ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 100 NĂM NĂM SINH NHÀ CÁCH MẠNG, LIỆT SỸ TÔ HIỆU (1912 - 2012)

Wednesday, March 7, 2012


Kỷ niệm 100 năm Năm sinh Nhà cách mạng Tô Hiệu (1912-2012)

_ BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY HƯNG YÊN _
I - KHÁI LƯỢC TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CÁCH MẠNG CỦA ĐỒNG CHÍ TÔ HIỆU (?/?/1912 - 7/3/1944)

Đồng chí Tô Hiệu sinh năm 1912, là con út trong một gia đình nhà nho nghèo có truyền thống yêu nước tại thôn Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, quê hương của phong trào khởi nghĩa Bãi Sậy nổi danh trong cả nước.

Họ Tô nhiều đời là dòng họ khoa bảng, yêu nước. Cụ nội đồng chí Tô Hiệu là cụ Tô Ngọc Nữu, đốc học Nam Định. Khi Tự Đức ký hiệp định đầu hàng Pháp, cụ từ chức về quê dạy học. Cụ kết thân với cụ Ngô Quang Huy, đốc học Bắc Ninh, sau này là ông ngoại của đồng chí Tô Hiệu. Cũng như cụ Nguyễn Thiện Thuật, cụ Ngô Quang Huy được vua Hàm Nghi phong tước Tán Tương quân vụ, là một lãnh tụ rất có uy tín trong phong trào Bãi Sậy do cụ Nguyễn Thiện Thuật (tức Tán Thuật) lãnh đạo. Bà Ngô Thị Lý, con gái danh tướng Ngô Quang Huy, thân mẫu của đồng chí Tô Hiệu, được nhân dân địa phương kính trọng vì lòng yêu nước quả cảm, có công nuôi dưỡng bảo vệ cán bộ cách mạng, đã được suy tôn là một trong những bà mẹ tiêu biểu, gương mẫu của phong trào phụ nữ cách mạng tỉnh Hải Hưng trước đây (nay là tỉnh Hưng Yên).

Phát huy truyền thống tốt đẹp của gia đình và quê hương, ngay từ năm 14 tuổi, khi đang theo học tại trường Pháp - Việt ở thị xã Hải Dương, đồng chí Tô Hiệu đã tham gia các phong trào yêu nước của học sinh như bãi khoá, truy điệu, để tang cụ Phan Chu Trinh, tham gia phong trào đòi ân xá cụ Phan Bội Châu. Vì vậy, năm 1926, đồng chí Tô Hiệu bị đuổi học.

Từ năm 1927 - 1929, đồng chí lên Hà Nội, ở nhà anh cả Tô Tu để học cao đẳng tiểu học. Trong thời gian này, đồng chí tiếp tục tham gia các hoạt động đấu tranh cách mạng. Qua thử thách, năm 1929, đồng chí được kết nạp vào Học sinh đoàn, một tổ chức của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên.

Cuối năm 1929, đồng chí vào Sài Gòn hoạt động cùng với anh ruột là Tô Chấn, một lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng. Năm 1930, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án 4 năm tù, đày đi Côn Đảo. Trong thời gian bị giam cầm tại Côn Đảo, đồng chí kiên cường tham gia đấu tranh trong tù, tích cực học tập lý luận cách mạng, được bồi dưỡng trở thành đảng viên cộng sản giàu nhiệt huyết và có bản lĩnh vững vàng.

Năm 1934, mãn hạn tù Côn Đảo về, đồng chí bị thực dân Pháp quản thúc tại làng Xuân Cầu. Trong thời gian bị quản thúc tại quê hương, với tinh thần trách nhiệm cao, quan tâm đến giáo dục, đào tạo thế hệ cách mạng cho mai sau, đồng chí đã vận động nhân dân đóng góp công sức, tiền của xây dựng Trường Kiêm Bị Xuân Cầu. Bản thân đồng chí còn trực tiếp dạy học ở quê hương.

Mặc dù bị quản thúc nhưng đồng chí không chịu khuất phục, vừa gây dựng phong trào cách mạng ở quê hương, vừa tìm mọi cách vượt qua sự bao vây, phong tỏa của địch để bắt liên lạc với Đảng. Năm 1936, đồng chí Tô Hiệu cùng các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt, Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) và nhiều đồng chí khác xây dựng lại hệ thống tổ chức Đảng và chỉ đạo phong trào đấu tranh của quần chúng đòi dân sinh, dân chủ ở Hà Nội và vùng phụ cận. Tại một cuộc họp trên căn gác ở phố Hàng Bột, Xứ ủy Bắc Kỳ đã được thành lập, đồng chí Tô Hiệu được bầu là ủy viên Thường vụ Xứ ủy, phụ trách các tỉnh miền duyên hải, lấy Hải Phòng làm trung tâm. Đồng chí đã tổ chức lại ban chỉ đạo các tỉnh, thành và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh lớn ở Thành phố Hải Phòng.

