GIAI THOẠI VỀ ĐẤT VÀ NGƯỜI HAI THÔN

Monday, March 18, 2013


TIỂU DẪN:

Từ xa xưa cặp địa danh Đồng Tỉnh, Hoa Cầu luôn tồn tại và song hành cùng nhau qua các bài vè, ca dao, tục ngữ, đồng dao, huyền tích còn lưu truyền trong dân gian. Lược bóc đi những yếu tố tâm linh thần thoại hoá - lớp mây mù vốn có sẵn trong bản chất của loại hình văn hoá phi văn bản này, sẽ giải mã được phần nào sự thật và truyền thống cũng như khát vọng sống cao đẹp trải bao thế hệ người xưa gửi gắm lại, qua đó cũng phản ánh được phần nào bản chất thực của những sự kiện đã từng xảy ra trên vùng đất này.

Câu ca dao ghi lại nghề truyền thống của 2 làng:

Ai về Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm.

Phản đối lại việc các chức sắc, nha dịch hai làng kình địch nhau, ra sức đốc thúc tiền của dân làng, thuê thợ tạc tượng voi đá, hổ đá:

Đồng tỉnh có tính trộm mèo
Hoa Cầu bắt được đem treo xà nhà...

Mục đích của việc tạc tượng để chôn đánh dấu mốc địa giới với hàm ý của bên chôn voi muốn mượn uy “Đức Ông” thạch tượng, ám chỉ việc “voi giày”.
Bên hổ đá đáp lại bằng việc mượn oai Chúa sơn lâm “Ông ba mươi” ám chỉ hổ tướng nào biết sợ ai...

Hoa cầu có tượng ông voi
Bị hổ Đồng Tỉnh cắn lòi ruột ra...
Chuyện tạc tượng hổ và voi của hai làng được bắt đầu từ việc thuần tuý tâm linh, làng Đồng Tỉnh thờ vị nhân thần tuổi Ất Mão làm thành hoàng làng. Làng Hoa Cầu thờ vị Á thần Nguyễn Tính. Bên võ bên văn. Danh trạng của hai vị lược ghi như sau:

“Hương Chàng lang công” - thành hoàng làng Đồng Tỉnh


Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết


Lời mở:

Trong dòng chảy văn hoá Việt Nam từ ngày xuất hiện niên sử, việc phong thần cho những người có công với dân, với nước vẫn thường được các sách sử xưa chép lại. Đó cũng là nét đặc sắc trong nền văn hiến Việt Nam.
Phong thần trong tín ngưỡng dân gian phản ánh lại những ước mơ, nguyện vọng của các tầng lớp dân cư gửi gắm niềm tin vào đời sống tâm linh nhằm thoả mãn nhu cầu đáp ứng và được đáp ứng niềm tin tín ngưỡng của mình vào vị thần mà họ cầu mong được hưởng sự trợ giúp trước mọi bế tắc đời sống. Các vị nhân thần, Á thần thường là người có tri thức, đức tín đặc biệt hay có sức mạnh siêu nhiên, hoặc có khả năng tiếp thu được sức mạnh từ các lực lượng siêu nhiên, thần bí qua việc phù hộ che chở, run rủi cho con người vượt qua mọi hoạ nạn sắp xảy ra (âm phù).
Nguồn gốc của việc phong thần là niềm tin tín ngưỡng khởi nguồn từ quan niệm tâm linh của người Việt cổ xưa qua việc cầu đảo lễ bái các vị thần sông, thần núi, thần đất, thần nước (thiên thần) do nhà vua là đại diện tối cao của toàn dân chủ trì tế lễ, kết hợp cùng tục thờ Mẫu Mẹ Đất, Mẹ Nước, Mẹ Thượng Ngàn... trong tín ngưỡng dân gian mỗi khi xảy ra nạn lụt lội, hạn hán, hoàng trùng, dịch bệnh xảy ra đe doạ trực tiếp đến đời sống con người, sau đó được cộng hưởng thêm luồng tư tưởng Nho, Đạo từ Trung Quốc du nhập vào. Chỉ đến khi luồng tư tưởng này đủ sức thống trị toàn xã hội, yếu tố con người mới được ghi nhận và đưa lên ngang hàng với các yếu tố tự nhiên trong vũ trụ qua mối quan hệ (Thiên - Địa – Nhân) thì việc tôn thờ các vị nhân thần có sức mạnh phi phàm (trí, lực) mới bắt đầu được nhìn nhận, coi trọng và được tôn vinh, bằng việc các vị vua (thiên tử) đứng đầu triều đại ban sắc phong thần ghi nhận công trạng cho các vị, khi ấy mới được coi là vị nhân thần chính thống, nếu dân gian tự ý tôn phong mà không có ý chỉ của vua dụ xuống thì bị coi là thờ nguỵ thần, tà đạo (tuỳ theo từng triều đại).
Khi xét phong thần (nhân thần, á thần) cho một con người cụ thể nào đó, dân gian thường căn cứ vào những hành tích (công thần) và công trạng (mối lợi chung) mà vị đó đã đóng góp cho dân vùng đó hoặc cho đất nước như đánh đuổi giặc giã, lập công lớn giúp vua qua cơn hoạn nạn, cứu giúp cho dân cư một vùng khỏi nạn oan cừu, đói khát, dịch bệnh, hay cụ thể như đem lại cho dân một làng một nghề mới nào đó giúp cải thiện cuộc sống dân sinh, chứ không truy xét nguồn gốc, xuất thân địa vị hoặc giai tầng xã hội của người đó.


Nhiều trường hợp khi soạn thần phả cho các vị nhân thần, các vị vâng chiếu phụng soạn, (hoặc do các dịch giả chưa bám sát được diễn tiến thời cuộc và đời sống tâm linh xã hội đương thời) thường bỏ sót nhiều chi tiết cơ bản hoặc gắn thêm vào một số tích truyện mang đậm màu sắc huyền thoại khiến các đời sau rất khó tra cứu cho tường tận khi muốn hiểu về tung tích và hành trạng của các vị nhân thần dẫn đến sự hiểu nhầm, ngộ nhận.
Trường hợp phong thần cho thần hoàng làng Đồng Tỉnh và Á thần Nguyễn Tính là những điển hình.

Vị nhân thần làng Đồng Tỉnh là Công thần triều Lê (?) có công giúp vua đánh đuổi giặc phương Bắc (Ai Lao) (?) giữ yên bờ cõi, được nhà vua xuống sắc phong tặng “Thượng đẳng Tối linh Đại vương”. Và bản thần Phả do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Nhâm Thân (1572) hiện còn được lưu trữ tại viện Hán Nôm, (bản dịch của Lê Thị Mãng do Mai Xuân Hải hiệu đính năm 1999) có ghi sơ lược một vài chi tiết căn bản về quá trình xuất thân và lập công trạng của vị đương cảnh thành hoàng làng Đồng Tỉnh cùng 2 bài thơ xướng hoạ của vua triều Lê đương thời và bài thơ ứng mộng của vị tổ phụ có công sinh ra vị nhân thần. Tuy vậy vẫn còn rất nhiều chi tiết cần phải làm rõ như ngày tháng năm sinh, năm mất, công trạng cụ thể của vị nhân thần này ra sao? giúp vị vua nào trong số các vị vua thuộc kỷ nhà Lê (Lê sơ), và đặc biệt thời gian của sự kiện lịch sử làm lên công trạng đó, có phù hợp với thời gian các sự kiện đã ghi trong các cuốn cố sử của các triều đại phong kiến Việt Nam hay không? Rất cần phải làm rõ là yêu cầu chính đáng và tất yếu của lịch sử.

Vị Á thần - Tiến sĩ Nghĩa quận công Nguyễn Tính, ngoài công lao đi sứ phương bắc dưới triều Lê - Trịnh, còn có công hai lần chỉnh trang tu sửa đình làng Hoa Cầu.

Nhiệm vụ của bài viết nhỏ này chỉ mang tính tham khảo, không tham vọng đưa ra một quan điểm cụ thể nào đối với các chi tiết thần tích cha ông đã ghi, ngoài mục đích bóc đi lớp sương mù huyền thoại từ nhiều trăm nay vẫn che phủ, mong tìm trở lại gần đúng với bản chất sự kiện lịch sử đã diễn ra trong cuộc đời và sự nghiệp vị nhân thần và á thần của hai làng.

Vị nhân thần làng Đồng Tỉnh

Bắt đầu khởi nguồn từ sự kiện năm Nhâm Thân (1572), xảy ra vào tháng giêng, đương giữa tiết xuân, khi nhà vua (Lê Anh Tông) làm lễ tế giao. Trong lúc đang thắp hương quỳ khấn thì lư hương bỗng đổ nhào xuống. Tự biết đó là điềm chẳng lành, vua Lê Anh Tông mới nhân cơ hội đó ban chiếu đổi niên hiệu từ Thiên Hựu thành Hồng Phúc. Lấy năm 1572 làm năm Hồng Phúc thứ nhất với mong muốn đổi dữ thành lành, giảm nhẹ đi những tác hại của điềm báo. Liền thời gian sau đó nhà vua xuống chiếu ban tặng sắc phong cho các vị thiên thần, nhân thần mà dân gian đang thờ trong cả nước nhằm bố cáo việc thay đổi niên hiệu cầu mong an lành và cầu xin sự linh ứng phù hộ của các vị thần chủ trong cả nước.
Bản Thần phả của vị Đương cảnh thành hoàng làng Đồng Tỉnh tổng Hoa Cầu huyện Văn Giang trấn Bắc Ninh, được soạn vào năm Nhâm Thân (1572) thời vua Lê Anh Tông trị vì (1557 - 1573). Trong phần sơ tả về quê cha (trang An Tường - Thanh Hoá), Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính có chép lại Bài thơ:

Hổ lang chi mộng báo Lê gia
Phúc hậu hồn trung báo hải hà
Ất Mão đương niên sinh quý tử
Thiên thu hưởng lộc mộc ân ba.

Bài thơ có thể coi là cái mốc đầu tiên để xác định năm sinh của vị nhân thần theo năm âm lịch, Ất Mão (nội dung câu thơ thứ 3), nhưng năm dương lịch là năm nào? Có công giúp vua Lê đời thứ bao nhiêu trong triều đại nhà Lê? Hành trạng (năm 13 tuổi giúp vua Lê (?) đánh giặc phương Bắc (Ai Lao)(?) là thật hay chỉ là những ngoa truyền trong dân gian, được các sử gia đời sau nhặt nhạnh chép lại mà thành thần tích?

Ta đã biết khởi đầu triều Lê sơ (Bình Định vương Lê Lợi) từ năm Đinh Dậu (1418) – năm Bình Định vương thứ nhất, khi ấy theo yêu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng đất nước và cũng là nguyện vọng của đại đa số quân dân Đại Việt, Lê Lợi lên ngôi vua nhưng ông chỉ xưng Vương chứ không xưng đế, kéo dài đến năm Nhâm Thân (1572) đời vua Lê Anh Tông (thời Lê trung hưng) là tròn 154 năm, tính theo can, chi thì được hơn 2 hoa giáp (mỗi hoa giáp 60 năm). Lấy mốc khi Lê Lợi ra đời (năm Ất Sửu – 1385) đến khi bản thần tích này được soạn là 187 năm, hơn 3 hoa giáp. Để thuận việc tính toán, ta lấy năm Ất Mão (1375) làm cơ sở và làm mốc tính cho cả 3 hoa giáp tiếp theo là các năm 1435; năm 1495; năm 1555. (Năm 1375 thuộc đời vua Trần Duệ Tông, 1435 thuộc đời vua Lê Thái Tông; 1495 thuộc đời vua Lê Thánh Tông; 1555 thuộc Lê Trung Tông Vũ hoàng đế).

Bản Thần phả còn ghi lại sự kiện năm ông 13 tuổi, có công phò tá giúp vua Lê tiến đánh giặc phương Bắc (tức giặc Ai Lao) khi ấy giặc đang đóng đồn ở Vân Đồn (?) tiếm xưng nguỵ tướng, chiếm giữ địa giới các châu huyện biên giới, quấy nhiễu dân cư... Trong trận đánh này ông được cưỡi voi cùng nhà vua, được vua đích thân đặt tên cho là: Hương Chàng lang công, đi trước làm tiên phong tấn đại tướng quân... sau trận đánh trở về, được nhà vua đích thân kéo quân về trang Đồng Tỉnh, mở tiệc ăn mừng và ban thưởng... đến buổi trưa sau khi ăn tiệc xong thì ngài hoá, hôm đó là ngày 25 tháng 10 năm Mậu Thìn...


A - Xét theo lôgic của sự việc
1. Giả thiết thứ nhất: Ông sinh năm Ất Mão (1375) thời vua Trần Duệ Tông, tức hơn Bình Định vương Lê Lợi 10 tuổi. Năm ông 13 tuổi tức năm Mậu Thìn (1388) khi ấy Lê Lợi mới lên 3 đương thời vua Trần Đế Hiện, tháng 11 năm ấy là thời vua Trần Thuận Tôn. Vậy ông không thể sinh vào thời điểm này.

2. Giả thiết thứ hai: Ông sinh năm Ất Mão (1435) thời vua Lê Thái Tông, khi ấy Lê Lợi vừa qua đời được 1 năm. Năm ông 13 tuổi tức năm Mậu Thìn (1448) thời vua Lê Nhân Tông. Năm 1442 vua Thái Tông chết, vua Lê Nhân Tông lên nối ngôi từ lúc mới 2 tuổi, tức ông hơn vua Lê Nhân Tông 5 tuổi.

3. Giả thiết thứ ba: Ông sinh năm Ất Mão (1495) đời vua Lê Thánh Tông, năm ông 13 tuổi là năm Mậu Thìn (1508) đời vua Lê Uy Mục.

4. Giả thiết thứ tư: Ông sinh năm Ất Mão (1555) đời vua Lê Trung Tông vũ hoàng đế, năm ông 13 tuổi tức năm Mậu Thìn (1568) đời vua Lê Anh Tông.



Giả thiết thứ nhất đã được loại bỏ, còn ba giả thiết sau đều có thể.



B. Xét theo điều kiện lịch sử được ghi trong chính sử ta thấy:
1. Giả thiết thứ hai:
năm Mậu Thìn (1448), vua Lê Nhân Tông vừa tròn 8 tuổi
Mậu Thìn, năm (Thái Hòa) thứ 6 (1448). (Minh, năm Chính Thống thứ 13) xảy ra một số sự kiện lớn như:
- Tháng 2, mùa xuân.
+ Ðèo Mạnh Vượng, tri châu Phục Lễ, có tội. Triều đình cho phép Mạnh Vượng được chết, rồi trao chức Chiêu thảo sứ cho em hắn là Dao.
+ Miền Đông đạo đồn ngoa rằng có sứ nhà Minh sang ta. Triều đình sai bọn Lê Khắc Phục đi lên biên giới.
Bấy giờ miền Đông đạo đồn ngoa rằng sứ nhà Minh đến nơi biên giới để hội đồng với ta làm việc khám nghiệm. Triều đình sai Trình Dục, Đông đạo tham tri, đến tận nơi để thăm dò. Dục vừa mới đến biên giới, đã vội quay về tâu rằng quan khâm sai nhà Minh kết hợp với các quan trấn thủ Quảng Đông đem nhiều binh mã đến. Triều đình liền sai bọn Tư khấu Lê Khắc Phục, tả hữu nạp ngôn Nguyễn Mộng Tuân và Nguyễn Văn Phú, Hữu thị lang Đào Công Soạn, Trung thừa Hà Lật, cùng với Tây Đạo đồng tri Nguyễn Thúc Huệ đi lên biên giới, chờ đợi để hội khám. Lại sai Nam Sách lộ Đồng tri Lê Thiệt đem hơn vạn quân kết hợp với quân sĩ ở trấn An Bang làm việc tuần phòng biên giới. Mọi người đều được ban cho tiền nhiều ít có khác nhau. Lại sắc sai miền Đông đạo chuẩn bị làm việc khao quân. Vì thế trăm họ nôn nao nhộn nhạo.
Khi đến biên giới, mọi người ở lại chờ đợi hàng tuần, hàng tháng, chẳng hề thấy có tin tức gì cả. Ai nấy mua các hàng hoá Trung Quốc rồi về, nói thác ra rằng quan khâm sai nhà Minh vì cớ riêng, không đến được. Quan Ngự sử đài là Hà Lật, vì bè đảng không chịu nói. Triều đình cũng bỏ qua không xét hỏi đến việc này nữa.
- Tháng 11, mùa đông.
+ Gả Vệ quốc trưởng công chúa cho Lê Quát.
+ Các thổ tù ở Tuyên Quang là bọn Nông Thế Ôn, Dương Thăng Kim và Nguyễn Châu Quốc làm phản, dẹp yên và giết chết cả.
Trước kia, bọn Nông Thế Ôn ở Bảo Lạc, Thắng Kim ở Thám Già và Châu Quốc ở An Phú, đều cậy có địa thế hiểm trở xa khơi, không chịu cung nộp phú thuế và sưu dịch. Đến đây chúng định mưu cùng nhau liên hợp quân lại, giữ lấy bản châu, nổi lên làm phản. Việc lên đến triều đình. Nhà vua sai Lê Luân, Tổng quản Tuyên Quang, đem quân bản trấn đi đánh dẹp, bắt được bọn Thế Ôn và Châu Kim, giải về kinh đô, giết chết.


