghĩa quân suy yếu, thiếu súng đạn, bị quân Pháp truy kích nghĩa quân tan rã, Ngô Quang Huy trở về An Lạc, tổng Thái Lạc, huyện Văn Giang chờ thời, bí mật liên kết với các nghĩa sĩ.

Tháng 8/1885, Nguyễn Thiện Thuật được vua Hàm Nghi phong là Lễ bộ thượng thư, sung Bắc Kỳ Hiệp thống quân vụ đại thần, tước Thuần trung hầu. Nguyễn Thiện Thuật trở về vùng giáp ranh ba tỉnh Hải Dương - Hưng Yên - Bắc Ninh cho người mời cử nhân Ngô Quang Huy và Nguyễn Hữu Đức tới bàn bạc. Nhận được tin, Ngô Quang Huy lập tức đến gặp Nguyễn Thiện Thuật. Ba ông đã nhất trí phải khôi phục phong trào Bãi Sậy và mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân sang Bắc Ninh, Hải Dương và các tỉnh khác. Nguyễn Thiện Thuật giao cho Ngô Quang Huy phụ trách miền Nam Bắc Ninh, Bắc Hưng Yên và Bắc Hải Dương.

Sau đó không lâu, Ngô Quang Huy nhận được sắc phong của vua Hàm Nghi phong cho ông là "Hồng lô Tự khanh, Tán lý quân vụ”. Nghĩa quân và nhân dân coi Ngô Quang Huy là nhân vật số hai của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, nên thường gọi ông là “ông Tán Bắc", "ông Tán Thái Lạc”...

Ngô Quang Huy cùng em trai là Ngô Quang Chước, Tuần Văn người xã Xuân Quan, huyện Văn Giang đã dấy binh từ năm 1883 theo Đổng Quế, Đốc Sung, trợ thủ của Tuần Vân, Đội Văn (Vương Văn Vang) vốn là tướng giỏi của Tam tỉnh nghĩa quân năm 1884, cả hai ông đều được Bắc Kỳ hiệp thống quân vụ đại thần Nguyễn Thiện Thuật phong là Đề đốc, phát triển lực lượng ra vùng chung quanh.

Ngô Quang Huy thành lập một đội quân tuyên truyền tố cáo tội ác của giặc Pháp và quan lại Nam triều, họp các kỳ hào và dân chúng, tuyên đọc Chiếu Cần vương của vua Hàm Nghi. Ông còn cho đắp đê, trồng tre dọc sông Nghĩa Trụ kéo dài từ xã Ngọc Kinh, qua Tuấn Dị, Vĩnh Bảo đến các xã Đông Khúc, Vĩnh Khúc, Tráng Vũ, Kênh Cầu dài gần 20 cây số, một con đê khác từ Nghĩa Trai đến Cầu Ghênh (Nhạc Miếu) dài 4 cây số làm tuyến phòng thủ. Ông cho đắp nhiều gò đống, đắp nhiều bờ ruộng cao, khơi sâu kênh mương ở dọc đường 5 để quân sĩ ẩn núp phục kích quân Pháp.

Nghĩa quân do Ngô Quang Huy chỉ huy đánh nhiều trận như trận tấn công đồn Bần Yên Nhân, nhiều trận phục kích quân Pháp ở đồn Ghênh, đồn Bần Yên Nhân, đồn Đống Mối (Nghĩa Lộ tổng Đại Từ, Văn Lâm). Các trận càn của quân Pháp và quân Hoàng Cao Khải vào An Lạc, Đình Dù, Đại Từ, Nghĩa Trai, Đông Khúc, Khúc Lộng... đều bị nghĩa quân đánh bật ra bảo vệ được căn cứ.

Tán lý quân vụ Ngô Quang Huy còn được vua Hàm Nghi và Thượng thư bộ Lễ Nguyễn Quang Bích giao cho việc tổ chức lực lượng kháng chiến ở vùng đồng bằng sông Hồng. Ông thường thảo thư từ liên lạc với các quan lại trong phe chủ chiến và sớ gửi vua Hàm Nghi.

Mặc dù đã nhiều cố gắng, song bị quân Pháp liên tục bao vây, truy kích Ngô Quang Huy đành phải giải tán nghĩa quân rồi cùng em là Ngô Quang Chước cùng mươi nghĩa quân thân tín chạy lên Phủ Lạng Thương (tỉnh Bắc Giang ngày nay), quân Pháp vẫn đuổi sát phía sau, để giữ trọn danh tiết không sa vào tay giặc, ngày 1 tháng 4 năm Kỷ Sửu (khoảng 1/5/1889), Ngô Quang Huy đã tự tử. Ngô Quang Chước cùng mấy nghĩa quân chôn cất, rồi san bằng mặt ruộng cho mất dấu tích. Mươi năm sau, ông Chước quay lại tìm thì không thấy.




 ✯✯ 
Nguồn Dựng nước - Giữ nước - hoi_ls Thượng tá, 28 Tháng Mười Một, 2011.


Ngô Quang Huy

Quê xã Yên Lạc huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên. Đỗ Cử nhân khoa Nhâm tý 1852 triều Tự Đức.

Con Ngô Quang Diêu, anh Ngô Quang Chước, cha con anh em đều thi đỗ, làm Huấn đạo, thăng Đốc học.

Cùng Ngô Quang Chước phối hợp với Nguyễn Cao, Nguyễn Thiện Thuật chống nhau với quân Pháp ở chiến khu Bãi Sậy(Khởi nghĩa Bãi Sậy 1883-1892).

Vua Hàm Nghi phong Hồng lô tự khanh (hàm Chánh Tứ phẩm),sung Tán lý quân vụ, chỉ huy quân Cần vương vùng nam Bắc Ninh, bắc Hưng Yên, Hải Dương,tục gọi Ông Tán Bắc.Khi Nguyễn Thiện Thuật lánh sang Trung Quốc,ông tiếp tục chỉ huy cuộc kháng chiến ít lâu, rồi rút lên mạn ngược.

Thất truyền.
Theo NHÂN VẬT HỌ NGÔ (TIẾP THEO)H-M - Blog Trảo Nha