Tháng 2/1939, đồng chí được Trung ương phân công về phụ trách Liên khu B (bao gồm các tỉnh miền duyên hải Bắc Bộ và Hải Dương, Hưng Yên), trực tiếp làm Bí thư Thành ủy Hải Phòng. Đồng chí Tô Hiệu đã tích cực chỉ đạo, đưa phong trào cách mạng ở đây lên cao, gây nhiều tiếng vang mạnh mẽ trong và ngoài nước, tiêu biểu như cuộc bãi công của 1000 thợ xẻ (4/1939), 1500 công nhân Cảng (5/1939) và đặc biệt là cuộc bãi công của hơn 3000 công nhân Nhà máy Tơ Hải Phòng…

Ngày 1/12/1939, đồng chí Tô Hiệu đến cơ sở in ở xóm thợ Thượng Lý (Hải Phòng) kiểm tra việc in truyền đơn chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới thì bị địch bắt. Mặc dù kẻ thù đã tra tấn dã man, ra sức mua chuộc, chuyển qua hết đề lao Hải Phòng lại Hỏa Lò (Hà Nội) nhưng không thể lay chuyển được ý chí cách mạng kiên cường của đồng chí Tô Hiệu. Cuối tháng 12/1939, chúng đã xử mức án 5 năm tù và đày đồng chí đi Nhà tù Sơn La. Cũng thời gian này, Chi bộ nhà tù Sơn La được thành lập. Tháng 02/1940, đồng chí Tô Hiệu được cử làm Chi uỷ viên. Tháng 5/1940, Đại hội Chi bộ bí mật được triệu tập, quyết định các chủ trương, công tác và cử đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư chi bộ.

Cuộc sống gian khổ ở nhà tù kéo dài và bệnh tật đã tàn phá sức khỏe của đồng chí Tô Hiệu. Đến tháng 10 năm 1941, đồng chí Tô Hiệu thôi không giữ chức Bí thư chi bộ Nhà tù, song vẫn là cố vấn đặc biệt tin cậy của Chi ủy và là Trưởng ban huấn luyện, đào tạo cán bộ của nhà tù. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Nhà tù, tổ chức đời sống trong tù rất quy mô và khoa học. Đã thành lập ủy ban Nhà tù để lãnh đạo mọi mặt. ủy ban Nhà tù lại tổ chức ra các ban: Trật tự trong, Trật tự ngoài, Kinh tế, Cứu tế, Hồng thập tự, Đối ngoại, Sản xuất, Dân vận, Binh vận, Học tập và xuất bản báo Suối Reo… để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho anh em tù nhân, tôi luyện bản lĩnh và kinh nghiệm đấu tranh cách mạng. Cuối năm 1942, Chi bộ Nhà tù Sơn La đã được Ban chấp hành Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ công nhận là Chi bộ đặc biệt, phụ trách Nhà tù Sơn La và phong trào cách mạng ở tỉnh Sơn La.

Do căn bệnh hiểm nghèo và chế độ hà khắc của nhà tù, vào hồi 10 giờ 15 phút, ngày 7/3/1944, đồng chí Tô Hiệu hy sinh tại Nhà tù Sơn La ở tuổi ba mươi hai trong niềm tiếc thương vô hạn của anh em, đồng chí. Đồng chí được an táng tại Vườn ổi (nghĩa trang Nhà tù Sơn La).


II- NHỮNG PHẨM CHẤT VÀ CỐNG HIẾN CỦA ĐỒNG CHÍ TÔ HIỆU ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG VÀ DÂN TỘC

1- Đồng chí Tô Hiệu là một người yêu nước, một chiến sỹ cộng sản thuộc thế hệ đầu tiên của Đảng, trí tuệ, kiên trung, bất khuất, trọn đời chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập tự do của dân tộc.

Ngay từ nhỏ, Tô Hiệu đã tỏ ra thông minh và học giỏi, khiến bạn bè và anh em trong gia đình, dòng họ khâm phục. Năm 10 - 12 tuổi, khi học xong trường làng, Tô Hiệu được gia đình cho xuống Hải Dương học trường tỉnh. Tiếp nối truyền thống yêu nước của gia đình, dòng họ, quê hương, khi mới 14 tuổi, Tô Hiệu đã tham gia các phong trào bãi khóa, để tang cụ Phan Châu Trinh nên đã bị nhà trường thực dân đuổi học. Khi chuyển lên Hà Nội học, Tô Hiệu vẫn tích cực tham gia các phong trào yêu nước. Và tại đây, đồng chí được kết nạp vào Học sinh đoàn - một tổ chức của Hội Việt Nam thanh niên cách mạng, làm nhiệm vụ tuyên truyền, kết nạp người vào các đoàn thể quần chúng, đi dự mít tinh, biểu tình, phát truyền đơn, treo cờ, giăng biểu ngữ, dán áp phích vào những ngày lễ hội hay ngày kỷ niệm như ngày 1/5, ngày 7/11... Do hoạt động tích cực, Tô Hiệu đã được tổ chức vào tổ thanh niên xích vệ, có nhiệm vụ đi bảo vệ những cuộc mít tinh, biểu tình, bảo vệ các đồng chí cán bộ diễn thuyết.

Năm 1930, sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng, thực dân Pháp khủng bố dã man tất cả các phong trào yêu nước. Nhiều đồng chí cán bộ cách mạng bị bắt. Tô Hiệu bị mật thám theo dõi gắt gao, sau khi xin ý kiến tổ chức, đồng chí theo người anh ruột Tô Chấn, một lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân Đảng lúc ấy, vào Nam hoạt động. Sau kế hoạch ám sát tên toàn quyền Nam Dương Đơ-gờ-rép và tên toàn quyền Đông Dương Pas-ki-ê không thành, Tô Hiệu, Tô Chấn và một số người khác đã bị thực dân Pháp bắt, xử rất nặng. Tô Hiệu lúc ấy mới 18 tuổi, đã bị chúng kết án 4 năm tù khổ sai, đày ra Côn Đảo.