2. Giả thiết thứ ba:
Mậu Thìn, năm thứ 4 (1508), (Minh năm Chính Đức thứ 3) có các sự kiện:
- Tháng 2, mùa xuân.
+ Bổ dụng Mạc Đăng Dung là đô chỉ huy sứ ở ti Đô chỉ huy sứ thuộc vệ Thiên Võ.
- Tháng 10, mùa đông.
+ Bắt đô ngự sử Đỗ Nhân giao xuống ngục hình, ít lâu, Nhân lại được tha.
+ Nước Hắc La La xâm lấn cửa Chu Quan (Chu Thôn Điền). Nhà vua sai bọn Lê Quýnh đem quân đi đánh, chia lập mốc giới ở nơi quan ải rồi dẫn quân về.
Nhà vua sai Trần Thúc Mại, đô đốc Bắc quân làm phó tướng doanh Hữu du kích, Phạm Nhất Ngạc làm ký lục dẫn quân đi trước; một mặt hạ lệnh cho Mĩ quận công Lê Quýnh làm Chinh man tướng quân, Đan Khê bá Trịnh Hưu làm phó, thống lĩnh các vệ Thần Võ, Hiệu Lực, Điện Tiền và quân trong Ngũ phủ tất cả 6 vạn người đi đánh. Quân kéo đến cửa ải Chu Quan, chia lập mốc giới; lại hạ lệnh cho bọn Lê Quýnh chỉnh lý đất đai ở Chu Quan thuộc châu Thuỷ Vĩ, xứ Hưng Hoá, sửa sang xếp đặt công việc ở quan ải, rồi dẫn quân về.


3. Giả thiết thứ tư:
Mậu Thìn, năm thứ 11 (1568). (Mạc, năm Sùng Khánh thứ 3 - Minh, năm Long Khánh thứ 2 ) có sự kiện:
- Tháng 3, mùa xuân.
+ Dùng Nguyễn Bá Quýnh làm tổng binh Quảng Nam.
+ Thổ tướng Quảng Nam là Trấn quận công Bùi Tá Hán mất. Nhà vua sai quận Nguyên Nguyễn Bá Quýnh thay thế.
Đến đây, giả thiết thứ tư bị loại bỏ bởi trong năm này không hề xuất hiện sự kiện ngoại bang xâm lấn bờ cõi, hơn nữa giai đoạn này chỉ cách thời điểm soạn bản thần tích vài chục năm, và Đại học sĩ Nguyễn Bính cũng không cần phải bắt đầu bản thần tích bằng cụm từ “Thời bấy giờ, tương truyền ở trang Đồng Tỉnh...”. Chỉ còn lại giả thiết thứ hai và giả thiết thứ ba là đều có thể xảy ra.




C. Xét theo điều kiện vị trí địa lý và hành trạng của vị vua triều Lê.
1. Giả thiết thứ hai:
Ở giả thiết thứ 2 có hai sự kiện giặc xâm lấn bờ cõi.
- Sự kiện thứ nhất: xảy ra vào tháng 2, tại miền Đông đạo. Nhưng bản chất thực của sự kiện này chỉ là những ngoa truyền, đồn đại và sự tác trách của một số quan lại đương triều. Sự việc xảy ra trong vòng thời gian khoảng 1 tháng (tức khoảng tháng 3 thì trở lại bình thường, tuy triều đình có điều động hơn 1 vạn quân binh của lộ Nam Sách đi nhưng không xảy ra cuộc giao tranh nào.
Ở sự kiện này sự trùng lặp cùng bản thần tích về vị trí địa lý là địa danh Vân Đồn thuộc vùng An Bang, trấn An Bang cũng được lệnh kết hợp cùng quân triều đình tuần tiễu vùng biên giới. Địa danh Vân Đồn vào thời Trần, Trần Khánh Dư đã từng bố trí quân thuỷ, phục binh đánh đoàn thuyền lương do Trương Văn Hổ chỉ huy làm lên chiến thắng Vân Đồn lẫy lừng trong lịch sử chống ngoại bang của quân dân Đại Việt trên biển Đông.
Sự trùng lập thứ hai theo bản thần phả ghi là giặc phương Bắc (tức giặc Ai Lao). Biên giới phía Đông bắc Đại Việt tiếp giáp vùng Lưỡng Quảng. Cụm từ “giặc phương Bắc” để chỉ quan quân nhà Minh trong sự kiện này là sát thực hơn cả.
Hơn nữa khi xét theo điều kiện khách quan, vua Lê Nhân Tông khi ấy mới được 8 tuổi chưa thể thống xuất binh lính ra trận, bởi đường tuần thú từ kinh thành tới Vân Đồn quá xa và đầy rẫy sự nguy hiểm đối với một ông vua trẻ, nên sự kiện này cũng không đáp ứng được yêu cầu khách quan. Sự kiện bị loại bỏ.
- Sự kiện thứ hai: Xảy ra vào tháng 11, mùa đông ở biên giới phía tây bắc Đại Việt, do các thổ tù ở Tuyên Quang liên hợp với nhau gây ra, quân trấn Tuyên Quang đánh dẹp và bắt sống được các thủ lĩnh giải về kinh đô.
Ở sự kiện thứ hai, về thời gian và địa điểm xảy ra đều không phù hợp với bản thần tích, bản chất của sự kiện này là cuộc nội chiến trong nước, và các thổ tù đều là những người có chức danh do triều đình phong, không phù hợp với nội dung ghi trong bản thần tích “tiếm xưng nguỵ tướng”. Sự kiện thứ hai được loại bỏ.


2. Giả thiết thứ ba:
Ở giả thiết này, chỉ có duy nhất 1 sự kiện xảy ra vào tháng 10, mùa đông năm Mậu Thìn (1508) nước Hắc La La ở mạn Vân Nam, động binh quấy nhiễu biên giới phía Bắc Đại Việt, vua Lê Uy Mục phải điều động tới 6 vạn quân đi đánh. Trong tất cả chỉ có giả thiết này là đúng, tuân thủ được đầy đủ nhất tính lôgic khách quan của sự việc cũng như đáp ứng được mọi yêu cầu đã đặt ra của vấn đề. Theo một số sách sử ghi lại thì các nước Hắc La La, Lão Qua, Sơn Lão... đều có mặt các tộc của bộ lạc Ai Lao, người Ai Lao sống thành từng nhóm rải rác trong các sơn động giáp biên giới phía tây, tây bắc Đại Việt. Trong trận đánh chiếm, tranh chấp biên giới này, họ đã chia quân theo nhiều ngả từ phía Bắc biên giới Đại Việt tràn xuống, đánh lan theo diện rộng, triều đình phải thống suất nhiều đạo binh đi chống đỡ, cánh quân của vua đến Chu Thôn Điền thì dựng cột mốc địa giới. Trận ở Châu Thuỷ Vĩ, ải Chu Quan (Chu Thôn Điền - đvsktt), Hưng Hoá chỉ là một trận đánh mang tính chất tiêu biểu mà các sử gia chọn ghi lại.
Trận đánh đồn giặc ở Vân Đồn do Lê Uy Mục đích thân dẫn quân đi, được ghi trong cuốn Thần phả do Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn là một tư liệu lịch sử rất quý báu, giúp các nhà viết sử có thêm tư liệu để khảo cứu về trận đánh quân Hắc La La của vua Lê Uy Mục vào đầu tháng 10 năm 1508.
Lại xét thêm về hành trạng Vua Lê Uy Mục trong chính sử được ghi lại với chân dung của một ông vua tàn bạo. Vừa lên ngôi đã giết chết Thái hoàng thái hậu, cùng những trung thần của tiên triều như Nguyễn Quang Bật, Đàm Văn Lễ bởi khi trước, họ không chịu theo phe cánh của Kính Phi (mẹ nuôi thái tử Tuấn) cùng Nguyễn Nhữ Vi đồng mưu sửa đổi di chiếu của vua Hiến Tông, họ 1 lòng trung trinh giữ nguyên chiếu cũ lập vua Lê Túc Tông nối ngôi (di chiếu giao cho Đàm Văn Lễ và Nguyễn Quang Bật thừa hành, lập thái tử Thuần).
Sự việc Nguyễn Quang Bật bị dìm chết ở Nghệ An bại lộ, bị danh sĩ trong cả nước phản đối, Uy Mục vội tỏ ra ân hận sai giết người cậu ruột của mình là Nguyễn Nhữ Vi để đổ tội lấy lòng danh sĩ. Bản tính tàn ác và hoang dâm vô độ của Uy Mục khi chưa lên ngôi thể hiện rõ qua việc lấy hiệu là “Quỳnh Lâm động chủ”. Khi được ngôi vua càng vô đạo hơn, thường xuyên tổ chức những buổi yến tiệc, ép mọi người uống rượu hễ ai say là giết liền, đến nỗi sứ Minh là Hứa Thiên Tích sang cấp sắc phong An Nam Quốc Vương cho Lê Uy Mục được nối ngôi vua, khi nhìn thấy tướng mạo nhà vua đã cảm thán mà đọc câu thơ:
An Nam tứ bách vận vân trường
Thiên ý như hà giáng quỷ vương?
Sách Hồng Thuận Trung hưng ký của Nguyễn Dục ghi, Mẫn Lệ công thất đức, bọn Chủng, Thắng chuyên quyền. Thừa Nghiệp là thằng nhãi chăn trâu mà kiêm coi cả phủ Tông nhân; Tử Mô là đứa trẻ bán cá lại trông giữ hết quân Túc vệ. Tiến dùng bè lũ sài lang, đua mở rộng đường hối lộ. Xây phủ thì rừng núi các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang không còn cây đủ để lấp nguồn dục vọng, [54a] đòi mắm muối thì sông biển các vùng Nghệ An, Yên Bang không còn cá mà nhét miệng đói thèm. Gươm Thái A trở ngược, thần khí lung lay, tai dị sinh luôn, họ dân ta oán...
ĐVSKTT còn ghi, vua [46b] tính ưa vũ dũng, nhân khi đi tế Giao trở về cung, cưỡi trên đầu voi Viện Vân vào cửa Ðông Hoa. Hạ lệnh cho các ty năm phủ đem voi công vào trước mặt vua để lựa chọn và kê khai voi công của các trấn đem về kinh sư chọn làm voi ngự bổ sung cho các vệ.



Nghi án:
Lê Uy Mục sinh giờ Tý ngày mồng 5 tháng 5, năm Hồng Ðức thứ 19 [1488]. Năm Thái Trinh thứ 1 [1504] lên ngôi mới 17 tuổi, mất khi 22 tuổi, ở ngôi được 5 năm, rất thích cưỡi voi và tiến phong những người còn trẻ tuổi như Thừa Nghiệp và Tử Mô, là hai đứa trẻ chăn trâu và bán cá được giữ chức vụ tối quan trọng trong triều. Vị nhân thần làng Đồng Tỉnh cũng là một trong những trường hợp như vậy, nhưng có thể do uống rượu quá say khi về mở yến tiệc mừng công tại trang Đồng Tỉnh, Uy Mục đã sát hại vị nhân thần của làng để loại trừ mầm loạn, bởi ngài khi ấy mới 13 tuổi mà tỏ rõ khí phách của một đấng anh hùng. Hơn nữa ở tuổi thiếu niên mà uống rượu ban của Uy Mục, không thể tránh khỏi sự say xỉn mà bị giết, bởi Uy Mục vẫn có thói quen giết người say khi uống rượu.
Qua tất cả các dữ liệu ở trên, kết hợp cùng chi tiết cùng vua cưỡi voi xung trận ghi trong bản thần phả, ta có thể khẳng định được một điều: Vị nhân thần “Hương Chàng lang công” sinh ngày 14 tháng 3 năm Ất Mão, tức năm 1495 đời vua Lê Hiến Tông. Có công đánh giặc Hắc La La giúp triều đình nhà Lê sơ và mất vào ngày 25 tháng 10 năm Mậu Thìn tức năm 1508 đời vua Lê Uy Mục.
Và bài thơ mừng công còn lưu chép trong thần phả làng đồng tỉnh hiện nay là của vua Lê Uy Mục:

Long Vân nhất hội hoán tinh thần
Hạnh ngộ nhân tài tại ngã nhân
Duy thị yến trung hoan ẩm ngữ
Tình lưu Đồng Tỉnh Ức niên xuân.



Vị Á thần làng Hoa Cầu.

Nguyễn Tính ứng thí khoa Canh Thìn (1640), đỗ tiến sĩ đời vua Lê Thần tông (tức thái tử Duy Kỳ), và chúa Minh đô vương Trịnh Tráng, làm quan bồi tụng, Lễ bộ Hữu thị lang. Sau khi đi sứ phương Bắc về được thăng phong Nghĩa quận công. Ông là con út của quan Tham chính, Thái bảo Thọ kiều hầu Nguyễn Hằng người đỗ tiến sĩ đầu tiên của làng Huê Cầu (khoa Bính Tuất (1586)).
Cha ông là người giữ tiết tháo, tuy làm quan to trong triều nhưng hoàn cảnh nhà chỉ tùng tiệm, đủ ăn, sống cuộc đời thanh bạch như bài thơ cha ông tự hoạ về gia cảnh mình.

Ứ hữ trên đầu tóc đã hai
Nghĩ mình khó ngọt chửa bằng ai
Nằm nhà dột khư khư gáy
Lắc đầu không khích khích cười
Cột thiếu mành to che tháng giá
Bếp không liêu đất nấu canh khoai
Lại nghe Chu Dịch lời này nữa:
Bĩ cực ngày rày ắt thái lai.


Nối gương cha, Nguyễn Tính thi đậu Đồng tiến sĩ, làm quan to trong triều, ông là người có công và khéo vận động mọi người trong làng hợp sức dựng đình chung. Ngôi đình làng Hoa Cầu được sửa sang tôn tạo mới đến hai lần đều nhờ công ông.
Sau này dân làng xin thờ ông làm thành hoàng làng và thờ trong ngôi đình đó, được triều đình chấp nhận và sắc phong “Dực Bảo Trung Lương Linh phù chi thần”.




