Hoàng Thái Hậu Đào Thị

Monday, September 12, 2011
_ Nhà văn, nhà báo Đào Ngọc Du _

Từ hàng trăm năm nay, ở vùng Nhân Vực, Nhân Thục, Đồng Tỉnh, Hoa Cầu thuộc trấn Kinh Bắc - Bắc Ninh xưa, nay là xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, người dân thường kể cho nhau nghe những giai thoại về bà Hoàng Thái Hậu Đào Thị.


Có câu chuyện rằng: Những lần bà đi làm đồng, hôm đó dù trời nắng hay trời mưa cũng đều có mây bay theo trên đầu, những người đi cùng lấy làm ngạc nhiên, bàn tán và hỏi bà: Mỗi khi thấy mây bay trên đầu có thấy gì khác không? Bà không cần suy nghĩ, đáp ngay:

Mây đen, mây trắng, mây vàng
Mây nào thì cũng làm tàn che ta

Nhiều người già trong làng lấy làm lạ cho rằng cách trả lời của bà có cái gì đó giống khẩu khí của những bậc đế vương.
Lại gặp một câu chuyện khác: Cha bà là ông Đào Phúc Kiên, mẹ là Đào Quý Tịnh, ngoài việc đồng áng, ông còn là một thợ mộc giỏi, lại có hoa tay vẽ tranh, ông thường vẽ tranh bán ở các chợ quê. Vợ mất sớm, ông phải chịu cảnh gà trống nuôi con. Để có thể nuôi thân, nuôi con, ông đã rời quê ra phố Nam Ngư, Hà Nội kiếm sống. Một hôm, triều đình tổ chức thi tuyển thợ giỏi và những người có hoa tay vào sửa chữa, trang trí các cung điện trong hoàng thành. Ông ghi tên xin thi và đề thi của ông là bức tranh vẽ quả dưa bở vùng quê ông. Tranh vừa vẽ xong thì đã có trống báo nộp bài, mà tranh vẫn còn ướt, bí quá, ông đem ra nắng phơi, những nét sơn vẽ co lại tạo ra những rãnh nứt loằng ngoằng, ông lo quá, nhưng không ngờ quan chấm thi lại rất thích và khen là đẹp.

Thế là bức tranh của ông được chọn, ông được tuyển vào cung làm việc, đi theo ông là cô con gái yêu Đào Thị, cô gái quê Đào Thị ở tuổi trăng tròn đã lọt vào mắt xanh nhà vua trẻ, Đào Thị trở thành tiệp nữ của vua Lê Thuần Tông. Ít năm sau, Đào Thị sinh được một hoàng tử, đặt tên là Duy Diêu. Đó chính là vua Lê Hiển Tông sau này. Bấy giờ, người dân quê bà lại tin vào câu chuyện mây bay trên đầu và bàn tán suy luận về câu chuyện đó khi bà còn sống ở quê như là một dự báo về số phận của bà.

Thêm một câu chuyện nữa: Có lần bà về quê, qua đò gặp người làng Nhân Vực, nhận ra người quen cùng làng, bà xin cho những người đó không mất tiền đò, thấy vậy, những người làng khác đi cùng cũng nhận mình là người làng Nhân Vực để được không phải trả tiền đò, vì thế đã gây ra rắc rối.

Để phân biệt những người làng Nhân Vực với những người làng bên, bà nghĩ ra một cách là phải làm sao cho người làng Nhân Vực khác với người các làng khác. Bà tâu với vua xin nhà vua ban cho người làng Nhân Vực một đặc ân, và nhà vua đã xuống chiếu cho phép tất cả người làng Nhân Vực được đội nón có quai đỏ và, đi đò không phải trả tiền.

Hoàng Thái Hậu Đào Thị sống vào thời vua Lê, chúa Trịnh, thời kỳ mà đất nước loạn lạc, giặc giã nổi lên khắp nơi, xã hội rối ren. Tuy vậy, bà vẫn sống mẫu mực trước vua và quan, quân triều đình, nuôi dạy hoàng tử sau này trở thành vua Lê Hiển Tông, vị vua cuối cùng của nhà Lê trị vì đất nước suốt bốn mươi sáu năm.

Bà là Hoàng Hậu, rồi Hoàng Thái Hậu nhà Lê nhưng nhà Trịnh lấn át, tiếm quyền vua Lê, bà phải chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ. Đến này nhiều người còn nhớ câu chuyện bà bị Trịnh Sâm trả thù: Một hôm bà thấy Trịnh Sâm ngồi ngang hàng với vua, bà nhắc: Chúa ngồi như vậy là không được, Trịnh Sâm ức lắm. Khi bà mất, nhà Trịnh trả thù đã hoãn việc phát tang, lấy cớ bận việc quân và ba năm sau nhà Trịnh mới cho cử hành lễ an táng bà. Không chỉ bà mà cả dân tộc Việt thời đó cũng chịu thiệt thòi, mất mát như bà.

Sau đó đất nước lại rơi vào nhiều cuộc chinh biến liên miên. Tiếp đến là những cuộc chống ngoại xâm của dân tộc. Do đó, các tài liệu lịch sử nói về bà như thần phả, đền thờ của bà bị tàn phá, thất lạc, đã hàng trăm năm nay chỉ còn trong truyền thuyết dân gian.

Tháng 4 năm 2011, tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ đã tìm ra và biên soạn những tài liệu lịch sử chính xác về quê hương và sự nghiệp của bà, Viện sử học đã có văn bản ký đóng dấu, xác nhận.

Theo tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ thì Hoàng thái hậu Đào Thị là vợ vua Lê Thuần Tông (1732-1735), mẹ vua Lê Hiển Tông (1740-1786), bà mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Ất Mùi (1775) tại kinh đô Thăng Long, được an táng tại làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Hà Nội – nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.

Hoàng thái hậu Đào Thị, tên Thụy là Nhu Thận, quê gốc người làng Nhân Vực, xã Bảo Vực, huyện Văn Giang, thuộc trấn Kinh Bắc xưa. Sau đổi thành xã Thọ Vực, thuộc tổng Xuân Cầu, tỉnh Bắc Ninh (Xã Thọ Vực lúc đó có ba thôn: thôn Nhân Vực, thôn Nhân Thục, thôn Thủ Pháp) nay là xã Nghĩa Trụ huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Khi đã là Hoàng hậu, rồi Hoàng thái hậu, bà vẫn sống gần dân, gắn bó với quê hương. Đến nay người dân Nghĩa Trụ cũng như dân trong vùng vẫn còn nhớ câu ca mà mỗi lần về thăm quê, bà thường đọc cho các bô lão trong vùng nghe:

Đến nay đã là vợ vua
Ta vẫn còn thích canh cua đầm lầy

Đã hai trăm ba mươi sáu năm kể từ ngày bà mất, nhưng hình ảnh Hoàng thái hậu Đào Thị - người vùng Nghĩa Trụ còn gọi là Đào Thị Ngọc Liễu – vẫn sống trong lòng người dân Nghĩa Trụ cũng như người dân đất Việt.




Nhà văn, nhà báo Đào Ngọc Du
Trường ban lịch sử truyền thống họ Đào Việt Nam



Xem thêm: Nhu Thuận hoàng hậu - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia


0 nhận xét:

Post a Comment