Biết đồng chí Tô Hiệu còn rất trẻ, nhiều triển vọng, có nhiều phẩm chất của một người cộng sản kiên cường, khi ra tù nhất định sẽ góp phần không nhỏ vào việc gây dựng và phát triển phong trào cách mạng trong quần chúng nhân dân của Đảng ta, các đồng chí lớn tuổi hơn, hoạt động lâu năm và có nhiều kinh nghiệm hơn như các đồng chí Ngô Gia Tự, Tôn Đức Thắng…đã dành nhiều thời gian, công sức bồi dưỡng đồng chí Tô Hiệu hệ thống lí luận chủ nghĩa Mác- Lênin, Luận cương chính trị của Đảng, kinh nghiệm vận động quần chúng công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh vận, kinh nghiệm công tác bí mật… “ở tù, Tô Hiệu học tập không tiếc sức mình vì biết rằng rồi đây trong cuộc đấu tranh cách mạng gay go, ác liệt sắp tới, anh sẽ phải huy động toàn bộ sức lực và trí tuệ, sẽ cần những lý luận sắc bén và kinh nghiệm vận động cách mạng mà anh được các đồng chí truyền lại”1. Cũng tại đây, Tô Hiệu chính thức trở thành đảng viên của Đảng cộng sản Đông Dương.

Lòng yêu nước, tư tưởng tiến bộ cách mạng của người chiến sỹ cộng sản Tô Hiệu còn thể hiện ở tinh thần hiếu học và mong muốn đồng bào được học hành, mở mang kiến thức. Sau khi mãn hạn tù, năm 1934, Tô Hiệu trở về làng Xuân Cầu. Tại quê hương, dù vẫn bị mật thám và bọn lý dịch trong làng theo dõi, Tô Hiệu không ngừng tổ chức các hoạt động nhằm nâng cao dân trí, dân sinh, nâng cao thể lực của thanh niên. Đồng chí đã lập ra “Hội nông dân tương tế”, tổ chức cho thanh niên trong làng tập võ, đánh cờ tướng… Đồng chí còn mở lớp dạy học tại nhà cho trẻ em trong làng. Qua lớp học, đã giáo dục lòng yêu nước, căm thù giặc cho các em. Dù bọn lý dịch sách nhiễu, nhưng được nhân dân ủng hộ, lớp học của đồng chí Tô Hiệu vẫn hoạt động bình thường. Không chỉ vậy, với mong muốn thế hệ trẻ trong vùng được mở mang kiến thức, Tô Hiệu đã vận động bà con trong làng và người làng làm ăn ở xa góp công, góp của xây dựng Trường Kiêm Bị Xuân Cầu, một hình thức trường tiểu học chỉ có ở huyện lỵ lúc ấy. Để dễ vận động bà con và củng cố mối đoàn kết xóm làng, đồng chí đã đề ra khẩu hiệu: “Kẻ góp của, người góp công; mong sao cho trường học chóng xong; tinh thần đoàn kết muôn năm!”

Là một đảng viên cộng sản, Tô Hiệu chú ý đến công tác xây dựng Đảng từ rất sớm. Cũng trong thời gian ở quê hương, Tô Hiệu còn bí mật tuyên truyền, vận động quần chúng, gây dựng cơ sở cách mạng. Nhà cụ Cả Y, thân mẫu đồng chí Tô Hiệu, trở thành một cơ sở cách mạng tin cậy của Đảng, là nơi nuôi giấu nhiều cán bộ trong Xứ ủy Bắc Kỳ như các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Huy Liệu... Tô Hiệu còn vận động, tuyên truyền lý tưởng cộng sản cho thanh niên yêu nước các vùng lân cận. Chi bộ cộng sản đầu tiên ở huyện Văn Lâm ra đời có sự đóng góp không nhỏ từ những lần tuyên truyền của đồng chí Tô Hiệu. Xứ ủy Bắc Kỳ được thành lập tại nhà của đồng chí Tô Hiệu, căn gác nhỏ phố Hàng Bột (Hà Nội)1. Trong thời gian là Bí thư Thành ủy Hải Phòng, Tô Hiệu chú trọng công tác tuyên truyền, rải truyền đơn, dán áp phích, nhằm thông báo cho dân chúng biết Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn tồn tại. Đồng thời, đồng chí còn đặc biệt coi trọng đấu tranh trên lĩnh vực báo chí. Đồng chí sáng lập ra tờ Chiến Đấu, cơ quan tuyên truyền của Liên tỉnh B, bản thân đồng chí vừa là chủ bút, vừa là phóng viên. Đồng chí còn giác ngộ, đào tạo nhiều cán bộ cách mạng. Nhiều đồng chí được Tô Hiệu đào tạo ngày ấy, đã trở thành cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước như đồng chí Nguyễn Thanh Bình (nguyên ủy viên Bộ chính trị, Thường trực Ban Bí thư), đồng chí Hoàng Ngân (Bí thư Trung ương Hội Phụ nữ Cứu quốc Việt Nam), đồng chí Ngô Minh Loan (nguyên Bộ trưởng Bộ Lương thực- Thực phẩm)… Bên cạnh đó, đồng chí Tô Hiệu còn rất quan tâm đến công tác công vận, lấy các cuộc đấu tranh của công nhân làm nòng cốt cho phong trào cách mạng của quần chúng. Do vậy, chỉ trong khoảng từ tháng 3/1939 đến tháng 8/1939, dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Hải Phòng, đứng đầu là đồng chí Tô Hiệu, Hải Phòng đã có tới 30 cuộc đấu tranh, bằng số cuộc đấu tranh của cả hai năm 1937, 1938 cộng lại. Các cuộc đấu tranh do đồng chí Tô Hiệu trực tiếp lãnh đạo đều nổ ra một cách vang dội. Điển hình là cuộc đấu tranh của công nhân Nhà máy Tơ (5/1939). Báo Bạn Dân ra ngày 21/6/1939 khẳng định đây là “cuộc đấu tranh kiên quyết nhất, có kỷ luật, có tổ chức, có giác ngộ giai cấp… là một tấm gương tranh đấu cho toàn thể anh em lao động toàn Xứ”. Báo cáo của bọn mật thám thực dân ngày 5/6/1939 ghi “Cuộc đình công ở Nhà máy Tơ là kết quả của một cuộc tuyên truyền, vận động bền bỉ, dẻo dai do một chi bộ hoạt động trong nhà máy chủ trương”.