Trải qua 26 đời vua Lê sơ, Lê trung hưng và triều Hậu Lê, làng Hoa Cầu có tới nhiều người thành danh trong đường khoa cử, Đáng lưu ý nhất là vào giai đoạn triều hậu Lê với các vị:
  1. Đồng tiến sĩ Nguyễn Hằng thi đỗ khoa Bính Tuất (1586), làm quan tới chức Tham chính, tước Thái Bảo Thọ Kiền hầu (Khi nhà mạc mất, ông cùng một số quan lại trong triều đình Mạc đều bị bắt).
  2. Đồng tiến sĩ Nguyễn Tính đỗ Khoa Nhâm Thìn (1640), làm quan tới chức Thượng thư, tước Nghĩa hầu công.
  3. Đồng tiến sĩ Nguyễn Hành, đỗ khoa Mậu Thìn (1688) làm quan tới chức Thượng thư, tước Dương Trạch Bá.
  4. Đồng tiến sĩ Quản Danh Dương, đỗ khoa Canh Dần (1710), làm quan tới chức Thị lang, tước Hoa phái hầu.
  5. Đồng tiến sĩ Nguyễn Quốc Dực, đỗ khoa Mậu Tuất (1718), làm quan tới chức phó Đô ngự sử.
  6. (1) Cử nhân Nguyễn Nhã Trực, đỗ khoa Bính Ngọ (1726), làm quan tri huyện Yên Dũng.
  7. Đồng tiến sĩ Quản Dĩnh, đỗ khoa Đinh Mùi làm quan tới chức Đại học sĩ.
  8. Chánh tiến sĩ Quản Đình Du, đỗ khoa Tân Hợi (1731) làm quan đến chức Hàn lâm thị chế.
  9. (2) Cử nhân Nguyễn Viết Thục, đỗ khoa Mậu Ngọ (1735).
  10. (3) Cử nhân Nguyễn Giản Kính đỗ khoa Quý Mão (1747) làm quan tri huyện Thanh Châu (Phú Thọ).
  11. Đồng tiến sĩ Nguyễn Gia Cát, đỗ khoa Đinh Mùi (1787).
  12. Hương cống Nguyễn Thủ Phác, đỗ khoa Kỷ Mão (1819).
  13. (4) Cử nhân Tô Ngọc Huyền, đỗ khoa Ất Dậu (1825)
  14. Đồng tiến sĩ Tô Trân, đỗ khoa Bính Tuất (1826), làm quan tới chức Tham tri bộ Lễ, toản tu Quốc sử quán. 6.Tô Trân (1781-?) người xã Xuân Cầu huyện Văn Giang phủ Thuận An (nay thuộc xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang tỉnh Hưng Yên). Cử nhân năm Ất Dậu niên hiệu Minh Mệnh thứ 6 (1825). Ông giữ các chức quan, như Hàn lâm viện Biên tu, Tuần phủ Định Tường (1826), Án sát Thái Nguyên, Thái bộc tự Thiếu khanh sung làm Toản tu tại Quốc sử quán, rồi thăng Tả tham tri Bộ Lễ. Sau ông xin cáo lão về quê.
  15. (5) Cử nhân Nguyễn Đức Huy, đỗ khoa Giáp Ngọ (1834), làm quan Án sát Cao Bằng.
  16. (6) Cử nhân Tô Ngọc Nữu, đỗ khoa Canh Tuất, làm Giáo thụ.
  17. (7) Cử nhân Nguyễn Mệnh Phương, đỗ khoa Nhâm Tý (1852)
  18. Phó bảng Tô Huân đỗ khoa Mậu Thìn (1868)

    Phó Bảng Phan Văn Ái, đỗ khoa Canh Thìn (1880), làm tới Án sát tỉnh Sơn Tây, hàm Quang Lộc tự Thiếu Khanh.

  19. (8) Cử nhân Tô Ngọc Sướng, đỗ khoa Bính Tuất (1886)
  20. (9) Cử nhân Đào Quản, đỗ khoa Tân Mão (1891)



II. ĐỒNG TỈNH – HOA CẦU NGÀN NĂM VĂN VẬT - PHONG TỤC TẬP QUÁN


PHONG TỤC TẬP QUÁN



Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết

A. ẨM THỰC TRANG PHỤC



Ăn uống là nhu cầu thiết yếu của bất cứ động vật sống nào, loài người cũng vậy, không phân biệt màu da, sắc tộc, chính kiến, tôn giáo, tín ngưỡng tất cả hoạt động sống tồn tại, duy trì được là nhờ vào khả năng hấp thụ và chuyển hoá thức ăn thành vi chất dinh dưỡng trong cơ thể.

Mỗi cộng đồng dân tộc, tuỳ theo hoàn cảnh địa lí, môi trường sinh thái, truyền thống lịch sử mà có các sở thích chế biến thức ăn khác nhau, đồ uống khác nhau, những quan niệm về ăn uống dần dần được hình thành cùng thời gian năm tháng trở thành những tập quán, phong tục ăn uống khác nhau.

Ở ĐỒNG TỈNH với sự thiên di của dân cư từ nhiều vùng khác nhau đến, khiến phong tục ăn uống kiêng khem mỗi vùng đều có những điểm khác biệt, mang dấu ấn đặc trưng riêng của vùng đất mình sinh ra, nhưng tựu chung lại các sản vật như lúa gạo, khoai mì, thịt cá, rau xanh các loại vẫn là món ăn chủ đạo trong bữa cơm thường ngày của tất cả mọi người.


Cơm tẻ là món chủ đạo không thể thiếu của các bữa ăn trong ngày. Cơm tẻ được thổi nấu từ nhiều loại gạo tẻ trồng trên ruộng nước.

Cơm nếp, xôi chế biến từ gạo nếp dùng trong các dịp tế lễ sóc vọng, giỗ chạp, cưới xin, ma chay.

Rau xanh được coi là nguồn cung cấp các laọi khoáng chất, Vi ta min A, B, C… cho cơ thể con người được dùng thường xuyên trong các bữa ăn, chế biến thành nhiều món thích hợp khẩu vị và khẩu phần ăn của các thành viên gia đình trong bữa cơm.

Thịt, cá, các loại thực vật có nguồn đạm cao là nguồn cung cấp chất bổ dưỡng cho bữa ăn cũng có mặt trong bữa cơm mọi gia đình.

Mắm muối gia vị, là nguồn cung cấp các chất muối khoáng, đạm tinh chất cho cơ thể. Được dùng kết hợp để chế biến các món ăn thường ngày.

Dân dã sử dụng đồ uống như một nhu cầu giải khát hàng ngày trực tiếp bù cho cơ thể lượng nước thiếu hụt.

Nước uống có nước lá vối, nước lá chè tươi hoặc phơi khô, khi uống đun sôi hoặc ngâm vào nước sôi trong bình pha, sau đó rót ra uống khi khát.

Rượu trắng (rượu ta) là đồ uống thông dụng của các đấng nam nhi và cả một số nữ nhi thích “cảm giác bồng bềnh”, được chế biến từ gạo nếp (rượu nếp, rượu cái), hoặc gạo tẻ (rượu gạo), hoặc các loại củ khoai sắn, quả mơ mận (rượu sắn, rượu mơ) theo cách ủ lên men và chiết xuất bằng thuỷ phân. Được dùng làm đồ uống trong các bữa ăn với quan niệm dân gian “uống chút rượu cho ấm lòng”, bữa tiệc chiêu đãi, hoặc tiếp đón khách khứa thăm viếng trong các dịp tế lễ, giỗ chạp, hiếu hỉ” không rượu không thành lễ”.


Rượu cồn (rượu ngoại) có nhiều chủng loại, đáp ứng đủ mọi sở thích của mọi người tiêu dùng, có đặc điểm được sản xuất theo lối công nghiệp với công nghệ cao, độ cồn thấp, giá thành tất nhiên cũng cao hơn rất nhiều so với rượu ta, được một số người tiêu dùng thuộc tầng lớp dân cư khá giả, có điều kiện kinh tế sử dụng trong các dịp lễ tết.

Bia chai và bia hơi được sản xuất từ lúa mạch, theo công nghệ lên men vi phân và chưng cất theo công nghệ riêng được nhiều người ưa thích, sử dụng như đồ uống giải khát hoặc thay rượu trong các bữa ăn, các cuộc gặp gỡ hội hè, các đám hiếu hỉ.

Trang phục truyền thống
Tương tự như phong tục tập quán ăn uống, quần áo cũng có rất nhiều kiểu dáng, màu sắc, chất liệu, và hoa văn trang trí trên trang phục mang nét riêng biệt, làm nên diện mạo và bản sắc riêng của mỗi vùng, các loại trang phục truyền thống này hiện nay ít được sử dụng, đa phần chỉ được mọi người mặc vào các dịp lễ tết, hội hè.

Trang phục phổ thông
Là các loại trang phục may sắn, đa dạng kiểu dáng, màu sắc phong phú, có nguồn cung cấp từ các cơ sở may lớn trong nước như Việt Tiến, May 10, hoặc các thương hiệu sản phẩm may mặc nổi tiếng như levis… v.v., được nhiều người ưa chuộng bất kể dân tộc thiểu số nào, đặc biệt tầng lớp thanh niên, các loại trang phục may sẵn luôn dành được sự quan tâm hàng đầu của họ mỗi khi có dịp đi chợ mua sắm.

Đầu tóc, răng lợi
“Cái răng, cái tóc là góc con người” là nét văn hoá truyền thống Việt Nam, luôn quan tâm và đề cao hình thức của con người qua mái tóc, khi nhắc đến “đầu bù tóc rối” là mọi người liên tưởng ngay đến hành trạng của người cầu bơ, cầu bất, lang thang đầu đường xó chợ, “đầu bù, răng bựa” dùng để chỉ hạng người vô tích sự, ham ăn, ham chơi, lười nhác lao động, truyền thống đàn ông con trai cắt tóc ngắn, đàn bà phụ nữ nuôi tóc dài đã thành nét đẹp văn minh, văn hoá truyền thống.

Tục mài răng, nhuộm răng chỉ tồn tại trong một số lớp người thuộc thế hệ sinh trước năm 1945, đến nay không còn tồn tại.

Tuỳ theo địa hình cư trú của mỗi gia đình mà kết cấu nhà ở có những điểm khác nhau, nói chung kết cấu nhà ở của người Việt ngày nay đều chú trọng đến tính tương đồng, tương thích cùng môi trường sinh thái, ít phân biệt theo truyền thống của từng dân tộc.

Các kiểu nhà vách đất nện, mái lợp lá hoặc các vật liệu dễ kiếm có sẵn trong môi trường tự nhiên xung quanh.

Hiện nay đa phần các ngôi nhà đều được xây dựng theo lối bê tông hoá, mái bằng đổ bê tông cốt thép, nền lát đá, gạch hoa, tường gạch đỏ, hoặc gạch xỉ, nhà cửa được xây dựng theo lối mới, cột bê tông chịu lực, tường che, cửa gỗ kính, hoặc cửa xếp sắt. Cầu thang nối các tầng và lan can trang trí được dùng bằng gỗ tiện trang trí hoặc loại thép trắng chống rỉ, rất phù hợp với dải khí hậu nóng ẩm của nước ta.



B. HÔN LỄ - CƯỚI HỎI - SINH NỞ - MỪNG THỌ - MA CHAY



Hôn nhân là việc trọng đại của một đời người, ngay từ thủa xa xưa chịu ảnh hưởng của lễ giáo phong kiến việc chọn vợ gả chồng cho con cái do cha mẹ, hoặc các huynh trưởng quyết định, vấn đề yêu đương tìm hiểu và tự do hôn nhân không hề tồn tại hay là có khái niệm trong giai đoạn đó.
Ngày nay, hôn nhân đã được sự bảo trợ của pháp luật, và tục đa thê, đa phu cũng đã bị xoá bỏ thay vào đó là luật hôn nhân với quy định của pháp luật chỉ cho phép một vợ, một chồng.
Các cặp trai gái đến tuổi trưởng thành, yêu đương tìm hiểu nhau được tự do cởi mở tâm tình, có quyền lựa chọn cho mình người bạn đời mà cô ta (anh ta) cảm thấy gắn bó nhất, yêu quý nhất. Sau khi đã thống nhất chấp nhận xây dựng cuộc sống gia đình với nhau, hai người sẽ từng bước ra mắt và xin phép bố mẹ hai bên để tiến tới mục đích chung sống lâu dài với nhau, cuộc hôn nhân chính thức được tiến hành.

Các lễ thức của việc hôn nhân
Khi được pháp luật thừa nhận là có đủ điều kiện và năng lực đáp ứng những quy định, quy chế pháp luật hiện hành để đi tới mục đích hôn nhân của đôi trai gái qua việc cấp giấy “đăng ký kết hôn” cho đôi uyên ương của Uỷ ban nhân dân phường, xã nơi cô dâu hoặc chú rể cư trú. Sau đó hai bên gia đình đại diện là bố mẹ cô dâu chú rể và các bậc phụ huynh trong tộc họ bắt đầu tiến hành bàn bạc và thực hiện lần lượt các nghi thức, vai trò chủ yếu thuộc về nhà trai:

Lễ chạm ngõ
Nhà trai đưa lễ vật đến nhà gái thông thường là trầu cau, rượu, trà để ước hẹn với nhau sẽ vun đắp cho đôi trẻ lên vợ nên chồng. Nhà gái nhận lễ sẽ đem cúng gia tiên và chia biếu các vị tôn trưởng trong tộc họ.
Từ lễ chạm ngõ cho tới lễ ăn hỏi không giới hạn thời gian, tuỳ theo điều kiện thực tế của đôi trai gái như kinh tế, công ăn việc làm, tang ma trong nội tộc. Cũng có nhiều trường hợp sau khi dạm ngõ, vì lí do nào đó mà không thể thực hiện được các bước tiếp theo nữa thì hôn ước coi như bị xoá bỏ.

Lễ ăn hỏi
Nhà trai đưa lễ vật đến nhà gái để xin xác định ngày làm lễ thành hôn cho đôi trẻ, lễ vật không thể thiếu là buồng cau, cơi trầu, hoa quả, bánh kẹo, rượu bia, thuốc lá, trà…vv, lễ vật đặt trong những quả ơn son thếp vàng và những mâm son phủ lụa đỏ (lụa điều), tuỳ theo từng lễ ít nhất là 3 mâm, nhiều có thể lên tới 9 hoặc 11 mâm quả.
Nhà gái tiếp nhận lễ vật, bày cúng gia tiên, mỗi thứ đồ lễ đều san bớt lại một phần trao lại cho nhà trai (gọi là lại quả) phần lễ nhận sẽ được chia đều cho họ hàng, bạn bè thân thuộc, hàng xóm láng giềng gọi là quà báo hỷ của nhà gái.


Lễ cưới
Đối với nhà trai là lễ đón dâu, nhà gái là lễ tiễn dâu
Trước giờ đón dâu, hoặc trước khi đoàn đón dâu nhà trai đến cổng ngõ nhà gái, phải cử ra một người phụ nữ đứng tuổi có thể là mẹ chú rể đại diện cho đoàn rước dâu cùng vài ba bà khác đem cơi trầu, trong có đặt tờ giấy bạc mới (tiền mới) mang tính chất tượng trưng không tính đến giá trị thực của đồng tiền, đến xin dâu, sau đó chú rể và đoàn rước dâu đúng giờ tốt đã định khởi hành đến nhà gái đón dâu về. Tại nhà gái, cô dâu và chú rể mới làm lễ trước bàn thờ gia tiên cẩn cáo cùng tiên tổ về chứng giám nhận mặt con cháu và coi chú rể đã chính thức là một thành viên trong gia đình.
Sau lễ gia tiên, cô dâu làm lễ vái chào bố mẹ, người thân, họ hàng nhà gái, cùng đoàn phù dâu lên xe hoa về nhà chồng.
Tại nhà trai, khi đoàn rước dâu về đến cổng thì mẹ chú rể tạm thời lánh mặt sang nhà hàng xóm, sau khi đôi vợ chồng trẻ làm xong các thủ tục lễ gia tiên trước bàn thờ tổ tông, cô dâu chú rể về vị trí chủ toạ nhận lời chúc phúc của bạn bè và mọi người khách dự tiệc cưới, người chủ hôn khi này có vai trò hoạt náo, mua vui cổ động mọi người múa hát văn nghệ chào mừng cho đôi trẻ bên nhau đến đầu bạc răng long.