Trong thời gian ở Nhà tù Sơn La, được bầu là Bí thư Chi bộ Nhà tù, Tô Hiệu vừa chú trọng đến công tác xây dựng Đảng, vừa quan tâm thành lập các tổ chức trong nhà tù (vì lúc ấy, tù chính trị ở Sơn La còn có cả những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng). Đồng chí Tô Hiệu đã vượt lên bệnh tật để tổ chức công tác giáo dục trong tù, viết nhiều tài liệu quan trọng cho Chi bộ, mở các lớp chính trị, quân sự, văn hóa, bồi dưỡng giảng viên, hướng dẫn các cuộc đấu tranh… Đặc biệt, trong hoàn cảnh lao tù, Chi bộ đã mở được Đại hội đại biểu toàn nhà tù bao gồm đại biểu các trại. Đại hội đã thành lập cơ quan điều hành thực hiện Nghị quyết của Đại hội là Uỷ ban Nhà tù, thảo luận chủ trương đấu tranh với bọn thống trị như chánh sứ, giám binh, xếp ngục, binh lính và viên chức của bọn cai trị. Đại hội còn bàn công tác vận động quần chúng và binh lính địch, bàn việc xây dựng đời sống nhà tù cả về chính trị, văn hoá và đời sống vật chất. Sau khi được Đại hội bầu, Uỷ ban Nhà tù đã tổ chức ra các ban giúp việc như Ban kinh tế, Ban cứu tế, Ban văn hoá giáo dục, Ban trật tự trong, Ban trật tự ngoài....để tuyên truyền cách mạng và đấu tranh với chế độ hà khắc của nhà tù. Từ đó đã có ảnh hưởng tới bên ngoài, ngăn cản được tác động của quy chế và chế độ quản lý hà khắc của nhà tù đế quốc, đồng thời thực hiện được chế độ dân chủ tự quản rộng rãi trong đời sống chính trị của nhà tù, khai thác đạt hiệu quả cao nhất các điều kiện vật chất eo hẹp của nhà tù. Đời sống vật chất và tinh thần của anh em tù nhân được đảm bảo. Tháng 5/1941, Tô Hiệu và Chi bộ Nhà tù Sơn La đã quyết định cho ra đời báo Suối Reo, cử đồng chí Trần Huy Liệu là chủ bút. Báo Suối Reo ra đời là một sự kiện lớn ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, cổ vũ động viên rất lớn đối với anh em tù nhân ở nhà tù Sơn La. Chi bộ Nhà tù Sơn La đã được Trung ương Đảng công nhận là một chi bộ đặc biệt, được nhận Chỉ thị, nghị quyết; có trách nhiệm lãnh đạo người tù bảo vệ cuộc sống, phát triển ảnh hưởng của cách mạng trong đồng bào địa phương… Sau này, nhiều chiến sỹ cộng sản là đảng viên Chi bộ Nhà tù Sơn La đều trở thành những cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội như đồng chí Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn Thanh Bình, Mai Chí Thọ…

Ý chí kiên cường của Tô Hiệu đã khiến quân thù phải khiếp sợ. Thời gian bị đày ra Côn Đảo, Tô Hiệu đã nhiều lần tham gia tổ chức vượt ngục, sự việc bại lộ, các đồng chí đều bị bọn cai ngục tra tấn, hành hạ dã man. Tô Hiệu bị giam trong khám với những người tù chính trị “đặc biệt nguy hiểm”. Tuy bị lao phổi, nhưng đồng chí vẫn cần mẫn học hành, trau dồi tri thức và kinh nghiệm hoạt động cách mạng. Những năm ở quê, bọn mật thám thực dân, bọn hào lý trong làng tuy biết Tô Hiệu tổ chức các hình thức hoạt động cho thanh niên là nhằm giác ngộ cách mạng mà vẫn không làm gì được. Khi trường Kiêm Bị Xuân Cầu do Tô Hiệu đứng ra vận động bà con góp sức xây dựng, tên Công sứ Bắc Ninh cũng phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” về dự lễ khánh thành…

Phẩm chất cộng sản kiên trung, bất khuất của Tô Hiệu còn được thể hiện khi đồng chí bị thực dân Pháp bắt lần 2, tại Hải Phòng. Dù bị bọn mật thám đánh đập dã man, đồng chí vẫn không hề hé răng tiết lộ tài liệu, cơ sở cách mạng. Trong phiên tòa xét xử Tô Hiệu và các đồng chí của mình, khi bị luận tội, dù thân thể tàn tạ do bệnh tật và đòn roi quân thù, đồng chí vẫn hiên ngang, dõng dạc tố cáo tội ác của thực dân Pháp và tay sai, khẳng định con đường cách mạng giải phóng dân tộc là con đường đúng đắn. Đặc biệt, ý chí sắt đá, kiên trung của Tô Hiệu thể hiện rõ nhất khi đồng chí bị đày ở nhà tù Sơn La. Dù bị đói rét và bệnh lao quái ác hành hạ, Tô Hiệu vẫn quyết không gục ngã. Tô Hiệu cùng với các đồng chí của mình biến nhà tù Sơn La thành trường học cách mạng, thành nơi đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cách mạng. Đồng chí đã không ngừng làm việc, viết các bài tuyên truyền, lý luận cách mạng, lãnh đạo anh em tù đấu tranh với quân thù, khiến bọn cai ngục và chính tên Công sứ Sơn La Cút - xô khét tiếng gian ác phải nể phục, run sợ.

Đánh giá về Tô Hiệu, đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã viết “Cuộc đời đồng chí tuy ngắn ngủi, những những cống hiến của đồng chí cho dân tộc và cho cách mạng thật là to lớn”.


2- Tấm gương, tinh thần Tô Hiệu là tài sản vô giá đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và của lịch sử dân tộc

Cuộc đời ngắn ngủi và hào hùng của đồng chí Tô Hiệu đã để lại bài học to lớn về truyền thống cách mạng không chỉ với lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng mà còn của cả dân tộc Việt Nam. Tấm gương hy sinh anh dũng, bất khuất của đồng chí là sự tiếp nối những gương anh hùng, liệt nữ trong lịch sử nước nhà: Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Bình Trọng, Nguyễn Trung Trực… Tinh thần yêu nước, “thà chết chứ không chịu làm nô lệ” của con dân nước Việt qua tấm gương Tô Hiệu ở thời đại Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục được nối dài theo từng giai đoạn lịch sử dân tộc, mỗi khi Tổ quốc bị các thế lực ngoại bang dòm ngó.



Tấm gương và tinh thần Tô Hiệu còn thể hiện ở thái độ lạc quan cách mạng. Trong địa ngục trần gian của chốn lao tù đế quốc, với vô vàn thiếu thốn, gian khổ về vật chất, sự hành hạ về tinh thần và vật vã với bệnh tật, Tô Hiệu vẫn động viên đồng chí, đồng đội của mình tin tưởng vào tương lai của cách mạng, tương lai của đất nước. Dù biết chắc chắn mình sẽ hy sinh vì bệnh lao phổi đã ở giai đoạn cuối, đồng chí càng hăng say viết tài liệu, viết báo, tuyên truyền và lãnh đạo Chi bộ Nhà tù Sơn La. Đồng chí tâm sự “mình biết chắc chắn rằng mình sẽ chết sớm hơn người khác, vì vậy phải tranh thủ thời gian để chiến đấu, phục vụ cho Đảng” và “mình chỉ e chết sớm không làm hết những điều dự định”1. ý thức bảo vệ uy tín của Đảng cũng được thể hiện rõ khi bệnh tật hành hạ, đau đớn, đồng chí vẫn kiên cường: “Chắc chắn mình không sống được. Mình có gan tự tử nhưng mình không muốn làm điều đó. Nó để lại nỗi buồn và sự day dứt cho anh em, bởi người không hiểu sẽ có những lời bàn tán không hay. Mặt khác, địch cũng sẽ có thể đặt nghi vấn, phiền phức”. Trước khi đi xa, đồng chí vẫn dặn lại các đồng chí của mình: “ánh sáng ngày mai đã ló ở phía chân trời, hãy chuẩn bị đương đầu với những thử thách lớn nhất”. Và trên hết, cây đào do đồng chí Tô Hiệu trồng tại Nhà tù Sơn La trong thời gian cuối đời, bị giam giữ ở đây đã trở thành biểu tượng không chỉ cho tinh thần đấu tranh bất khuất kiên cường của các chiến sỹ cộng sản tại Nhà tù Sơn La, mà còn là “biểu tượng của sức sống cách mạng vươn lên từ đất chết, là lời nhắn nhủ cho hậu thế rằng mùa xuân nhân loại, chủ nghĩa cộng sản sẽ ra hoa kết trái trên mảnh đất Việt Nam thân yêu”2. Năm 1975, Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chiết một cành của cây đào Tô Hiệu về trồng tại Lăng Người.

Bản lĩnh kiên cường, bất khuất, tinh thần lạc quan cách mạng của Tô Hiệu đã trở thành di sản quý báu trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng và lịch sử dân tộc Việt Nam. Đến nay, trên khắp đất nước, có hàng trăm trường học, đường phố mang tên Tô Hiệu. Đặc biệt, thành phố Hải Phòng, nơi đồng chí Tô Hiệu làm Bí thư trong những năm 1938, 1939, một thời được mang tên là Thành phố Tô Hiệu, bộ đội Hải Phòng thời kỳ kháng chiến chống Pháp được lấy tên là đơn vị Thành Tô; hiện nay, trường Chính trị của thành phố Hải Phòng có tên là Trường Chính trị Tô Hiệu; nói đến nhà tù Sơn La nhiều người vẫn quen gọi là Nhà tù Tô Hiệu… Hình tượng Tô Hiệu và cây đào Tô Hiệu đã trở thành hình tượng văn học, nghệ thuật quen thuộc đối với nhân dân Việt Nam và thế giới.