Lễ lại mặt
Sau ba ngày tổ chức đám cưới, sang ngày thứ tư nhà trai sắm sửa cau trầu, xôi gà cho đôi vợ chồng đem sang nhà gái làm lễ cúng gia tiên, gọi lễ này là lễ lại mặt (tứ hỷ).
Ngày nay thường là ngay sau ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ đã đưa nhau về bên nhà vợ làm lễ cúng gia tiên rồi bày cỗ ăn mừng, đó cũng là lại mặt nhưng là lễ (nhị hỷ).

Sau lễ thành hôn, cả hai bên gia đình nội ngoại của cô dâu, chú rể đều mong ngóng “tin mừng” từ phía cô dâu tức tin cô dâu báo có thai. Đó là ước vọng chính đáng của ý thức duy trì nòi giống, truyền lưu dòng dõi huyết thống, mong có người nối tiếp nghiệp nhà, và đặc biệt điều này mang đậm nét văn hoá của nền văn minh nông nghiệp “trẻ cậy cha, già cậy con”.

Mang thai
theo cách tính toán cổ truyền từ khi có tin mừng cho tới khi sinh nở là chín tháng mười ngày trong khoảng thời gian gần 300 ngày này người phụ nữ mang thai phải thực hiện chế độ kiêng cữ chặt chẽ, mọi người trong gia đình đều tự ý thức tạo điều kiện chăm sóc thuận lợi và thoải mái nhất cho cô con dâu đang mang bầu.

Sinh nở
Thông thường thai nhi đến kỳ, đủ ngày đủ tháng thì người mẹ trở dạ sinh nở, có nơi đón bà mụ người đỡ đẻ về tận nhà để giúp sản phụ sinh nở mẹ tròn con vuông, có dân tộc người phụ nữ phải tự xoay sở vật lộn “vượt cạn” một mình, hiện nay việc sinh nở và chăm sóc bà mẹ mang thai được các trung tâm y tế cơ sở đảm nhiệm với các gói đẻ sạch, chăm sóc và dành cho thai nhi các điều kiện chăm sóc thuận lợi tối ưu.

Đặt tên cho trẻ
Khi mới sinh con, mọi người đều tránh đặt tên ngay mà thường dùng các tên gọi tạm thời như cún, vện, cu, hĩm để gọi đứa bé, tuỳ theo giới tính của trẻ mà gọi tên. Sau khi đầy tháng hoặc đầy năm, tuỳ từng nơi tổ chức lễ đặt tên chính thức cho con trẻ. Ngày xưa tên thường được ông nội hoặc bố đứa trẻ đặt, để tránh trùng tên với ông bà, cụ kỵ tiên tổ nội tộc nhà chồng, thứ nữa là tránh đặt tên trùng với tên thành hoàng làng, thần làng, tiếp đến phải tránh trùng tên với các bậc cao niên, anh em họ hàng nội ngoại và những người già cả trong làng nơi gia đình nhà chồng định cư sinh sống.
Ngày nay có nhiều trường hợp đặt tên ngay sau khi đứa trẻ ra đời, để tiện việc làm giấy khai sinh cho trẻ, cha mẹ trẻ đỡ phải tốn nhiều công đi lại làm thủ tục khai sinh và đăng ký khai sinh. Tên khai sinh này gắn bó suốt đời với đứa trẻ, là tên gọi hợp pháp được sử dụng trong tất cả các giấy tờ chứng minh nhân thân, có tư cách pháp nhân trong mọi giao dịch, giao tiếp với xã hội, được pháp luật gián tiếp bảo hộ.


Đi học
Nhiều dòng họ chú trọng tới việc học hành của trẻ, tự đặt ra những lệ tục như hàng năm tổ chức buổi họp mặt đông đủ mọi người trong tôn tộc và làm lễ ghi danh những đứa trẻ đến tuổi đi học vào sổ khuyến học của dòng họ, kết hợp tổ chức tuyên dương thành tích và trao quà thưởng cho những đứa trẻ có thành tích xuất sắc trong học tập.

Mừng tuổi
Thường vào dịp đầu xuân hàng năm, xuất phát từ lệ coi trọng tuổi trời, đứa trẻ sinh ra dù vào dịp cuối năm hoặc trước giao thừa vẫn được tính thêm một tuổi khi bước vào năm mới. Vào dịp tết Nguyên Đán đứa trẻ nào cũng náo nức chờ đợi được nhận tiền mừng tuổi của người lớn, số tiền mừng tuổi thường được gói trong phong bao đỏ hoặc hồng điều là những tờ giấy bạc mới kèm theo món tiền mừng tuổi này là những câu chúc phúc cho đứa trẻ hay ăn chóng lớn, học hành tiến bộ giỏi giang.
Với những người cao tuổi, con cháu cũng thực hiện lệ này với tấm lòng thành tôn kính cầu mong cho các cụ được khoẻ mạnh sống lâu.

Trong các thôn bản, làng phố, những người từ 50 tuổi trở lên được coi vào diện lão, nhân những dịp tròn 50, 60, 70, 80, 90 tuổi con cháu trong gia đình thường tổ chức các buổi lễ mừng thọ và mừng thượng thọ, các cụ ông, cụ bà được ngồi vào ghế đặt ở vị trí trang trọng nhất trong ngôi nhà, con cháu lần lượt vào tặng quà và gửi lời chúc thọ.

Qua lời chúc đại thể là cám ơn công đức sinh thành dưỡng dục của mẹ (cha, ông bà, cụ kị) và bày tỏ niềm hạnh phúc của mình khi được chăm sóc cho mẹ (cha, ông bà, cụ kị) cũng như cầu mong cho mẹ (cha, ông bà, cụ kị) được trường thọ, sống lâu thêm nhiều tuổi nữa, đó cũng là hồng phúc của các cháu con.

Chết là kết thúc vòng sinh trưởng sinh học của một đời người. Việc chết của một con người từ nhiều đời nay đã được nhân loại quan tâm, tìm hiểu bản chất thực của cái sự chết, đã có không ít luận thuyết được xây dựng nên xung quanh vấn đề này. Việc đón nhận cái chết như một lẽ tự nhiên hay tìm mọi cách chế ngự kéo dài, khuất phục nó đã khiến nhân loại tốn không biết bao nhiêu trí lực, thu hút được sự quan tâm đặc biệt của tất cả mọi người tới mọi vấn đề nảy sinh xung quanh cái chết.
Trong tín ngưỡng dân gian quan niệm chết là sự trở về với thế giới vĩnh hằng, là được về cõi niết bàn, cõi Phật, ở đó không tồn tại những ý niệm không - thời gian, không tồn tại sự khổ đau mà trần tục loài người đang gồng mình hứng chịu. quan niệm “Sống gửi thác về”, “sống có phận, chết có số” “Trần sao âm vậy” đã khiến nảy sinh ra rất nhiều phong tục, tập quán trong việc đón nhận và xử lý thi hài đồng loại sau khi chết.

Một số bước chuẩn bị khi trong nhà có người chết
Khi người già có những triệu chứng khó ở, thường được con cháu dành riêng cho một cái giường kê ở vị trí giữa nhà và gạn hỏi những điều trăn trối cuối như tâm tư nguyện vọng nào mà người sắp chết chưa được thoả mãn, còn việc gì chưa hoàn thiện để con cháu và những người đang sống gánh vác thực hiện thay, sau đó người giữ trách nhiệm cúng tế chính trong các buổi giỗ chạp sau này sẽ ghé tai người sắp chết thì thầm đọc “tên hèm” để sau khi chết, hồn người đó mỗi khi nghe con cháu đọc nhắc đến cái tên ấy thì về nhận đồ tế lễ, tránh trường hợp những vong hồn không nơi nương tựa về hưởng tranh phần.


Khi người đã chết thực sự, con cháu thấy không còn thở nữa bằng cách đặt một nhúm bông hoặc lông gà vào mũi mà không thấy lay động, hoặc đặt cái gương vào mũi mà không thấy gương mờ vì hơi nước khi thở thì thi thể khi ấy sẽ được chuyển đặt xuống đất một lát với ý nghĩa tín ngưỡng mong cho sinh khí phục hồi, sinh ra trưởng thành từ đất mẹ, nay lại trở về với đất mẹ. Sau đó lại chuyển thi thể người đã chết lên giường, phủ kín bằng tấm vải niệm, riêng phần mặt được che đậy bằng một lớp giấy bản. Trong thời gian chờ phát tang để mọi người thân cùng bà con lối xóm đến chào tiễn biệt lần cuối cùng, người nhà phải đi mời thầy địa lý về xem giờ chết tốt hay xấu và mời phường kèn định giờ phát tang, nhập quan, hạ huyệt để căn cứ vào đó bố trí thời gian tổ chức tang lễ cho phù hợp.

Lễ hú hồn
Nhà có người vừa chết, người con cầm áo người chết mặc khi tắt thở mới thay, trèo lên mái nhà theo lối cửa trước, hú gọi hồn người chết trở về ba lần, sau đó tụt xuống theo mái nhà bên kia vào theo lối cửa sau phủ tấm áo ấy lên trên thi thể người chết mong cầu sự hồi sinh lại của người vừa chết.

Lễ phạm hàm
Chắc chắn rằng cơ thể người đã chết hẳn rồi, con cháu trong gia đình khi ấy lấy một chiếc đũa gài ngang miệng, sau đó bỏ một nhúm gạo, ba đồng tiền hoặc mảnh vàng lá vào trong miệng người chết. Hành động tín ngưỡng này có ý nghĩa trên đường người chết đi đến cõi cực lạc, luôn có sẵn lương thực và tài sản mang theo làm lộ phí sẽ không gặp trở ngại. Lễ này gọi là Phạm hàm.

Lễ khâm liệm
Gồm tiểu liệm và đại niệm. Tiểu niệm gồm một mảnh vải dọc, ba mảnh vải ngang, thường là vải trắng, những nhà có điều kiện có thể dùng vóc, lụa. Xếp các mảnh tiểu liệm cho ngay ngắn, đặt tấm vải rộng (vải khâm) lên trên, rồi khênh thây đặt vào chính giữa, xếp các đồ chèn thường là giấy bản rồi buộc thi thể lại cho chặt. Đại liệm gồm một mảnh dọc, năm mảnh ngang, cũng được sắp xếp tuần tự như tiểu liệm.

Lễ nhập quan
Sau khi đã xem xét cẩn thận giờ giấc, giờ lành thì con cháu tiến hành nghi thức nhập quan cho người chết, khênh thây đã khâm liệm đặt vào quan tài quay đầu ra phía ngoài sau đó dùng giấy bản chèn cho chặt bốn xung quanh. Nếu người chết phạm giờ xấu, thì khi nhập quan người nhà sẽ để vào theo một cỗ bài tổ tôm 120 quân, cuốn lịch cũ hoặc dán bùa yểm để trừ tà khí rồi đậy nắp quan tài, gắn chặt bằng sơn ta. Trên nắp thiên bày các bát hương, bát cơm đơm đầy cùng quả trứng gà bóc vỏ kẹp giữa hai chiếc đũa cắm thẳng đứng, đầu đũa vót xơ bông. Theo tín ngưỡng dân gian, khi người chết phạm vào cung giờ xấu (giờ quan tuần đi bắt lính) nếu linh hồn của người chết bị sung quân, quan có hỏi thì linh hồn người đó sẽ đưa dần các quân bài có sẵn trong quan tài khi liệm và nhận là con cháu của mình để tránh tai hoạ cho gia đình, thân tộc.


Lễ đặt bàn thờ
Bàn thờ tạm thường được đặt trước linh cữu, phía ngoài che màn vải xô. Trên bàn thờ ngoài bát hương, đèn, nến có kèm theo hình ảnh chân dung của chết và bài vị thờ cúng bằng giấy ghi rõ chức vụ, quán tịch, họ tên khi sống, tên tự, tên hèm, địa vị ngôi thứ trong gia đình bằng chữ Hán, hoặc bằng chữ Việt quốc ngữ viết giả theo lối Hán tự. Trước bàn thờ treo một tấm vải ngang, viết bốn chữ Hỗ sơn vân ám (Mây che núi Hỗ) nếu người chết là cha tang chủ hoặc Dĩ lĩnh vân mê (mây mờ phủ núi Dĩ) nếu người chết là mẹ. Hai bên bàn thờ còn treo các câu đối bằng vải trắng ghi lại lời thương tiếc cha mẹ của các con trong gia đình.

Lễ thành phục

Thiết lập xong bàn thờ thì con cháu dâu rể tiến hành làm lễ thay áo thường phục bằng áo tang, mũ tang hoặc khăn tang truyền thống. Con trai trong gia đình mặc áo xô gai, đầu đội mũ nùm rơm quấn bẹ chuối khô, tay chống gậy (cha gậy tre, mẹ gậy vông); con dâu, con gái mặc áo xô gai, lưng thắt dây bện bằng bẹ chuối, xoã tóc đội mũ mấn. Con rể, anh em thân thích mặc áo thụng trắng, đội khăn trắng. Hàng cháu đội khăn trắng, chắt khăn vàng, chút khăn đỏ.

Lễ phúng viếng

Sau lễ thành phục, là lễ viếng dành cho họ hàng xa gần, cùng bạn hữu gần xa, bà con chòm xóm đến thăm hỏi thắp nén hương chia tay người đã khuất. Khách viếng hành lễ trước bàn thờ vong vái hai vái (lạy), con cháu đáp lễ lại bằng nửa lễ một vái (lạy). Lễ vật khách viếng thường là cau, rượu, thẻ hương, nay đơn giản hoá bằng tiền gói trong phong bì có ghi đầy đủ tên họ, địa chỉ người viếng để sau này con cái gia chủ căn cứ vào đó mà trả lễ.

Lễ tế kèn
Sau lễ thành phục, nhà có đám thường thuê sẵn đội kèn (đội nhạc hiếu), mỗi khi có khách đến viếng, đội kèn lại tấu lên những khúc nhạc bi ai, rầu rĩ, ảo não sầu thảm riêng của các đám tang, kết hợp cùng lời than tiếng khóc của con cháu người quá cố. “Sống dầu đèn, chết kèn trống” là nét văn hoá của người Việt Nam từ trước đến nay.

Tục chọn đất hạ huyệt
Thường thì gia đình người quá cố kết hợp cùng thầy địa lý căn cứ vào giờ sinh giờ tử, cung mệnh của người vừa chết để xem xét lựa chọn phương hướng, hoặc dải đất hạ huyệt chôn cất thi thể người quá cố. Trong tín ngưỡng dân gian, việc chọn đất hạ huyệt có ý nghĩa quan trọng với mối liên hệ tâm linh của những người đang sống theo triết lý “Sống vì mồ, vì mả chứ không ai sống vì cả bát cơm” (chữ cả ở đây mang hàm nghĩa lớn, hàng đầu như lợn cả, ao cả, ruộng cả). Tất cả các tục sau khi chọn đất, như hạ nhát cuốc đầu tiên để đào huyệt cũng phải lựa đúng giờ tốt đã được ấn định.

Tục chuyển cữu – yết tổ

Ngày đưa đám được xác định, tang gia tiến hành chuyển cữu sang nhà thờ tổ (nếu có để cáo yết với tổ tông) có thể đơn giản hơn là thay thế việc chuyển cữu bằng áo mão, dải lụa đeo trước ngực tử thi (hồn bạch). Hoặc con cháu chỉ cần khiêng linh cữu quay một vòng (chuyển cữu) rồi đặt lại vị trí cũ tượng trưng cho việc cáo yết tiên tổ.