III - ĐỒNG CHÍ TÔ HIỆU VỚI QUÊ HƯƠNG HƯNG YÊN, QUÊ HƯƠNG HƯNG YÊN VỚI ĐỒNG CHÍ TÔ HIỆU

1- Đồng chí Tô Hiệu với quê hương Hưng Yên

Tấm gương, tinh thần Tô Hiệu sáng mãi trong lịch sử dân tộc. Đối với tỉnh Hưng Yên, ngoài những ảnh hưởng tốt đẹp của tinh thần Tô Hiệu trong công tác giáo dục truyền thống, những di sản cách mạng của đồng chí để lại cũng góp phần quan trọng xây dựng Đảng bộ, xây dựng quê hương. Mãn hạn tù ở Côn Đảo, bị chính quyền thực dân Pháp quản thúc ở làng Xuân Cầu, xã Nghĩa Trụ (Văn Giang), Tô Hiệu đã thành lập hội Truyền bá quốc ngữ, hội Tương tế, hội tập võ, hội bóng đá, hội bát âm, tổ đọc sách báo để tập hợp quần chúng tuyên truyền cách mạng. Phong trào phát triển nhanh, đồng chí đã vận động quần chúng đòi kỳ hào phải cải tổ hương thôn, chống hủ lậu, chống phụ thu, lạm bổ. Khi phong trào lên cao, đồng chí đã vận động quần chúng làm đơn kiện lý trưởng, đưa người trong tổ chức ra thay thế. Đó chính là tiền đề cho các cuộc đấu tranh tại khu vực Văn Giang, Văn Lâm... sau này. Trường Kiêm Bị Xuân Cầu do Tô Hiệu đứng ra tổ chức xây dựng đã đào tạo nhiều thế hệ học trò, trong đó, có nhiều người đã trở thành cán bộ trong bộ máy Đảng, nhà nước, đồng thời dân trí của cả một vùng quanh xã Nghĩa Trụ được mở mang. Bên cạnh đó, các thế hệ cán bộ cách mạng được đồng chí Tô Hiệu giác ngộ cũng đã trưởng thành, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp của Đảng. Chi bộ đầu tiên của huyện Văn Lâm ra đời (tại Lạc Đạo, Văn Lâm) có sự đóng góp công sức của Tô Hiệu đã lãnh đạo nhân dân Văn Lâm giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945…


2- Quê hương Hưng Yên đối với đồng chí Tô Hiệu

Tự hào là quê hương của đồng chí Tô Hiệu, noi gương những cống hiến của đồng chí Tô Hiệu đối với đất nước, phát huy tinh thần Tô Hiệu và vận dụng sáng tạo tinh thần ấy trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên đã thường xuyên quan tâm thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng và chăm lo việc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, Tỉnh uỷ đã xây dựng, ban hành 6 chương trình, 8 đề án; hoàn thành nhiều quy hoạch quan trọng như: Quy hoạch tổng thể phát triển KT – XH đến năm 2020, quy hoạch phát triển vùng đến năm 2030… Đặc biệt, năm 2011, Hưng Yên đã tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 180 năm thành lập tỉnh, 70 năm thành lập Đảng bộ tỉnh, 15 năm tái lập tỉnh và đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh, để lại trong cán bộ, nhân dân niềm tự hào sâu sắc về truyền thống cách mạng và văn hiến của quê hương. Từ đó quyết tâm đoàn kết, phát huy các nguồn lực, thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế- xã hội. Tính đến hết năm 2011, tổng sản phẩm của tỉnh (GDP) tăng 11,58%; giá trị sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản tăng 8,85%, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 15,54%, giá trị các ngành dịch vụ tăng 12,42%; thu nhập bình quân đầu người đạt 24,4 triệu đồng; cơ cấu kinh tế NN0-CN,XD-DV: 24% - 45% - 31%; kim ngạch xuất khẩu 762 triệu USD; thu ngân sách đạt 4.248 tỷ đồng, trong đó thu nội địa 3.150 tỷ đồng. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 0,96%; tỷ lệ hộ nghèo còn 9%; tạo thêm việc làm mới 2,3 vạn lao động; tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 94%; tỷ lệ làng, khu phố văn hoá 74%.

Sản xuất nông nghiệp phát triển khá toàn diện; năng suất, sản lượng và giá trị tăng cao; cơ cấu giống, trà vụ chuyển đổi mạnh theo hướng tích cực. Chăn nuôi, thuỷ sản phát triển khá ổn định. Kinh tế trang trại, các làng nghề, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển, giải quyết được nhiều lao động tại chỗ, tăng thu nhập cho người dân. Đang tiến hành lập Quy hoạch xây dựng Nông thôn mới và triển khai xây dựng ở 20 xã điểm. Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường được quan tâm, tỷ lệ hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 89,1%. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 22.948 tỷ đồng. Tiểu thủ công nghiệp được mở rộng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhất là các ngành nghề truyền thống, các mặt hàng xuất khẩu. Hợp tác đầu tư tiếp tục phát triển, điều kiện thu hút dự án đầu tư thuận lợi, số dự án đầu tư vào địa bàn tăng, các doanh nghiệp cơ bản chấp hành tốt các qui định của Nhà nước và của tỉnh. Tổng số dự án đầu tư trên địa bàn lên 921 dự án (trong đó 717 DA trong nước, 204 DA ngoài nước), với tổng số vốn đăng ký 49,6 nghìn tỷ đồng và 1,73 tỷ USD. Đã có thêm 43 dự án mới đi vào hoạt động, đưa tổng số dự án đi vào hoạt động lên 563 dự án, tạo việc làm thường xuyên cho gần 9 vạn lao động.

Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ 12.313 tỷ đồng. Xuất khẩu có nhiều thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu 762 triệu USD. Hệ thống giao thông vận tải từng bước được phát triển; đã cải tạo, nâng cấp và xây mới nhiều tuyến đường quan trọng, phục vụ tốt nhu cầu đi lại của nhân dân và tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Ngoài các trục đường 39A, 39B đã được nâng cấp, các đường đê tả sông Hồng, đường 200, đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng và đường nối giữa 2 đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng và Cầu Giẽ-Ninh Bình vv... đang tích cực thi công. Bưu chính, viễn thông phát triển mạnh mẽ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Công tác quản lý đất đai, tài nguyên và môi trường được tăng cường. Triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2011-2013.

Cơ bản hoàn thành quy hoạch xây dựng vùng; đang tích cực triển khai lập quy hoạch chung xây dựng các huyện Mỹ Hào, Văn Giang, khu đô thị mới Bô Thời - Dân Tiến. Đang triển khai các dự án Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường tại các thị trấn (giai đoạn II), dự án Hệ thống cấp nước thành phố Hưng Yên, dự án năng lượng nông thôn tại 48 xã. Dự án xây dựng hạ tầng thành phố Hưng Yên đã đàm phán xong, đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư.

Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên, điểm bình quân 3 môn thi đại học xếp thứ 3 toàn quốc, tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn và trên chuẩn tăng. Cơ sở vật chất cho giáo dục và đào tạo được quan tâm đầu tư. Tỷ lệ phòng học kiên cố cao tầng tăng: Mầm non đạt 62,9%, Tiểu học đạt 86,4%, THCS đạt 90,1%, THPT đạt 87,6% và GDTX đạt 60,7%. Đến hết năm 2011, tổng số trường đạt chuẩn quốc gia trong tỉnh là 185 trường. Đang triển khai lập quy hoạch chi tiết Khu Đại học Phố Hiến, hiện tại trường Đại học Thủy lợi đã được Chính phủ cho phép xây dựng tại Hưng Yên, đang tiến hành lập qui hoạch chi tiết, lập dự án và đang gấp rút lập phương án đền bù và GPMB; các trường Đại học Giao thông Vận tải, Đại học Ngoại thương đang khảo sát để đầu tư; tỉnh đã có chủ trương tiếp nhận Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội cơ sở Hưng Yên và Đại học Công đoàn.

Công tác đào tạo nghề được quan tâm, tăng quy mô, đa dạng hoá các hình thức dạy nghề. Toàn tỉnh hiện có 40 cơ sở dạy nghề và tham gia dạy nghề phát huy có hiệu quả, triển khai và thực hiện bước đầu có hiệu quả mô hình dạy nghề theo định hướng thị trường đáp ứng nhu cầu học nghề và sử dụng lao động có tay nghề của doanh nghiệp và xã hội.

Quản lý nhà nước về y tế có nhiều tiến bộ. Tập trung đầu tư xây dựng và cải tạo cơ sở vật chất tại các bệnh viện và Trung tâm y tế, thành lập mới Bệnh viện Sản Nhi. Đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật và áp dụng các kỹ thuật mới, nâng cao chất lượng phục vụ nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Duy trì ổn định mức tăng dân số tự nhiên 0,96%. Triển khai có hiệu quả đề án khám sức khỏe, tư vấn tiền hôn nhân, sàng lọc sơ sinh.

Các hoạt động văn hoá, văn nghệ diễn ra sôi động, đảm bảo yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị và phục vụ nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Công tác quản lý lễ hội được quan tâm, các lễ hội diễn ra đảm bảo vui tươi, lành mạnh, an toàn và tiết kiệm. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" ở cơ sở tiếp tục khởi sắc. Đang triển khai lập dự án Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo phát huy giá trị đô thị cổ Phố Hiến gắn với phát triển du lịch và Quy hoạch bảo tồn Khu di tích quốc gia Đình Đại Đồng, Chùa Nôm. Hoàn thành giai đoạn 2 trùng tu, tôn tạo di tích đền Đa Hoà, xã Bình Minh - Khoái Châu. Đang tích cực triển khai xây dựng tượng đài Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh. Phê duyệt Quy hoạch chi tiết 1/500 Khu liên hợp thể thao của tỉnh và đang lựa chọn nhà đầu tư để triển khai thực hiện dự án. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì thường xuyên. Công tác báo chí, xuất bản, phát thanh và truyền hình hoạt động đa dạng và phong phú, truyền tải kịp thời các thông tin về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội quan trọng của Đảng, Nhà nước và của tỉnh tới người dân.

Thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách ưu đãi đối với người có công và giải quyết tích cực những tồn tại, vướng mắc cho các đối tượng. Chương trình hỗ trợ xây dựng nhà ở cho gần 3.000 hộ nghèo theo tinh thần Quyết định 167 của Chính phủ đã cơ bản hoàn thành.

Công tác quốc phòng - quân sự địa phương đã được triển khai tổ chức thực hiện một cách toàn diện. Công tác bảo vệ an ninh chính trị được giữ vững, an ninh xã hội, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, nội bộ được đảm bảo, an ninh nông thôn diễn biến ít phức tạp. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai rộng khắp, đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm.

Tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp về cải cách hành chính. Thực hiện và triển khai có hiệu quả cơ chế "một cửa", "một cửa liên thông" gắn với rà soát đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Các quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật ngày một chặt chẽ và chất lượng được nâng cao. Tổ chức triển khai thực hiện cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016 thành công tốt đẹp, đảm bảo đúng Luật, an toàn và tiết kiệm.