Tục đưa đám
Đúng ngày giờ đã chọn, gia chủ hành lễ xin đưa linh cữu về nơi an táng, bằng việc gõ ba hồi chín tiếng phèng la đồng báo hiệu cho mọi người trong thôn xóm biết đã đến giờ đưa đám, mọi người tập trung tại nhà tang chủ, và theo sau xe chở cữu đưa người quá cố ra nơi có huyệt mộ đã được đào chuẩn bị sẵn cho việc chôn cất tử thi.

Tục cúng 3 ngày

Tang chủ tổ chức cúng ba ngày liền sau khi đưa đám trở về, với ý nghĩa tín ngưỡng cầu mong cho người chết được yên vui nơi cực lạc, các đồ cúng thường là cơm, canh, bánh trái.

Tục viếng mộ
Quy định con cháu sau 3 ngày từ khi chôn cất phải ra thăm viếng, sửa sang lại mộ phần.

Tục cúng cơm
Trong vòng 100 ngày sau khi chôn cất, tang chủ phải làm cơm canh cúng ngày hai bữa, ngụ ý vẫn phụng dưỡng vong linh cha mẹ như lúc còn sống.


Tục cúng 49 ngày (Thất lai tuần)
Sau mỗi bảy ngày tính từ khi người thân mất, tang chủ phải làm một lễ nhỏ lên chùa cúng cầu siêu cho vong hồn người quá cố, đủ bảy lần liên tục như vậy thì làm một lễ lớn hơn để cúng cầu siêu gọi là cúng thất lai tuần.

Tục cúng giỗ đầu
Một năm sau ngày người thân qua đời thì làm giỗ đầu, bỏ mũ áo xô gai, nhưng vẫn mặc trang phục vải trắng, chít khăn trắng. Ngày nay thay vào việc mặc tang phục những ngày sau đó, người trong gia đình có tang chỉ cần đính theo một miếng vải đen nhỏ trước ngực để báo tang.

Tục giỗ hết
Hai năm sau ngày người thân qua đời thì làm giỗ hết (đoạn tang) tức đại tường. Thời hạn để đại tang coi như đã hết, nhưng phải chờ sau khi lễ trừ phục tổ chức sau giỗ hết 2 đến 3 tháng thì mới được bỏ hết tang phục. Dân gian thường nói để tang 3 năm nhưng thực tế chỉ vào 27 tháng chịu tang mà thôi. Tổ chức giỗ hết tang chủ có thể làm lớn mời anh em họ hàng đến dự cúng giỗ.

Tục cải táng
Sau khi làm giỗ hết, là đến giai đoạn tổ chức lễ sang cát tức bốc dọn di hài xương cốt chuyển sang tiểu sành để chôn cất lại. Lần chôn cất này được coi là lần chôn cất cuối cùng và mang tính chất vĩnh viễn.
Sau khi cải táng, những nhà có điều kiện kinh tế thường xây đắp kiên cố mộ phần, người có quan tước, phẩm hàm thì xây lăng mộ, gắn bia khắc tên vào mộ phần. Hàng năm vào tiết thanh minh, con cháu đến thăm viếng làm công việc quét dọn mộ phần và bày đồ tế lễ cúng tại chỗ. Nhân ngày lễ tết, hoặc giỗ chạp có gia đình cũng ra tảo mộ.








Một vòng đời người kể từ khi sinh ra đến lúc trưởng thành rồi già lão, bệnh tật mà mất đi đều gián tiếp hoặc trực tiếp góp phần vào công cuộc kiến tạo, bồi đắp thêm cho nền văn hoá tâm linh thuần Việt tồn tại, phong phú, đi vào đời sống muôn sau. Những phong tục đẹp, tập quán hay mà con người khi sống chịu tác động, có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành nhân cách con người, nó dần được hoàn thiện theo hướng gạn thô lọc tinh và thẩm thấu vào hệ ý thức con người gián tiếp quy định mọi hành vi ứng xử, điều tiết chi phối các mối quan hệ xã hội, đó chính là thuần phong mĩ tục riêng có của dân tộc Việt Nam, được xây dựng trên cơ sở tâm linh văn hiến ngàn đời nay.




Tiểu mục phong tục tập quán này tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu và ghi hết lại được hoàn toàn các phong tục tập quán vùng đất Nghĩa Trụ, cũng như nhiều phong tục tập quán khác còn tồn tại trong đời sống hàng ngày của nhân dân. Hi vọng trong các tập sách khảo cứu tiếp theo chúng tôi sẽ tiếp tục sưu tầm khảo cứu và giới thiệu đến bạn đọc nhiều công trình nghiên cứu sâu sắc hơn nữa về những phong tục, tập quán đang hiện diện trên vùng văn hoá này.

II.1 CHUYỆN VỀ CÁC DANH NHÂN


DANH NHÂN



Xin nhấp chuột vào mục cần đọc để xem chi tiết


PHAN VĂN ÁI

(Ghi theo lời kể của nhà thơ, nhà báo Phạm Như Tiên)

Thân thế và sự nghiệp
Phan Văn Ái sinh năm canh tuất (1850) niên hiệu Tự Đức thứ ba, mất năm 1898, là con ông Phan Văn Chạch, cháu nội ông Phan Văn Chỉnh, ông còn có tên là Phan Văn Tâm, hiệu là Đồng Giang, người làng Đồng Tỉnh.

Năm 27 tuổi, đỗ cử nhân, hạng thủ khoa, khoa thi Hương, năm Bính Tí, đời Tự Đức thứ 29 (1876), được lĩnh mũ áo nhậm chức tri huyện, huyện Hương Trà, là huyện sở tại của kinh thành Huế. Ông là một ông quan liêm khiết thẳng thắn, cương trực và có khí phách, khi làm Tri huyện Hương Trà, ông đến xem nhà một ông quan đã nghỉ hưu vì nghe tiếng dị nghị ông này là một tham quan. Chủ nhân ngỏ ý mời ông ăn cơm và nói: "Nhà có nhiều món quý, ông thích ăn món gì để sai người nhà làm cơm", ông trả lời: Ông thích món ngô rang; chủ nhà thấy khác ý song vẫn cố nói: "Tôi không còn răng, ngô rang ăn sao được?" Cụ Ái đốp thẳng: "Bạc nén rắn như thế cụ còn gặm được huống hồ ngô rang, làm sao không ăn được?" thế rồi chủ khách tạm biệt nhau.

Tuy làm quan, bận rộn việc công, chăm lo cho dân bản huyện, nhưng ông vẫn tu thân ôn luyện, học hành đêm tối, gặp khoa thi Hội năm Canh Thìn (1880) niên hiệu Tự đức thứ... ông đỗ phó bảng (ất tiến sĩ). Được bà từ dụ gán gả công nương Tôn Thị Phan cho theo ông làm kế thất (Công nương Tôn Thị Phan là con gái vua Thiệu Trị).

Có sách chép rằng: Ông đã ra lệnh cho lính đánh chú ruột vua là đức ông Lạng quận công Hồng Dật, vì đã vi phạm luật của triều đình đề ra khi ấy là bất kì ai khi đi ra đường trong đêm tối đếu phải cầm đèn.
Năm 1883 vua Tự Đức mất, di chiếu cho Ứng Chân nối ngôi, lấy hiệu Dực Đức, được hai ngày thì ông vua này bị truất, Nguyễn Văn Trường và Tôn Thất Thuyết đề nghị bà từ dụ - Hoàng Thái hậu đưa Lãng quốc công là con thứ 29 của vua Thiệu Trị lên thay lấy hiệu Hiệp Hoà. Hiệp Hoà lên ngôi, vì mối thù bị Phan Văn Ái phạt đánh 30 trượng khi trước, triều đình đã thuyên chuyển Phan Văn Ái đi nhậm chức Tri huyện Quảng Điền.
Hiệp Hoà âm mưu cấu kết với Pháp, bị Thuyết và Trường phế đi, lấy Dưỡng Thiện lên thay, hiệu là Kiến Phúc, do vua tuyên bố sẽ chống lại Thuyết và Trường lên bị đầu độc chết, Ưng Lịch được nối ngôi lấy hiệu Hàm Nghi.
Con đường tiến thân của Phan Văn Ái sẽ gặp nhiều trắc trở, bởi Thuyết tuy là người thân, nhưng cũng khó che chở được, nên Thuyết đã cử ông ra Bắc nhậm chức Tri Phủ phủ Lý Nhân (thống hạt 5 huyện, Nam Sang, Duy Tiên, Bình Lục, Kim Bảng và Thanh Liêm).
Ra làm tri phủ chưa được bao lâu, lại được phong giữ chức tham biện Toà kinh lược Bắc Kỳ, với nhiệm vụ trông coi việc học, chủ bút tờ Đồng văn Nhật báo, là tờ báo bằng chữ Hán, đồng thời ông còn viết sách và viết văn.

Có lần con trai Hoàng Cao Khải là Hoàng Trọng Phu đi du học ở Pháp, đỗ tú tài tây, Khải mở tiệc ăn mừng, đến dự tiệc có các quan tuần phủ, án sát đứng đầu các tỉnh, trong nha môn có Tư vụ, Nguyễn Khuyến, và Phan Văn Ái, khi bữa ăn gần tàn, tuần phủ Hải phòng là Phạm Văn Tuấn đọc bốn câu thơ.

Bốn cọc trơ trơ đứng giữa trời
Anh thì bay ngước, chú bay khơi
Sinh sôi nảy nở đàn con cháu
Cặp chả dâng thầy đénh chén chơi
.

bốn câu thơ vừa có ý tán tụng, vừa có ý gần như nguyền rủa, thấy vậy Cao Khải nói luôn:
xin các quan có lòng mừng cho gia đình, xin các quan hướng vào mấy chữ trong kinh thi “Thiên hà ngôn tai”. Có một người đọc nối vào hai câu “tứ thời hành yên. Vạn vật sinh yên” có nghĩa “Ông trời có nói đâu nào” với bốn mùa làm yên, mọi vật sinh sôi nảy nở. Rồi người đó đọc bài thơ tán tụng họ Hoàng. Phan Văn Ái có tính thẳng thắn và cương trực đọc luôn 4 câu đúng đầu đề mà Khải đã đề ra:

Tao ngồi chót vót mãi trên cao
Mày thử xem tao có nói nào
Da tao xanh ngắt pha đen trắng
Bởi tại dì Oa vá váy vào

với hàm ý: Trời ngồi cao thấy suốt mọi thứ ở dưới đất, bán nước hại dân trời biết cả, nhưng trời không nói. Ngay gian lẫn lộn, đen trắng lẫn lộn đều biết cả. Ác hơn, Phan Văn Ái đã lấy cả hình ảnh cái váy của đàn bà đập vào bữa tiệc, làm cho không khí trầm lặng hẳn xuống, mọi người đang im lặng thì ông tư vụ cũng đọc một bài chung chung cốt xoa dịu đôi bên, rồi ông quay qua mời cụ Yên đổ làm một bài, sao cụ lại ngồi như phỗng đá. Cụ Yên đồ liền đứng lên đọc một bài ”Ông phỗng đá” trong đó cũng có những câu mỉa mai, châm biếm nhưng không dám đả mạnh vì còn là gia sư, (giam lỏng).

“Thôi thôi đừng chấp chuyện đâu đâu
Tái vũ trụ mặc đàn sau gánh vác
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác
Chén chú chén anh chén tôi chén bác
Cuộc tỉnh say. Say tỉnh cùng nhau
Nên chăng đá cũng gật đầu”

Phan Văn Ái cũng đọc tiếp một bài gần như hoạ lại

Non thiêng khéo đúc nên người
Trong chừng sành sỏi khác trần gian
Trải bao gió táp mây ngàn
Đã già già sức, lại gan, gan lì.
Gan lì con cóc
Há non chi mà sợ cóc gì ai
Người là người tớ cũng là người
Ngẫm cho kỹ vẫn chênh vênh đầu giốc
“Tương chi tằng thức năng công ngọc (1)
Mạc luyện như hà tả bổ thiên(2)”
Thôi mặc ai rằng trắng rằng đen
Thế như thế cẵng (3) ngồi yên như thế vậy
Còn trời còn đất, còn tai mắt ấy
Lặng mà coi hoạ thấy lúc nào chăng
Hãy về giã gạo ba trăng.



Tư dinh của Hoàng Cao Khải ở ấp Thái Hà gần gò Đống Đa, nơi có miếu Trung Liệt thờ ba ông đã hi sinh vì Hà Nội là Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, và Đoan Thọ. Hoàng Cao khải đổi tên là miếu Trung Lương, có ý định sau này bắt dân thờ mình vào đó. Một hôm ông lên thăm miếu, không rõ nghĩ thế nào lại đề trên vách bài thơ như sau.

Núi Thái lông hồng đọ với nhau
Nước đau nào quản đến thân đau
Một nền chính khí trơ mưa gió
Ba khối hùng tâm chọi bể dâu.
Nợ với giang sơn đành phải trả
Người mà sà huỷ(1) kể vào đâu
Lòng trung chỉ có lòng trung biết
Đỗ Phủ(2) ngày xưa khóc Vũ Hầu(3)

Bài thơ trên đến tai Hoàng Cao Khải nên y không dám cải tên miếu nữa, nhưng một hôm ngồi nói chuyện, y bảo Phan Văn Ái rằng:
- Quan Tham Đồng Tỉnh muốn bắt chước Đỗ Phủ à, thì sẽ được như Đỗ Phủ.
Thời điểm này, giặc pháp đã dẹp yên được việc triều đình chống lại sự đô hộ của Pháp, Phan văn ái là chỗ tin cậy của Tôn Thất Thuyết cũng mất liên lạc 5-6 năm trời, nên ông cáo từ chức Tham biện toà kinh lược về quê hương, chủ trương xây dựng một khu căn cứ quân sự lấy một khu trung tâm giữa bãi sậy dốc sức khai phá, lập dinh điền, chiêu mộ nông phu khai khẩn mở rộng địa trang. Trong thời gian ở nhà, ông viết sách binh thư, soạn thảo kế sách “Việt bộ thuỷ đình”. Công việc đang trong giai đoạn phôi thai, Hoàng Cao Khải đã cho một toán lính, đóng giả kẻ cướp, nhân cơ hội đêm xuống đến dinh trại của ông để cướp, mà chỉ cướp sách vở không lấy tài vật.

Mối quan hệ giữa Tôn Thất Thuyết và Phan Văn Ái.
Tôn Thất Thuyết họ nội nhà vua, là quan phụ chính, trụ cột của triều đình, thấy Phan Văn Ái học rộng, tài cao, có nhân cách, thiên tính của một trung thần, lại lấy công chúa đương triều, trở thành con rể của hoàng gia nên mối quan hệ giữa hai người càng được thắt chặt thêm.
Hai người lại có chung tư tưởng và quan điểm trong cuộc kháng pháp, nên khi binh lực trong tay Tôn Thất Thuyết suy yếu dần, phải lẩn ẩn tránh khỏi vũ đài chính trị đương triều. Khi hoàng cao khải dâng sớ xin phong làm Phó Quốc Vương, Tôn thất htuyết đến đồng tỉnh và cất nhắc Phan văn ái lên Án Sát Sơn Tây kiêm nhiệm, thống hạt 6 tỉnh với nhiệm vụ “Vệ Quốc an dân xứ Bắc Kỳ”, chưa được bao lâu, Hoàng Cao Khái mua chuộc được đám hầu cận của ông và tiến hành đầu độc, sát hại (cho thuốc độc vào một quả đào) ông mất tháng 6 năm 1896. Sau khi ông mất, Khải ra lệnh cho tỉnh Sơn Tây phải đưa tang ông về Đồng Tỉnh, cứ khoảng 10 km phải có nhà tạm quàn thi hài ông, và hào lý các địa phương đoàn đưa tang qua phải tổ chức “Tế Điếu”. Từ Sơn Tây về tới Đồng Tỉnh phải qua 5 nhà quàn như thế.. gia đình và bạn bè ông cùng giới sĩ phu đương thời rất hài lòng.
Khi ông làm án sát Sơn tây thì công việc lập dinh điền và khai phá bãi sậy vẫn được các gia nhân tiếp tục, 3 xóm ấp được gọi là xóm trại”.

Các di vật
  • Khi đậu phó bảng được vua ban mũ áo và biển vinh quy có 4 chữ “Ân tứ vinh quy”
  • Sắc được thụ phong: Sắc phong chánh tứ phẩm quang lộc tự khanh
  • Sắc phong ông thân sinh (cụ Trạch) chánh ngũ phẩm Hàn lâm viện thị độc.
  • Sắc phong bà chánh thất (bà tám) tứ phẩm cung nhân
  • Sắc phong bà kế thất (bà Phan) tức bà hoàng cô - tứ phẩm cung nhân

Tỉnh Sơn tây có khắc bia kỷ niệm công trạng của ông, trong bia còn lại hai bài lục bát như sau:

Anh hùng trí dũng tứ ân
Hà Tây vọng bái nhớ ơn nghìn đời
Sắc hộ quốc muôn đời ghi sử
Ngàn thu còn để dấu anh hùng.,...

Hiện nay tại miếu thờ thần hoàng còn lưu hai câu đối của cụ Phan Văn Ái
Cửu Tỉnh....


Chuyện cụ đốc Đông

(Ghi theo lời kể của nhà thơ Tô Hùng Long)

Tô Huân sinh năm 1817, mất năm 1896, năm 43 tuổi ứng thí khoa thi thi Mậu Thìn năm Tự Đức thứ 21 (1868), đỗ phó bảng, được triều đình nhà Nguyễn bổ dụng làm Tri huyện Thanh Trì, sau đó được điều về kinh (kinh thành Huế) giữ chức phó đô ngự sử, rồi được thăng đến chức phó quản đạo ở Hà Tĩnh coi việc học hành thi cử.

Khi những đội quân viễn chinh Pháp tiến đánh thành Hà Tĩnh, lực lượng trong thành ít, vũ khí chiến đấu thô sơ dẫn tới sự thất thủ hoàn toàn thành Hà Tĩnh về tay Pháp, Tô Huân cùng một số các quan giữ thành bị triều đình bãi chức. Tuy thoát được tội trọng nhưng vì muốn giữ tròn danh tiết của kẻ sĩ, ông nhân cơ hội đó xin được về quê nhà an trí và mở lớp dạy chữ thánh hiền tại trường làng cho con em quanh vùng.

Sau một thời gian được triều đình phục chức, phong làm đốc học tỉnh Đông, dân trong vùng thường gọi là cụ Đốc Đông. Vốn hay chữ và nổi tiếng uyên thâm trong giới nho đạo, ở tại nơi cụ dạy học cụ cho treo hai câu đối thể hiện rõ chức phận của mình:

Đốc chư sinh phụng thiên tử chiếu
Học hà sự độc thánh nhân thư

........

Có nghĩa:

Được làm thầy theo chiếu vua ban
Dạy học trò đọc sách thánh hiền.


Trong giới nho sĩ, cụ Đốc Đông nổi tiếng tận tình với trách nhiệm làm thầy của mình, lại tận tâm chỉ bảo rèn cặp chu đáo cho mỗi học trò, tiếng thơm bay xa, học trò các nơi về theo học nơi cụ rất đông, nhiều người thành đạt, có quyền cao chức trọng. Tiêu biểu là ông Tuần phủ Nam Định Phan Đình Hoè, nhớ ơn thầy học cũ khi thầy mất, đã cung tiến một bức hoành phi đại tự và một đôi câu đối ca ngợi công đức của cụ Đốc Đông, bức hoành phi này được các con cháu trong dòng họ của cụ Đốc Đông Tô Huân trang trọng treo ở gian giữa nhà tiền tế từ đường có 4 chữ:

THANH MÔN VĂN THÁI

Tạm dịch: Cửa thanh bạch nhưng trọng văn chương

Và hai bên cột chính treo hai câu đối:

Đại gia khoa bảng truyền giang bắc.
Ngô bối cầm thư đáo hải nam.


Dịch nghĩa:

Nhà có nhiều người đỗ đạt lừng danh vùng Giang Bắc.
Nhiều sĩ tử túi đàn cặp sách nổi tiếng miền Nam Hải
.



Hiện nay trên mảnh đất thôn Tam Kỳ, xã Nghĩa Trụ là nơi cụ Tô Huân sinh sống, còn có ngôi từ đường thờ cụ làm cụ tổ trong chi họ, đã qua nhiều lần trùng tu, nâng cấp, sửa chữa với quy mô thờ tự nhỏ gọn nhưng vẫn toát lên vẻ khang trang, thu hút con cháu hàng năm về dự ngày giỗ kị.

Lịch sử tồn tại của ngôi đường này được ghi lại rất rõ qua bản gia huấn của dòng họ do cháu đời thứ 9 của dòng họ nhà thơ Tô Hùng Long còn lưu trữ được:

Từ đường trăm sáu mươi thu
Một lần kiến tạo trùng tu ba lần
Năm MỘT NGHÌN TÁM TRĂM BỐN MỐT
Cụ phong công xây dựng từ đường
Một toà đẹp đẽ khang trang
Tôn nghiêm ngày lễ khói nhang phụng thờ
Cơ nghiệp tổ từ xưa để lại
Rạng “Thanh môn văn thái” nho gia
Tu nhân tích đức nhà nhà
Bốn phương yêu quý ngợi ca thảo hiền
Nổi danh khoa bảng truyền Giang Bắc
Vang tiếng cầm thư khắp Hải Nam
Trải qua bảy chín mùa xuân
Nhà lim mưa nắng cũng dần tàn phai
Ông Tô Nghệ tú tài Đinh Dậu
Bán cầm đi gần mẫu ruộng hương
Cậy nhờ các chú đảm đương
Trông nom tiền hậu cung đường sửa sang
Thêm bảy chín mùa xuân nữa nhỉ
Năm cuối cùng thế kỉ hai mươi
Từ đường lại xuống cấp rồi
Mái hiên dột nát tường hồi mối xông
Con cụ cử là ông Tô Uý
Cùng sáu chi quết chí trùng tu
Một đoàn tiến sĩ kỹ sư
Tô Loan thủ quỹ chi thu rõ ràng
Tô Tần tài vụ làm kế hoạch
Tô Thảo cùng Tô Thạch ra công
Ngày đêm thiết kế mau xong
Tô Dũng, Tô Thế, Tô Long góp phần
Tìm mua sắt thép xi măng
Thi công giám sát khi cần có ngay
Nhà thờ tổ móng xây giằng hộp
Mái bê tông ngói lợp khang trang
Hai bên bia đá bảng vàng
Tô thêm truyền thống vẻ vang từ đường
Nơi thờ phụng tấm gương minh ngọc
Tổ tiên xưa đốc học tỉnh Đông
Cháu con về lễ tổ tông
Đáp đền ân đức gắng công học hành.



Tô Ngọc Vân


Tô Ngọc Vân là một trong những họa sỹ tiêu biểu của giai đoạn khởi đầu nền nghệ thuật tạo hinh hiện thực xã hội. Ông không những đã đào tạo được rất nhiều học trò xuất sắc mà còn thể hiện tài năng hiếm có qua những tác phẩm để đời.
Thủa nhỏ là một cậu bé con nhà nghèo, Tô Ngọc Vân phải đến sống nhờ bà cô, quá tuổi mới được đi học. Tuổi thơ nghèo khó đã tạo cho ông một ý chí tự lập, một cuộc sống nội tâm sâu sắc. Đang học trung học năm thứ 3, ông bỏ học đi theo con đường nghệ thuật. Năm 1926 ông trúng tuyển vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ở trường, ông tiếp nhận những kiến thức tạo hình mới với lòng hăng say không mệt mỏi. Phương pháp tạo hình mới, đặc biệt chất liệu sơn dầu, đã cuốn hút ông một cách mãnh liệt. Hầu hết các tác phẩm của ông đều thể hiện bằng chất liệu sơn dầu. Ông quan niệm: nghệ thuật giúp con người diễn đạt được những tình cảm rạo rực, bừng cháy trước cảnh vật và con người; chất liệu sơn dầu là chất liệu diễn đạt được những tình cảm mạnh mẽ, sự khát khao đến bến bờ hạnh phúc của con người.
Từ trước Cách mạng tháng 8 (1945) Tô Ngọc Vân đã phần nào thể hiện tính hiện thực qua các tác phẩm. Với tác phẩm Bức thư (1931), ông vẽ những cô gái đang say mê làm việc bên khung cửa. Đó là những cô gái thôn quê, chăm chỉ lao động và có một vẻ đẹp thuật khiết đang trao gửu những tình cảm đoan trang, kín đáo. Họa sỹ đã thể hiện sự dè dặt trước một khuynh hướng mới. Sau này, Tô Ngọc Vân đã thể hiện sự sâu đậm hơn hình ảnh của người phụ nữ với những đồng cảm trân trọng. Năm 1931 tranh sơn dầu Bức thư được tặng bằng khen danh dự ở Triển lãm hội họa tại Pháp và được trao huy chương vàng ở triễn lãm thuộc địa tại Pari. Thời gian này, ông cũng vẽ nhiều tác phẩm về cảnh đẹp như Ánh mặt trời, Bụi chuối ngoài nắng, Trời dịu...
Họa sỹ Tô Ngọc Vân tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật năm 1931 và dù nổi tiếng ông vẫn sống thiếu thốn bằng nghề dạy học, vẽ tranh thuê, trình bày và minh họa cho một số tờ báo ở Hà Nội. Năm 1935 ông mới được Pháp bổ nhiệm đi dạy vẽ ở Campuchia. Năm 1938 Tô Ngọc Vân trở về Hà Nội dạy ở trường Bưởi. Đến năm 1939, ông là giảng viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.


Đề tài sáng tác chủ yếu của Tô Ngọc Vân trước Cách mạng là hình ảnh người đàn bà thành thị. Tác phẩm Dưới bóng nắng vẽ người thiếu nữ mơ màng với cái nhìn lơ đãng dưới hoa trong nắng bên bờ ao. Ông không diễn tả một chân dung cụ thể mà chỉ thể hiện sự trong trắng, cao quý của người phụ nữ. Bức tranh được mọi người biết đến nhiều nhất là bức sơn dầu Bên hoa huệ (1943). Cô gái ngồi vén tóc bên những đóa hoa huệ ngát thơm. Màu chủ đạo của bức tranh là màu trắng của áo dài và những bông hoa huệ. Người phụ nữ trong tranh của Tô Ngọc Vân luôn được thể hiện với lòng trân trọng chứ không sa vào khoái cảm nhục thể nhưng cũng không quá mơ hồ, ẻo lả hoặc kiêu kỳ như tranh vẽ của các họa sỹ cùng thời.
Các sáng tác của Tô Ngọc Vân luôn đem lại cho người xem nhiều cảm xúc. Đó là điều bất kỳ họa sỹ nào cũng mong ước. Lẽ ra ông còn cống hiến nhiều cho nên hội họa nước nhà nhưng ông đã hy sinh quá sớm khi tài năng đang trong thời kỳ bộc lộ đầy đủ nhất. Do hoàn cảnh chiến tranh, nhiều tác phẩm đẹp của Tô Ngọc Vân đã bị đánh cắp, mất mát, thất lạc nên hiện nay trong nước chỉ còn lại một số ít tác phẩm sơn dầu, sơn mài. Tô Ngọc Vân xứng đáng được xem như một họa sỹ bậc thầy, một nhà trí thức lớn đã cống hiến tất cả tài năng và cuộc đời cho Tổ Quốc.
Mỹ thuật & Đời sống, 17/2000.





Tô Ngọc Vân (1906-1954) là một họa sĩ Việt Nam nổi tiếng, tác giả bức Thiếu nữ bên hoa huệ. Ông còn có những bút danh Tô Tử, Ái Mỹ.
Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng 12 1908 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội. Một vài tài liệu viết ông sinh năm 1906.
Năm 1926, ông thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thuộc thế hệ đầu tiên của trường, tốt nghiệp khóa 2 năm 1931. Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân đã có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng cao ở Pháp. Ông đi vẽ nhiều nơi ở Phnom Penh, Băng Cốc, Huế... Ông hợp tác với các báo Phong Hóa và Ngày Nay của Nhất Linh, báo Thanh Nghị... Từ 1935 đến 1939 ông dạy học ở trường trung học Phnom Penh, sau đó ông về dạy ở Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương tới 1945. Thời gian đó ông vừa giảng dạy vừa sáng tác.
Sau cách mạng Tháng Tám, Tô Ngọc Vân tham gia kháng chiến chống Pháp. Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc.
Tô Ngọc Vân được đánh giá là người có công đầu tiên trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam. Ông còn được xem là một trong những họa sĩ lớn của hội họa Việt Nam, nằm trong "bộ tứ" nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn (Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn).

Tô Ngọc Vân cũng là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã sớm vẽ tem ngay từ thời Pháp thuộc (Postes Indochine). Mẫu tem Apsara được ông thiết kế từ nguồn tư liệu của những chuyến đi vẽ, sáng tác ở khu đền Angkor Wat, Angkor Thom của Campuchia. Hình tượng chính của con tem là nữ thần Apsara, một trong hàng ngàn tượng vũ nữ điêu khắc nổi trên những vách đền đài của nền văn hoá cổ Khmer. Tem Apsara của hoạ sĩ Tô Ngọc Vân là mẫu tem thứ 23 của Bưu điện Đông Dương kể từ khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng là tem duy nhất ông góp vào nền nghệ thuật tem thư ở Việt Nam.
Ông mất ngày 17 tháng 6 năm 1954 ở Đa Khê, vùng gần sát chiến trường Điện Biên Phủ. Họa sĩ Tô Ngọc Vân được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996). Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Việt Nam.

Tô Chấn


Đồng chí Tô Chấn, anh ruột của đồng chí Tô Hiệu thuộc thế hệ cách mạng tiền bối của Đảng ta, sinh năm 1904 trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang.
Cụ nội của đồng chí là cụ Tô Ngọc Nữu, Đốc học Nam Định. Khi triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Thân 1884 gọi là hoà ước, thực chất là hàng ước Patenôtre, đặt đất nước Việt Nam bị chia làm 3 kỳ dưới sự thống trị của thực dân Pháp, cụ đã phản đối bằng cách từ chức về dạy học.
Ông ngoại của đồng chí là cụ Ngô Quang Huy, Đốc học Bắc Ninh, người lãnh đạo có uy tín trong phong trào Bãi Sậy, Hưng Yên, do cụ Nguyễn Thiện Thuật (tức Tán Thuật) đứng đầu. Cũng như Nguyễn Thiện Thuật, cụ được Vua Hàm Nghi phong chức Tán Tương Quân Vụ, thường được nhân dân gọi là cụ Tán Ngô hay cụ Tán Bắc. Bà Ngô Thị Lý, mẹ đẻ của đồng chí Tô Chấn, đã có công lớn trong việc nuôi dưỡng và bảo vệ cán bộ thời kỳ hoạt động bí mật trước 1945. Các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Tử Bình... thường về Xuân Cầu hoạt động, được bà chăm sóc chu đáo.
Phát huy truyền thống cao đẹp của gia đình và quê hương, đồng chí Tô Chấn đã tham gia cách mạng từ rất sớm. Từ năm 1925, đồng chí tích cực tham gia hoạt động cách mạng trong các tổ chức yêu nước cách mạng ở Hà Nội, Sài Gòn và Nam Bộ. Năm 1927, đồng chí tham gia Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học đứng đầu và trở thành đảng viên cốt cán, kiên cường, được cử làm Đảng trưởng kỳ bộ Nam Kỳ.