Công tác xây dựng Đảng được chú trọng trên tất cả các lĩnh vực: tư tưởng- chính trị, tổ chức… Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên có nhiều đổi mới. Coi trọng nhiệm vụ xây dựng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tiếp tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tạo sức lan toả trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, khơi dậy phong trào thi đua sâu rộng trong xã hội. Việc nghiên cứu, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Đảng được các cấp ủy tiến hành nghiêm túc, kịp thời, gắn với xây dựng chương trình hành động sát thực, khả thi, đưa nghị quyết vào cuộc sống. Các hoạt động tuyên truyền được duy trì, có chất lượng khá. Đội ngũ báo cáo viên được kiện toàn và hoạt động tích cực. Tài liệu tuyên truyền, thông tin được phát hành thường xuyên, tăng lượng thông tin và số lượng phát hành. Công tác giáo dục truyền thống được quan tâm, đa dạng hoá bằng nhiều hình thức phong phú, có tác dụng giáo dục tốt.

Tập trung củng cố, phát triển và xây dựng tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên bằng những chủ trương và giải pháp thiết thực. Tiếp tục thực hiện chương trình xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh; nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng sinh hoạt. Công tác đánh giá, phân loại, khen thưởng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên, cán bộ làm công tác xây dựng Đảng đảm bảo dân chủ, công khai và thiết thực hơn. Bình quân hàng năm, số tổ chức cơ sở đảng đạt TSVM là 81,42%, số yếu kém giảm còn 0,6%; đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ đạt trên 71% (hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đạt 12,4%), số vi phạm tư cách giảm còn 0,47%. Phát triển đảng viên mới bảo đảm về chất lượng, tăng tỷ lệ là đoàn viên thanh niên, công nhân, trí thức; trung bình hàng năm kết nạp trên 1.500 đảng viên.

Công tác cán bộ được tiến hành đồng bộ các nội dung, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở có bước trưởng thành về mọi mặt, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý thực hiện đúng quy định. Coi trọng xem xét tiêu chuẩn cán bộ trước khi đề bạt.

Công tác kiểm tra được coi trọng, ủy ban kiểm tra các cấp được kiện toàn về tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động. Đẩy mạnh hoạt động giám sát. Góp phần tích cực giáo dục cán bộ, đảng viên, ngăn ngừa vi phạm, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, giữ gìn sự trong sạch của Đảng, củng cố lòng tin trong Đảng bộ và nhân dân.

Công tác dân vận được quan tâm, đã kiện toàn bộ máy cán bộ làm công tác dân vận, 100% bí thư đảng ủy cấp xã kiêm trưởng khối dân vận cơ sở. Phong trào thi đua “Dân vận khéo” được triển khai đạt nhiều kết quả. Nhận thức, trách nhiệm và thực hiện công tác dân vận của hệ thống chính trị được nâng lên, có nhiều chuyển biến.

Phương thức lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng tiếp tục được đổi mới, phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo và đảm bảo hoạt động theo quy định pháp luật của các tổ chức trong hệ thống chính trị; dân chủ trong Đảng được phát huy và mở rộng. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan Đảng từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được đổi mới theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân; tăng cường đôn đốc, kiểm tra thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng.

* * *

Ghi nhớ những đóng góp to lớn của đồng chí Tô Hiệu với cách mạng Việt Nam nói chung, tỉnh Hưng Yên nói riêng, Đảng bộ và nhân dân Hưng Yên đã nhiều lần tổ chức cho cán bộ, nhân dân đến nhà tù Sơn La, thăm viếng nơi đồng chí bị thực dân Pháp giam cầm và đã anh dũng hy sinh. Đồng thời, nhằm tạo thêm một địa chỉ văn hóa, giáo dục truyền thống cho thế hệ tương lai, Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã quyết định xây dựng Nhà lưu niệm đồng chí Tô Hiệu tại xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang. Nhà lưu niệm được xây dựng tại khu đất cũ của gia đình. Tại đây trưng bày nhiều hình ảnh và hiện vật về thân thế, sự nghiệp của liệt sỹ Tô Hiệu và gia đình đồng chí. Trên nền đất trong khuôn viên Nhà lưu niệm, hiện có cây đào được nhân giống từ Cây đào Tô Hiệu do Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Sơn La đem về trồng. Trên địa bàn tỉnh, có nhiều công trình, đường phố, trường học được mang tên Tô Hiệu, trong đó, ngôi trường tiểu học và trung học cơ sở Tô Hiệu tại xã Nghĩa Trụ quê hương đồng chí được xây trên nền trường Kiêm Bị do đồng chí vận động xây dựng năm xưa.

Kỷ niệm 100 năm Năm sinh của đồng chí Tô Hiệu (1912- 2012), người con ưu tú của quê hương Hưng Yên, người cộng sản kiên cường, bất khuất, trọn đời chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, vì độc lập tự do của dân tộc, chúng ta ôn lại cuộc đời hoạt động và những cống hiến to lớn của đồng chí đối với Đảng và cách mạng Việt Nam, những tình cảm sâu sắc của đồng chí với quê hương Hưng Yên. Đồng thời, qua đó tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa yêu nước, tấm gương đạo đức sáng ngời của các thế hệ đi trước để các thế hệ hôm nay học tập, noi theo. Phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII đã đề ra, đưa Hưng Yên cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại trước năm 2020.

6/3/2012

 ✯✯ 




0 nhận xét:

Post a Comment