Tháng 10/1930, khởi nghĩa Yên Bái thất bại. Nguyễn Thái Học bị thực dân Pháp xử tử hình, đồng chí được đề cử thay Nguyễn Thái Học và tiến hành mưu sát toàn quyền Đông Dương, vì chúng đang câu kết đàn áp phong trào cách mạng. Việc chưa thành thì đồng chí bị thực dân Pháp bắt tại Hà Nội, kết án tử hình, sau đó giảm án xuống chung thân, đày đi Côn Đảo.
Năm 1930-1936, trong nhà tù Côn Đảo, đồng chí đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương. Đồng chí hăng hái tham gia đấu tranh kiên cường, tích cực học tập, trở thành một đảng viên nổi tiếng có kiến thức uyên bác và trí nhớ tuyệt vời về lý luận Mác-Lênin, được anh em rất tín nhiệm. Đồng chí đã tham gia ban lãnh đạo nhà tù cùng với các đồng chí Ngô Gia Tự, Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng....
Đầu năm 1936, đồng chí được chi bộ nhà tù bố trí vượt ngục Côn Đảo cùng đồng chí Ngô Gia Tự và một số đồng chí khác, chẳng may đều hy sinh trên biển.
Đồng chí Tô Chấn cũng là người đã dìu dắt, giác ngộ đồng chí Tô Hiệu và một số thanh niên của làng Xuân Cầu đi làm cách mạng như các ông: Tô Dĩ (Lê Giản - nguyên Giám đốc Nha Công an TƯ), Tô Quang Đẩu - nguyên Thứ trưởng Bộ Nội vụ...


Tô Hiệu


Tô Hiệu (1912-1944) là một nhà cách mạng cộng sản Việt Nam. Tô Hiệu sinh 1912, trong một gia đình nhà nho nghèo ở thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Năm 1927 Tô Hiệu học tại trường Pháp Việt thị xã Hải Dương và sớm tham gia vào các phong trào yêu nước của học sinh như bãi khoá truy điệu Phan Chu Trinh, tham gia phong trào đòi ân xá Phan Bội Châu.
Năm 1928, vào Sài Gòn, cùng anh ruột là Tô Chấn tham gia Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1929 ông là Đảng viên Quốc dân Đảng, hoạt động tại Sài Gòn. Năm 1930, ông bị bắt và bị kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Những năm tháng tại Côn Đảo, Tô Hiệu đi theo lý tưởng cộng sản và chỉ một thời gian sau, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Năm 1934, Tô Hiệu mãn hạn tù. Không chịu được sự quản thúc của chính quyền thực dân ở địa phương, ông trốn đi Hà Nội hoạt động và được phân công xây dựng cơ sở cách mạng ở Thái Nguyên. Mặc dù bị ho lao do kết quả 4 năm tù khắc nghiệt tại Côn Đảo, Tô Hiệu vẫn hăng hái công tác và năm 1936 được cử vào Ban thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách công tác tuyên huấn.
Cuối năm 1938, Tô Hiệu đựơc phân công phụ trách miền Duyên hải Bắc Kỳ. Tại Hải Phòng, Tô Hiệu hướng dẫn, chỉ đạo và tổ chức nhiều cuộc đình công, biểu tình và trực tiếp tham gia đấu tranh. điển hình là cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng, bắt đầu từ tháng 4/1939 đến ngày 21 tháng 5/1939. Tô Hiệu chỉ đạo chi bộ Đảng nhà máy Tơ lãnh đạo tranh đấu, liên hệ với báo Đời Nay, yêu cầu đưa tin ủng hộ, gặp tổ chức Thanh niên dân chủ Pháp và Thanh niên dân chủ Việt Nam yêu cầu giúp đỡ. Cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy Tơ Hải Phòng gây được tiếng vang lớn, được Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang hoạt động ở nước ngoài quan tâm chú ý.


Ngày 30 tháng 5/1939 Tô Hiệu trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước của hàng ngàn công nhân tiểu thương và lao động thành phố Hải Phòng. Thực dân Pháp bắt 72 người biểu tình, trong đó có Tô Hiệu; nhưng Tô Hiệu thoát được ra ngoài. Tháng 10 năm 1939, Xứ uỷ Bắc Kỳ thành lập các khu Hải Phòng, Kiến An, Hải Dương và vùng mỏ thuộc khu B (sau đó gọi là liên tỉnh B) trong đó Tô Hiệu làm Bí thư Khu uỷ, xúc tiến ra báo Chiến Đấu, cơ quan tuyên truyền của Khu uỷ B.
Trước sự đàn áp của thực dân Pháp đối với phong trào, Tô Hiệu chuyển hướng hoạt động từ công khai rút vào bí mật, sàng lọc cán bộ công khai. Trong suốt thời kỳ hoạt động ở Hải Phòng, Tô Hiệu với cương vị Bí thư Khu uỷ B đã không thành lập Thành uỷ Hải Phòng mà trực tiếp lãnh đạo phong trào.
Ngày 1 tháng 12 năm 1939, Tô Hiệu bị bắt tại một cở sở in ở xóm Hạ Lý, khu vực nhà máy chỉ và bị tra tấn. Bị kết án 5 năm tù, Tô Hiệu bị kết án tù tại nhà tù Sơn La. Tại đây, ông được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, tham gia công tác tuyên truyền cách mạng và đấu tranh cải thiện chế độ nhà tù.
Ông mất ngày 7 tháng 3 năm 1944 tại nhà tù Sơn La. Mộ ông được an tháng tại nghĩa địa Vườn ổi.





Tô Hiệu người làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang. Cha ông làm nghề dạy học. Ông đi học từ năm lên 6 tuổi, nhà nghèo nhưng học rất chăm chỉ.
Những năm 1925-1926 ông theo học trường Pháp - Việt tại thị xã Hải Dương, tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu, để tang cụ Phan Chu Trinh nên bị đánh trượt trong kỳ thi tiểu học.
Năm 1927 Tô Hiệu lên Hà Nội, vừa học vừa kiếm tiền nuôi thân, vừa tham gia hoạt động yêu nước trong phong trào học sinh. Sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1930 ông bị chính quyền thực dân Pháp bắt, chúng kết án 4 năm tù giam, đày đi Côn Đảo. Ra tù ông bị bọn mật thám xếp vào loại “nguy hiểm”, phải về quê nhà và bị quản thúc.
Trong những năm tháng sống ở quê, không bỏ phí thời gian, ông tìm mọi cách liên lạc với Đảng và lại lao vào hoạt động. Ông còn vận động bà con thôn xóm góp công sức xây dựng trường học cho con em. Năm 1935 ông được điều lên Thái Nguyên để xây dựng cơ sở cách mạng. Sau chuyển về Hà Nội làm ủy viên Ban Thường vụ Xứ uỷ Bắc Kỳ, phụ trách tuyên huấn, trực tiếp lãnh đạo phong trào ở Hà Nội. Ông viết bài đăng trên các báo công khai để hướng dẫn công tác và cử cán bộ xuống vùng mỏ hoạt động, nhờ đó phong trào đấu tranh của công nhân mỏ lên mạnh.
Mùa thu năm 1938, ông được Trung ương Đảng phân công phụ trách miền duyên hải Bắc kỳ, trực tiếp làm Bí thư Ban cán sự Đảng Hải Phòng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào đấu tranh được đẩy lên mạnh mẽ. Các cuộc đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi cải thiện đời sống của công nhân các nhà máy xi măng, máy điện, máy tơ, máy nước… đạt kết quả. Điển hình là cuộc đấu tranh của 3000 công nhân nhà máy tơ từ ngày 16 đến 22/4/1939 do Tô Hiệu trực tiếp chỉ đạo, bọn chủ đã phải giải quyết toàn bộ yêu sách của công nhân.
Ngày 30/5/1939, Tô Hiệu lãnh đạo cuộc đấu tranh chống thuế đèn, thuế nước. Cảnh sát Pháp đàn áp bắt 72 người, nhờ sự bảo vệ của anh em công nhân, ông trốn thoát. Thời gian này Tô Hiệu bị bệnh lao phổi nặng, sức khoẻ giảm sút. Xứ ủy yêu cầu nghỉ chữa bệnh nhưng ông vẫn thiết tha xin tiếp tục công tác. Ông tổ chức chỉ đạo báo “Chiến đấu” bí mật lưu hành ở Hải Phòng, số đầu tiên ra ngày 7/11/1939 - số đặc biệt kỷ niệm Cách mạng tháng Mười Nga. Ông chủ trì hội nghị Trung ương lần thứ 6.


Ngày 1/12/1939, ông bị bắt trên đường đi in tài liệu ở Hải Phòng. Bọn giặc tra tấn rất dã man nhưng ông tỏ rõ khí phách hiên ngang của người cộng sản. Những lúc hồi tỉnh ông lại tiếp tục tuyên truyền động viên anh em trong nhà lao Hải Phòng giữ vững chí khí cách mạng, đấu tranh chống chế độ nhà tù, tổ chức kỷ niệm ngày thành lập Đảng 3/2/1940 trong nhà tù đế quốc. Chính quyền thực dân đưa ông ra xét xử ở toà án Kiến An, kết án 5 năm tù.
Năm 1940 ông bị đày lên Sơn La. Tại đây Tô Hiệu được bầu làm Bí thư chi bộ Đảng, ông đã lãnh đạo anh em kiên trì đấu tranh đòi cải thiện chế độ nhà tù. Ông cùng với mới số đồng chí viết tài liệu, mở lớp chính trị, văn hóa giảng dạy cho bạn tù “biến nhà tù thành trường học” và đào tạo cán bộ cách mạng, tìm cách liên lạc với tổ chức Đảng ở bên ngoài. Tên công sứ Pháp ở tỉnh Sơn La là Cút - xô thẳng tay đàn áp, chế độ nhà tù ngày một hà khắc. Anh em tù tuyệt thực để phản đối, nhiều người bị chúng giam trong hầm tối.
Do cuộc sống khắc nghiệt của nhà tù cùng với sự tra tấn tàn bạo của kẻ địch, sức khỏe Tô Hiệu ngày một giảm sút, nhưng ông vẫn tin tưởng, lạc quan. Năm 1943, nghe tin Hồng quân Liên Xô thắng lớn ở Lêningrát, tuy đang mệt nhưng ông đã nhận định “Liên Xô sẽ thắng, phát xít sẽ thua, chiến tranh sẽ kết thúc, cách mạng Việt Nam sẽ thắng lợi”. Ngày 7/3/1944 Tô Hiệu qua đời tại Sơn La. Mộ ông được an tháng tại nghĩa địa Vườn ổi.
Ngày nay, đến thăm nhà tù Sơn La, giữa bức tường đá nhà ngục lạnh lẽo, cây đào do ông trồng vẫn xanh tươi đầy sức sống. Cành đào được mang về từ Sơn La cứ mỗi lần xuân về tết đến lại nở hoa đỏ thắm ở làng Xuân Cầu quê hương ông. Nhiều đường phố, trường học, nông trường mang tên Tô Hiệu.

Dương Thị Cẩm

Lê Văn Lương (NGUYỄN CÔNG MIỀU)


Đồng chí Lê Văn Lương (1912-1995), nguyên uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Bí thư Thành uỷ Hà Nội.
Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống Nho học. Đồng chí sớm giác ngộ cách mạng, tham gia nhóm Cộng sản Đông Dương từ năm 1929, vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Bị thực dân Pháp bắt giam, kết án tử hình. Do sức ép phong trào đấu tranh của các lực lượng yêu nước và tiến bộ, thực dân Pháp đã phải giảm án xuống chung thân khổ sai, đầy ra Côn Đảo. Tại nhà tù Côn Đảo, đồng chí đã tham gia Ban chấp hành Đảng bộ nhà tù, biến nhà tù đế quốc thành trường học của người Cộng sản.
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng chí đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhiều khoá tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được cử vào Ban Bí thư và Bộ Chính trị. ở cương vị nào đồng chí cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao vàng. Đồng chí là tấm gương sáng về tinh thần cách mạng, tận tuỵ, trung thành với sự nghiệp của Đảng.

Đồng chí Lê Văn Lương: Vì nước, vì dân
Tất cả những ai từng gặp Nguyễn Công Miều (tên thật của đồng chí Lê Văn Lương) những năm 20 của thế kỷ trước, hẳn sẽ mãi nhớ dáng vẻ nho nhã, lành hiền, thoạt gặp cứ có vẻ như lành lạnh nhưng thực ra lại rất đôn hậu, của cậu học trò trường Bưởi này.
Quê ở làng Xuân Cầu xứ Đông từng đi vào ca dao "Ai về Đồng Tỉnh, Hoa Cầu / Để thương, để nhớ, để sầu cho ai...", anh đã mang về với những bè bạn ở Thăng Long tâm tính chân thành đến độ thẳng thắn, cởi mở đến độ hồn nhiên để cùng nhau giác ngộ cách mạng từ tuổi 15, gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1927. Và từ đấy, lửa thử vàng, gian nan thử sức, người cộng sản Lê Văn Lương cho tới phút cuối cùng của cuộc đời mình vẫn giữ nguyên tính cách quý hiếm của một người hiền chính trực, luôn nói thật và chỉ nói thật trong mọi tình huống. Bác Hồ, như hồi ức của thư ký Vũ Kỳ kể lại, đã nhận thấy trong đồng chí Lê Văn Lương "những đức tính chuẩn mực" ấy để tin cậy và trao đổi những điều tâm huyết nhất trước lúc vĩnh viễn đi xa.
Đồng chí Lê Văn Lương sinh ra trong một gia đình nhà nho hiếu học và nhiều tài năng. Chính từ dòng họ Nguyễn Công đã lớn lên những tên tuổi sáng chói trên nhiều lĩnh vực. Anh ruột đồng chí Lê Văn Lương là nhà văn Nguyễn Công Hoan. Đồng chí Nguyễn Tài, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, Anh hùng LLVTND, là cháu gọi đồng chí Lê Văn Lương là chú ruột (thân phụ đồng chí Nguyễn Tài là nhà văn Nguyễn Công Hoan)... Họ ngoại của đồng chí Lê Văn Lương là họ Tô với những nhà cách mạng tên tuổi như Tô Hiệu...Như không ít bè bạn cùng thời ở trường Bưởi, cậu học trò Nguyễn Công Miều đến với lý tưởng cách mạng cứu dân cứu nước như một lẽ tự nhiên. Và trong "cái thuở ban đầu lưu luyến ấy" dường như còn có một chút gì lãng mạn cổ kính kiểu tráng sĩ phương Đông, coi cái chết vị nghĩa nhẹ tựa lông hồng. Có lẽ chính vì thế nên chàng thư sinh Nguyễn Công Miều đã đi vào Nam "vô sản hóa".


Và khi phải vào Khám Lớn Sài Gòn ở tuổi 17-18 để chờ thi hành án tử hình vì "tội" làm cách mạng, người chiến sĩ trẻ Lê Văn Lương, cũng như các đồng chí của mình, mới có thể hành xử được như sau này đồng chí kể lại:
"Vừa đến khu xà lim án chém, đã nghe có tiếng gọi quen quá:
- "Lương, Lương, thôi có bạn rồi, vào ở đây cho vui!"
Ngỡ ai, hóa ra là anh Hùng. Anh đang ngồi kề ngay cửa xà lim chơi. Lúc bấy giờ, các anh đã đòi phải mở cửa xà lim mỗi ngày vài bận cho sáng xà lim, và nhìn ra ngoài cho vui. Thanh và Rỗ cũng mời: "Các anh vào đây. Chật một tí không sao ạ!". Thế là bảy mạng cả thảy trong một xà lim.
Anh Hùng nói đùa: "Để mai, bảo nó dọn bữa tiệc, ta nhậu với nhau". Trong này, mỗi chủ nhật muốn uống rượu, cứ gọi y tá đến "Ờ thày này, bọn tôi "ho" quá, có gì uống nhỉ?". Y tá hiểu ý, đem rượu ở nhà thuốc lên ngay.
Được vài hôm, tên gácđiêng sếp người Pháp đến. Nó bảo anh Hùng: "Y án chém các anh rồi. nhưng gặp vụ án vừa qua phải đợi Paris xét thêm nên còn chờ. Thấy các anh không phải người sợ chết, tôi mới nói cho mà biết đấy. Tôi đã mua rom và xì gà. Mỗi người một ly rượu rom và một điếu xì gà". Bọn Pháp cho tù tử hình uống rom và hút xì gà trước khi chém, nghe đâu để cho hăng.
Anh Hùng nói luôn: "Đâu, đem chúng tôi dùng ngay bây giờ. Lúc nào chém sẽ hay!". Tên gácđiêng sếp đưa rượu rom và ba điếu xì gà đến. Anh Hùng vặn nó: "Chúng tôi bảy người, anh đưa có ba, không đủ". Nó lại lấy thêm. Chúng tôi mỗ người phì phèo một điếu. Khói om xà lim...". Đúng là "trông chết cười ngạo nghễ"! Trước đó, ở phiên tòa đại hình kết án chém đối với mình, đồng chí Lê Văn Lương cũng đã lớn tiếng công khai kết tội lại chế độ thực dân: "Các anh nói mình là dân chủ nhưng đó là thứ dân chủ kiểu gì vậy nếu như khi muốn lấy đầu người ta, các anh lại chỉ cho phép người ta nói độc câu "uẩy u nông" (có hay không)?!".
Và cũng chính tinh thần mã thượng ấy đã giúp đồng chí Lê Văn Lương vượt qua được không chỉ án tử hình mà cả 11 năm đằng đẵng trong xà lim địa ngục trần gian Côn Đảo... Trở về đất liền ngày 23/9/1945 sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, đồng chí lại lao mình vào cuộc chiến đấu mới cùng cả dân tộc chống lại các loại giặc thời chiến và thời bình. Đồng chí đã trải qua nhiều cương vị lãnh đạo quan trọng, từng là Trưởng ban Tổ chức Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác tổ chức, Thứ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chánh văn phòng Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội...


Nguyễn Công Hoan


Tiểu sử
Nhà văn Nguyễn Công Hoan sinh ngày 6 tháng 3 năm 1903 (8 tháng 2 năm Quỹ Mão). tại làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh tỉnh Hưng Yên, mất 6-6-1977 tại Hà Nội. Sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng và Nguyễn Công Mỹ.
Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,...) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Nhà văn đã từng là Giám đốc Trường Văn hóa Lý Thường Kiệt. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ).


Xuất thân làm nghề giáo, Nguyễn Công Hoan có dịp đi nhiều, chứng kiến nhiều cảnh sống của nhiều tầng lớp xã hội. Cuộc sống thôi thúc ông cầm bút viết về "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". bắt đầu văn nghiệp của mình vào những năm hai mươi của thế kỷ này khi ở Việt Nam, văn học được viết bằng quốc ngữ đã khá phổ biến. Truyện ngắn đầu tiên "Quyết chí Phiêu lưu", ông viết năm 17 tuổi. Năm 20 tuổi xuất bản tập truyện ngắn "Kiếp Hồng Nhan" Những truyện ngắn đăng thường xuyên trong "Xã Hội Ba Ðào Ký" và tiểu thuyết "Những cảnh khốn nạn" tập I, dầy 218 trang in, xuất bản năm 1932, viết trong thời gian ông dạy học ở Lao Cai, đã báo hiệu con đường văn độc đáo của ông sau này đi tới trọn đời. Nhưng phải đến năm 1935 với tập truyện Kép Tư Bền Nguyễn Công Hoan trở thành nhà văn có danh tiếng trên văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1938, Nguyễn Công Hoan cho xuất bản tiểu thuyết Bước đường cùng - một tác phẩm góp vào bức tranh chung về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng
Ông được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học-Nghệ thuật (đợt I, 1993)
Những tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan được Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I-1996) gồm Kép Tư Bền (truyện ngắn, 1935). Bước đường cùng (tiểu thuyết, 1938). Nông dân và địa chủ (truyện ngắn, 1955). Tranh tối tranh sáng (truyện dài, 1956), Người cặp rằng hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930 (1960), Hỗn canh hỗn cư (truyện dài, 1961), Ðời viết văn của tôi (hồi ký, 1971), và Tuyển tập truyện Nguyễn Công Hoan (3 tập).
Năm 1936, truyện dài Tắt lửa lòng của ông đã được Trần Hữu Trang chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng Lan và Điệp.





Thành tựu nghệ thuật
Nguyễn Công Hoan là nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. Tác phẩm Kép Tư Bền (viết năm 1927, xuất bản năm 1935) đã gây chấn động trên văn đàn, và là đề tài cho cuộc bút chiến giữa hai quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh lúc bấy giờ. Nhiều tác phẩm của ông được đưa vào giảng dạy ở chương trình giáo dục phổ thông các cấp.
...Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời" mà đặc trưng là xã hội phong kiến của thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian, tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một "vũ khí của người mạnh" để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng... Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp... Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn... Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại... Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân theo một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là "cổ điển" trong nền văn học hiện đại."[3]


Từ điển bách khoa Việt Nam đánh giá:
Có thể nói Nguyễn Công Hoan là ngọn cờ đầu của văn học hiện thực phê phán Việt Nam... Nguyễn Công Hoan đến với chủ nghĩa hiện thực bằng văn học trào phúng. Từ những truyện đầu tiên, ông đã tìm đề tài trong những người nghèo khổ, cùng khốn của xã hội. Đa số nhân vật phản diện của ông đều thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có và quan lại, cường hào. Toàn những cảnh xấu xa, bỉ ổi, những chuyện bất công, ngang ngược, những con người ghê tởm, đáng khinh bỉ. Nguyễn Công Hoan tạo ra những tình huống bất ngờ, rồi phá lên cười và làm cho người khác cười theo, nhưng ngẫm lại thật thương tâm đau xót."[4]
Ngoài sáng tác, những bài tiểu luận, phê bình văn học của ông cũng được đánh giá cao vì có cái nhìn, cách tiếp cận sắc sảo về các tác giả văn học Việt Nam.
Ông từng có mặt trong Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô từ thập niên 1960[5]. Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1984 tại Hà Nội.
Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.






Giai thoại
Mặc dù sinh thời, Phạm Quỳnh nhận xét về Nguyễn Công Hoan rằng: "Truyện viết hay như Tây" nhưng ông rất ít đọc các tác phẩm văn học nước ngoài, kể cả tác phẩm của các tác giả bậc thầy. Theo ông kể lại, ngày còn đi học, ông được một người thân cho ba đồng bạc để mua sách, ông góp thêm tiền vào mua được bộ tiểu thuyết "Bá tước Monte Cristo" (bấy giờ được dịch sang tiếng Việt là "Ngọc Sơn bá tước") của Alexandre Dumas. Sách mua về, ông chỉ đọc có chương đầu tiên rồi bỏ, từ đấy cuốn sách chỉ để cho mượn. Khi ông được người bạn cho mượn một tập truyện ngắn của Guy de Maupassant thì ông cũng chỉ đọc có truyện đầu là truyện "Lão ăn mày", rồi không xem thêm nữa.[6]

Chuyện xảy ra ở nhà 66 Thợ Nhuộm
Trong những năm chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhà ông Nguyễn Công Hoan ở 66 Thợ Nhuộm (nằm trong trụ sở Báo CAND hiện nay). Hồi đó, giáp tường nhà ông Nguyễn Đức Thuận (hiện nay là nhà ông Phạm Thế Duyệt - Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam), gia đình đào một cái hầm tránh bom. Có lần máy bay Mỹ đến, bà Yến (vợ ông Hoan) gọi hết con cháu xuống hầm, nhưng ông Hoan vẫn đứng “hiên ngang” ngửa mặt lên trời nhìn máy bay địch. Bà hốt hoảng gọi: “Ông ơi, xuống đi, không máy bay nó bắn chết bây giờ đấy!”. Bà không ngờ ông bảo: “Bà yên tâm, nó có nhìn thấy tôi đâu mà nó bắn”. Đó là cái lý của nhà văn trào phúng, coi việc sống chết cứ như chuyện chơi!


Ông trêu bà
Năm 1968, chiến tranh ác liệt. Đang học lớp một, tôi cùng ông bà và ba anh chị em của tôi sơ tán về quê bà nội ở thôn Đôn Thư, xã Kim Thư, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Hàng ngày, bà nấu cơm cho ông và các cháu ăn. Ông nghiện thuốc lá, thỉnh thoảng uống rượu. Nhất là lúc có chuyện gì bận tâm, ông lại nhâm nhi chén rượu.
Một hôm, ông dọn cái mâm ra, mang một chai nước trắng rót ra chén, giả vờ ông cháu uống rượu để... trêu bà. Ông bảo các cháu ngồi vòng tròn, đưa cho mỗi đứa một chén. Lúc bà từ nhà bếp đi lên, thấy ông ngồi uống “rượu”, bà nghĩ, hôm nay có chuyện gì đây? Bà nhìn kỹ, thấy mỗi cháu một chén, bà “tá hoả” kêu lên: “Trời đất, ông lại còn đầu độc chúng nó nữa à?”. Ông giả vờ nghiêm nét mặt, bảo: “Bà! Tôi có việc suy nghĩ, tôi phải uống”. Bà nói: “Thế nhưng sao ông lại cho chúng nó uống ruợu?”. Ông làm bộ bực mình bảo: “Bà nói nữa, tôi đổ hết rượu bây giờ”. Nói rồi, ông đùng đùng đứng dậy, đổ hết “rượu”. Bà sợ quá. Lũ trẻ chúng tôi không nhịn được nữa, cười phá lên. Lúc này bà mới biết ông... trêu bà!

Ông làm bà... hỉ hả
Tính ra, nhà văn Nguyễn Công Hoan phải vào nằm viện vài đợt. Khi nằm viện, ông cũng có phần áy náy về vợ ông. Chả là sau khi ông xuất bản cuốn tự thuật “Đời viết văn của tôi”, bà đọc mãi mà chẳng thấy ông nhắc gì tới bà. Bà buồn lắm. Đang nằm trên giường bệnh, một hôm ông tâm sự với bà: “Bà biết không, đời tôi mà nếu không gặp bà thì không thể viết văn được cho đến bây giờ. Cho nên trong sự nghiệp của tôi có một nửa của bà”. Nghe ông nói thế, bà cảm động rơi nước mắt. Bà vui và hỉ hả lắm.


Nguyễn Công Mỹ


Nguyễn Công Mỹ(1909 - 1949)
Người làng Xuân Cầu xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Xuân Cầu là một làng văn hiến ở cạnh quốc lộ 5 và có nhiều người đến làm ăn sinh sống ở nội thành Hải Phòng sống khá đông ở khu chợ Con. Gia đình Nguyễn Công Mỹ cũng vậy, em ông là Nguyễn Công Bồng, đảng viên cộng sản dạy ở trường Tổng sư Đại Lộc, trường Tiểu Bàng (Kiến Thuỵ) từ 1937-1943. Cháu ông là Nguyễn Tài Khoái (Tĩnh) tham gia thành uỷ Hải Phòng sau cách mạng thành công. Dòng họ Tô làng Xuân Cầu cũng có nhiều người hoạt động cách mạng nổi tiếng gắn bó với Hải Phòng như Tô Hiệu, Tô Quang Đẩu. Xuất thân trong một gia đình nhà nho, anh em Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Công Mỹ, Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương), Nguyễn Công Bồng đều được gia đình chăm lo dạy dỗ, cho ăn học, mặc dù nhà nghèo, có khi phải dựa vào ông bác ruột làm quan.
Nguyễn Công Mỹ học ở Hải Phòng năm 1925 tham gia biểu tình đòi tha nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Năm 1930 đang học năm thứ tư trường Sư phạm Hà Nội bị đuổi học vì tham gia hoạt động cách mạng. Sau đó ông về dạy tư ở nội thành Hải Phòng và tiếp tục hoạt động. Là nhà giáo đức độ, tài năng, ham hoạt động nên có uy tín, ảnh hưởng rộng. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ, ông được Đảng phân công hoạt động công khai, ông đã cùng các thầy giáo Nguyễn Hữu Tảo, Lê Xuân Phùng cộng tác với Vũ Quí tổ chức Hướng Đạo Sinh Hải Phòng đi vào con đường hoạt động yêu nước. Khi bầu cử hội đồng thành phố, Thành Đảng bộ Cộng sản Hải Phòng đã chọn Nguyễn Công Mỹ ra tranh cử với đốc tờ Đệ. Lúc này theo chủ trương của Đảng, Nguyễn Công Mỹ hoạt động công khai trong hội Ánh Sáng và đã thay Bùi Vũ Trụ làm trưởng ban Uỷ ban chống nạn thất học. Với hoạt động xã hội rộng rãi nên Nguyễn Công Mỹ có ảnh hưởng sâu rộng, nhưng do chính quyền Pháp tổ chức bầu cử gian lận nên đốc tờ Đệ đã thắng. Ngày công bố kết quả bầu cử, thanh niên công nhân đã công kênh rước Nguyễn Công Mỹ trước quảng trường toà Đốc lý, hô vang khẩu hiệu đòi tự do dân chủ. Tháng 5/1938. Hội Truyền bá quốc ngữ thành lập, cơ sở của hội ở Hải Phòng-Kiến An lần lượt ra đời và là những nơi có phong trào mạnh của Bắc Kỳ lúc ấy. Nguyễn Công Mỹ đảm nhiệm công tác trưởng ban cổ động.


Cánh mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Công Mỹ giữ chức Uỷ viên tư pháp trong Uỷ ban nhân dân cách mạng thành phố. Ngày 8/9/1945 Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh thành lập Nha bình dân học vụ, Nguyễn Công Mỹ nguyên trưởng ban Uỷ ban chống nạn thất học học của Thành uỷ Hải Phòng, được bổ nhiệm chức Tổng giám đốc Nha. Nhiệm vụ chống nạn thất học là một trong ba quốc sách hàng đầu của nhà nước cách mạng non trẻ và được Bác Hồ đặc biệt quan tâm. Vừa nhận nhiệm vụ, ông đã bắt tay chuẩn bị xây dựng bộ máy, chương trình, nội dung, sách giáo khoa, nguồn giáo viên, học viên... Ngày 17/9/1945, ông chủ trì hội nghị cán bộ toàn Nha để bàn và thông qua kế hoạch.
Với kinh nghiệm hoạt động chống thất học và vận động thanh niên ở Hải Phòng thời kỳ bí mật, Nguyễn Công Mỹ đã cùng đồng sự dựa vào chính quyền các cấp hoạt động tích cực. Chỉ một năm sau ngày 8/9/1946 cả nước đã có 2.520.678 học viên, 95.665 giáo viên, 74.957 lớp học, do nhân dân, giáo viên, học viên tự nguyện tự giác tham gia. Rồi kháng chiến nổ ra ở Miền Nam đến 19/12/1946 lan ra toàn quốc, nhưng phong trào diệt dốt vẫn duy trì phát triển khắp nước không chỉ ở vùng tự do, vùng du kích mà cả nhiều nơi để vùng địch tạm chiếm.
Đến tháng 6/1950, cả nước đã có trên 10 triệu người thoát nạn mù chữ, 10 tỉnh, 80 huyện, 1424 xã, 7248 thôn được công nhận thanh toán nạn mù chữ. Cũng năm này, Quốc hội họp kỳ II đánh giá: Cũng như thành tích chống giặc ngoại xâm và thành tích chống giặc đói, thành tích bồi dưỡng học viên chống giặc dốt rất là vĩ đại....... Những thành tích vĩ đại trên có phần đóng góp to lớn của người Tổng giám đốc Nha đầu tiên, nhà giáo cách mạng Nguyễn Công Mỹ, mặc dù ngày 6/1/1949 ông đã hi sinh khi đi công cán.